MỤC LỤC:
GIỚI THIỆU NỘI DUNG thượng hạ cầu sách : (Tìm tòi từ trên xuống dưới) SỰ TÌM TÒI CỦA CÁC NHÀ HIỀN TRIẾT TRUNG QUỐC THUẬT CHIÊM BỐC Phát minh thuật bói rùa Sự ra đời của bát quái 64 quẻ và “Kinh Dịch” Bói cỏ thi và phương pháp bói cỏ thi "Liên sơn", “Quy tàng" và "Chu dịch” Xem bói "Kinh Dich" : Thái độ xử thế tích cực Sự phong phú của lí thuyết chiêm bốc Cải tiến công cụ chiêm bốc Các loại thuật chiêm bốc Công dụng của việc bói cỏ thi THUẬT CHIÊM TINH Tinh tượng và lich pháp Sự sùng bái các sao Các sao chinh và hàm ý của nó Phân dã với hiệu ứng thiên trường Ứng dụng thuật chiêm tinh trong quân sự Tinh tượng với sự hưng suy quốc vận Thuật tinh bốc và vận mệnh cá nhân THUẬT ĐOÁN MỆNH Thuật đoán mệnh và cơ may của con người. Định nghĩa vận mệnh Thực chất của vận mệnh Đặc điểm của vận mệnh Phê phán đối với vận mệnh quan xưa Đoán mệnh theo Ngũ hành Phương pháp đoán mệnh theo ngũ hành và tứ thời Bàn về Giáp Mộc Bàn về Ất Mộc Bàn về Bính Hỏa Bàn về Đinh Hỏa Bàn về Mậu Thổ Bàn về Kỉ Thổ Bàn về Canh Kim Bàn về Tân Kim Bàn về Nhâm Thủy Bàn về Quý Thủy Mệnh phả của các danh nhân xưa và nay 1. Mệnh phả của Gia cát Lượng 2. Mệnh phả của Thiệu Ung 3. Mệnh phả của Tôn Trung Sơn 4. Mệnh phả của Hoàng Hưng THUẬT QUÁI ẢNH QUỸ CÁCH Phí Hiếu Tiên quái ảnh "Dương Trừu Mã" quái ảnh THUẬT SẤM VĨ Sấm ngữ (Lời sấm) Thơ sấm Tranh sấm THUẬT BÀNG MÔN TÁ Thuật kì môn Thuật Lục Nhâm Thuật Thái Ất TÍNH CÁCH KHÓ THAY ĐỔI THIÊN THỜI VÀ TÍNH CÁCH THUYẾT TÍNH CÁCH THEO NGŨ HÀNH Thuyết tính cách của các nhà hiền triết Trung Quốc Những suy nghĩ về Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Đặc trưng cá tính theo ngũ hành Bí quyết lấy dài bù ngắn ĐỊA CHI VỚI DUYÊN PHẬN CON NGƯỜI Giải thích cầm tinh con vật của Địa chi Đặc trưng tính cách theo cầm tinh 12 con vật Phương pháp tìm duyên phận PHÂN LOẠI TÍNH CÁCH BẨM SINH Thuyết cá tính mang đặc trưng Trung quốc Tổ hợp tính cách mới Tính cách của bạn THIÊN CƠ TIẾT LỘ : THIÊN THỜI VÀ QUỐC VẬN “THÔI BỐI ĐỒ” Truyền thuyết của 'Thôi bối đồ" Dự đoán Chu Ôn cướp Đường và Hậu Đường sau khi triều Đường bị diệt. Dự đoán mười nước thời Ngũ Đại diệt vong Dự đoán Tống triều khai quốc Dự đoán Nguyên triều khai quốc Dự đoán Minh triều kỉến quốc Dự đoán Thanh triều vào làm chủ Trung Nguyên Dự đoán khai sinh Trung Hoa Dân quốc "BÀI CA BÁNH NƯỚNG" "Bài ca bánh nướng" của Lưu Bá Ôn Dự đoán vận số triều Minh Dự đoán người Trung Quốc cắt tóc Dự đoán về thế kỉ 21 ANH HÙNG VẬN THẾ : THIÊN THỜI VÀ NHÂN SINH NGƯỜI BIẾT THỜI THẾ LÀ TUẤN KIỆT Thời thế tạo anh hùng Quẻ Càn: Rồng và thiên thời Sáu thời kì lớn phát triển sự nghiệp cá nhân THỜI KÌ ẨN NÁU - THUẬT CỐ CHỊU ĐỰNG Sư trả giá của ẩn náu Học để làm quan Gia Cát Lượng ở ẩn tạỉ Nam Dương Ngô Khởi bị từ chối không cho học Đốt cháy đường sàn và tu sửa đường sàn
|
Lưu Bị khéo mượn sấm che mình Cái chết của Dương Tu Biểu lộ mình không có khả năng Tôn Tẫn giả điên Lưu Bang trước và sau Hồng Môn yến Câu Tiễn cố chịu nhục Vương Mãng tiếm quyền Đặng Tiểu Bình không giả dối Chu Ân Lai "rút củi cháy khỏi đáy nồi" Cái thất bại của Lâm Bưu THỜI KÌ HIỂN HIỆN - THUẬT HIỂN HIỆN Sau lúc ban lệnh "đuổi khách" Ẩn ngữ của cô gái xấu can gián Quốc vương Tử Cống và Tử Lộ Con cáo Lâm Bưu mượn oai hổ Bán mình để nhờ và và chọn người tốt để nương thân Gia Cát Lượng ra đi sau ba lần mời Mao Toại tự tiến cử Ngô Khởi mưu cầu làm tướng Quan Vân Trường chốc lát chém chết Hoa Hùng Tây Môn Báo trị vì Nghiệp huyện Tư Mã Nhương Thư chỉnh quân Tôn Tẫn đua ngựa Thương Ưởng biến pháp Lí Thế Dân dấy binh dựng Đường Trời phù hộ THỜI KÌ TRƯỞNG THÀNH - THUẬT PHÒNG HỌA Bát trưng pháp của Khương Thái công Hãy chú ý phía sau quà tặng Mỗi người đều có lúc vứt bỏ vai diễn của mình Nên biết cái gì anh ta chán ghét nhất. Cách nhìn hai mặt của âm dương Hãy lưu ý tới từng việc bên mình Hãy kiềm chế sự bành trướng lòng hám danh lợi Phép khai thông thuận thế Lừa dối qua ải Bịa đặt ra một cảnh tượng giả để mọi người tin Phòng họa khi chưa xảy ra Hãy để cho cấp trên cho rằng bạn không có dã tâm THỜI KÌ LỚN MẠNH - THUẬT LỚN MẠNH Tào Tháo cấp thắng tiến quân, bị bại ở Xích Bích Cấp lúc người ta nguy cấp Mao Trạch Đông nhân cơ hội nắm thời cơ Gia Cát Lượng nhờ lửa để cướp Chu Vũ Vương nhân lúc suy yếu đánh vào Việc lớn trong thiên hạ đều có phân có hợp Mao Trạch Đông nói: Nếu Giải phóng quân không đi theo ông Mạnh Thường Quân nuôi ba ngàn kẻ sĩ Thái tử đã đủ vây cánh Không nên gây thù địch quá nhiều THỜI KÌ CƯỜNG THỊNH - THUẬT THÀNH CÔNG Sau khi Trần Thắng lên vương Lý trí cuối cùng khó giữ Nơi quy tụ của 108 anh hùng Bành trướng sự thành công Viên Thế Khải ngóc dậy Võ Tắc Thiên bêu xấu kẻ gièm pha và chọn người hiền Nguyện ước ban đầu của Lỗ Chi Dụ Lưu lại cho người đời sau Quảng Bình vương vì muốn dân Tràng An xuống lạy Làm theo cái "vốn dĩ" Kế dòng nước sạch của Lí Thế Dân Kế lo xa của Lã Di Giản THỜI KÌ SUY BẠI - THUẬT HƯNG BẠI Giả thuyết "Ngân hàng tương lai đáp ứng" 5000 cân dầu thô chỉ đổi được 1 cân rượu Mao đài Đường Huyền Tông gạt lệ tại trạm Mã Ngôi Lời thế Tức Nhưỡng của Cam Mậu Minh Thái Tổ dùng pháp luật cứu suy sụp Sư diệt vong của Đông Ngô Gia Cát Lượng khai phá miền Tây Nam Tinh thần "không sự sống" BIẾT TRỜI BIẾT TA TỰ PHÁT HIỆN VẬN THẾ LÀ THỜI CƠ, LÀ VẬN HỘI Thiên thời với sức khỏe Thời cơ đẹp nhất của đời người Năm loại tuổi của con người GIÁC QUAN THỨ 6 ESP thần bí Thần thái và vầng quang Hãy lưu ý tới cảnh vật quanh mình TƯỚNG THUẬT TRUNG QUỐC Ý nghĩa của thuật tướng tay Thuật vận mệnh lưu niên Bộ râu của Hạ Long THUẬT ĐOÁN MỘNG Đoán mộng cho mình Ám thị của mộng Phương pháp phân giải mộng Đoán mộng cần đọc : ý nghĩa tượng trưng của mộng o Mộng có liên quan với tiền tài o Mộng có liên quan với sự nghiệp o Mộng có liên quan với gia sản o Mộng có liên quan với sức khỏe o Mộng có liên quan đến yêu đương và hôn nhân o Mộng có liên quan đến phúc họa |
Phương thuật Trung Quốc bắt nguồn từ tầng thứ cao nhất của triết học cổ đại, song nó lại diễn ra dưới hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất. Hàng mấy ngàn năm nay, những phương thuật này được vận dụng vào các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn nghệ, v.v... chứa đầy màu sắc thần bí, huyễn hoặc mà từ trước đến nay đã tạo nên những ảnh hưởng cực kì quan trọng đối với sinh hoạt xã hội, sự hình thành trạng thái tâm linh văn hóa của người Trung Quốc. Giới Thiệu Nội Dung Phương thuật Trung Quốc bắt nguồn từ tầng thứ cao nhất của triết học cổ đại, song nó lại diễn ra dưới hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất. Hàng mấỵ ngàn năm nay, những phương thuật này được vận dụng vào các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học kĩ thuật, văn nghệ, v.v... chứa đầy màu sắc thần bí, huyền hoặc mà từ trước đến nay đã tạo nên những ảnh hưởng cực kì quan trọng đối với sinh hoạt xã hội, sự hình thành trạng thái tâm linh văn hóa của người Trung Quốc. Qua nhiều năm nghiên cứu và chỉnh lí, từ ba phương diện lớn : Thiên thời, địa lợi, nhân hòa thông qua khía cạnh thực tiễn tùy cơ ứng biến của đời người, vận dụng tư duy mới, thành quả mới của nền khoa học hiện đại, tác giả đã giới thiệu lí thuyết và phương pháp của phương thuật Trung Quốc. Phần "Thiên thời" giới thiệu các phương pháp làm thế nào để nhận thức quy luật phát triển xã hội, đặc điểm biến đổi của thời đại và giành được cơ may của đời người như : chiêm tinh thuật, sấm vĩ thuật, chiêm bốc thuật, đoán mệnh thuật, quái ảnh thuật, tướng diện thuật, viên mộng thuật v.v... Phần "Địa lợi" giới thiệu các phương pháp làm thế nào để nhận thức và lợi dụng hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên như kì môn thuật để lựa chọn phương hướng tốt nhất, Thông thiên thuật dự đoán khí tượng, Quan nhân thuật thông qua tính khu vực phán đoán khí phách con người và Phong Thủy thuật lợi dụng ưu thế địa lí. Phần "Nhân hòa" giới thiệu phương pháp làm thế nào để nhận biết người và dùng người. Căn cứ kết quả nghiên cứu trong nhiều năm, tác giã đã sáng tạo ra một mô thức khoa học hành vi độc đáo : mô thức nhu cầu ngũ hành. Tác giả đã kết hợp một cách hữu cơ thuyết nhu cầu tâm lí của Maslow có ảnh hưởng nhất ở phương Tây với thuyết âm dương ngũ hành cổ đại của Trung Quốc, tổng kết thành phương pháp dùng người, hễ thực hiện là có hiệu quả rõ rệt. Nội dung sách phổ thông dễ hiểu, dễ học, dễ sử dụng, nhằm giúp bạn đọc trong chừng mực nhất định tìm hiểu được phần nào phương thuật Trung Quốc, trong xã hội đang thi thố nhân tài ngày nay có thể "thẩm thời độ thế", cân nhắc thiệt hơn để giành được thành công trong cuộc sống của mình. Phần thiên thời : NGUYÊN AN dịch. Phần địa lợi, nhân hòa : NGUYÊN VĂN MẬU dịch. Người dịch thượng hạ cầu sách : SỰ TÌM TÒI CỦA CÁC NHÀ HIỀN TRIẾT TRUNG QUỐC THUẬT CHIÊM BỐC Thời đại thần quyền tiền sử, bộ lạc sớm nhất của dân tộc Trung Hoa đã từng sống cả một miền dọc theo sông Hoàng Hà đến tận Tây phần tỉnh Sơn Đông thuộc miền đông trung du sông Vị. Trong cuộc sống đánh cá và săn bắt, họ bắt đầu tìm hiểu đối với tự nhiên. Có quá nhiều nghi vấn đối với sự biến đổi của tự nhiên nên đã có một số thuật sĩ đi tìm những điều bí ẩn đó xuất hiện. Những thuật sĩ thông minh có nhiều hiểu biết và tâm đắc đối với sự vật, đã dự đoán sự biến đổi khí hậu thiên nhiên có độ chuẩn xác nổi bật do đó đã giành được sự tin cậy và tôn sùng của mọi người trong bộ lạc. Cuối cùng, chính họ và cả phương pháp quan trắc của họ đã được nêu lên và cố định trở thành những ông quan văn hóa cổ xưa nhất trên vùng đất hoang thổ này. Công cụ các thuật sĩ sử dụng khá đơn giản, chỉ là một con rùa đen. Rùa đen là loại động vật biết bò, thân rùa dẹt phẳng, trên mai rùa có một lớp vỏ cứng màu nâu đen, phía trên mặt là những hoa văn. Rùa đen không những có thể hoạt động trên đất cạn mà còn có thể sống ở dưới nước. Sự trọng thị đối với rùa đen, xuất phát từ hai nhận thức : một là rùa đen có năng lực hoạt động cả trên cạn và dưới nước, so với các loại động vật khác nó tỏ ra có khả năng nổi bật, nên đã được những người đánh cá và săn bắt ngưỡng mộ, sùng bái; hai là những hoa văn trên mai rùa đã làm cho các thuật sĩ ngạc nhiên mãi không thôi. Họ cho rằng những hoa văn này tượng trưng cho một loại ý chỉ của trời. Trong lòng người bộ lạc nguyên thủy, sự biến đổi của các hiện tượng tự nhiên và mọi hoạt động của xã hội loài người đều chịu sự chi phối của một sức mạnh nào đó. Do đó họ đã sáng tạo ra Thượng đế, một sự sáng tạo vừa vĩ đại vừa ngu xuẩn. Các hoa văn trên mai rùa được họ cho là sách của Thượng đế, nên đã từng có một loạt người chuyên nghiên cứu mai rùa. Chính sự nghiên cứu mai rùa đã sản sinh ra nền văn hóa Trung Quốc. Các hoa văn trên mai rùa sau khi chỉnh lí lại đã hình thành chữ viết tượng hình sớm nhất của Trung Quốc. Ý chỉ của Thượng đế về sau được diễn biến thành Thiên mệnh. Thủ lĩnh của bộ lạc liền trở thành nguời làm việc theo lệnh trời, cho nên những việc họ làm đều là những việc Thượng đế bảo họ làm như thế. Bói rùa cũng như Sử, Phệ, Chúc (lời khấn) đều đứng ra làm việc nối liền công việc giữa thần linh và con người. Các thuật sĩ bói rùa không những có thể suy đoán khí hậu thiên nhiên mà còn có thể xem được các điều lành dữ. Từ những việc lớn như sự tồn vong của bộ lạc, đến việc nhỏ như cát hung của mỗi cá nhân, không việc gì là không xem và bói toán cả. Nghe nói, mọi khi trong bộ lạc có sự kiện trọng đại nào xảy ra thì thủ lĩnh của bộ lạc đều phải triệu tập toàn bộ người trong bộ lạc lại, sau đó đốt mai rùa để xem bói lành dữ. Bốc từ đã ghi : Đế lệnh vũ túc niên ? Đế lệnh vũ phất kĩ túc niên ? Chính là xem tình hình mưa gió và thu hoạch. Lại như : phạt cát phương, Đế thụ phạt hựu ? Chính là dùng mai rùa để xem phương hướng tốt để đem quân di đánh nhau, để giành được thắng lợi. Những ví dụ loại này còn rất nhiều. Ngày nay chúng ta nhìn lại xem chừng rất ấu trĩ, nhưng trái lại lại bày tỏ sự tìm tòi của con người đối với sức mạnh siêu nhiên nằm ngoài khả năng của mình. Sức mạnh siêu nhiên mà về sau này nói đến chính là Thiên thời. Nó là một loại công năng kết cấu, các nhà triết học gọi nó là tính tất yếu. Từ sự hiểu biết và lí giải tính tất yếu, có thể nhìn thấy trình độ trí tuệ của một bộ lạc hoặc một cá nhân. Sự phát minh ra bốc phệ, với khoa học ngày nay thật ra không thể xem là việc làm cao siêu, nhưng ít nhất nó cũng đã chứng minh các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đã có tài trí tương đối thông minh. Sự ra đời của bát quái CÀN KHẢM CẤN CHẤN TỐN LI KHÔN ĐOÀI Theo truyền thuyết bát quái là do Phục Hi sáng tạo ra. Sách "Dịch - Hệ từ hạ truyện" nói : "Cổ giã Bao Hi thị chi Vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng vu thiên, phủ quan pháp vu địa, quan điều thú chi văn dữ địa chi nghi; cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, vu thị thủy tác bát quái". Đại ý nói : Từ thời cổ xưa họ Bao Hi làm Vương từ của thiên hạ ngẩng đầu lên quan sát thiên tượng, cuối xuống nhìn thấy phép biến đổi trên đại lục, xem các màu sắc hoa văn của chim bay thú chạy và cả cỏ cây sống núi sinh trưởng trên đất. Gần thì chọn hình ảnh của chính mình, xa hơn thì chọn hình tượng của vạn vật bắt đầu sáng tạo ra bát quái Nếu như truyền thuyết này đáng tin cậy thì người đứng đầu trong hàng ngũ những nhà bói rùa cổ đại của Trung Quốc phải là họ Phục Hi. Trong chuyện thần thoại nói Phục Hi chính là thần văn hóa mặt người mình rắn, vợ ông là bà Nữ Oa luyện đá vá trời. Bát quái của Phục Hi vạch ra lần lượt đại diện cho tám loại vật tượng : Thiên, Thủy, Sơn, Lôi, Phong, Hỏa, Địa, Trạch. Hơn nữa trong đó mỗi cặp gồm hai quẻ đối lập nhau. Ví dụ : Càn đại diện cho Thiên (Trời) và Khôn đại diện cho Địa (Đất), Khảm đại diện cho Thủy và Ly đại diện cho Hỏa. Khái niệm đối lập là tinh hoa của môn Quy bốc học. Do đó sự phát sinh thuật bói rùa đã sản sinh ra tư tưởng biện chứng thuần phác cổ xưa. Xuyên qua bầu không khí thần bí của Quy bốc học, chúng ta có thể nhìn rõ những tia sáng phản chiếu trí sáng suốt nhìn thấy cả tương lai xa xôi của các nhà hiền triết cổ Trung Quốc. Dịch học về sau cho rằng : Lưỡng nghi sản sinh ra Tứ thời. Nghĩa là: Thái cực sinh âm dương. Âm dương sinh tứ thời, tứ thời sinh bát quái. Tứ thời là : Thiếu dương, Thiếu âm, Lão dương, Lão âm cũng còn gọi là Bốn mùa. Trên thực tế Bát quái là tám hình vẽ khác nhau. Mỗi quái (quẻ) là gồm 3 vạch đường nằm ngang tạo thành. Toàn bộ bát quái gồm 2 loại đường vạch tạo thành : một loại đại diện dương, một loại khác là đại diện âm. "Một âm một dương gọi là đạo". Đạo chính là quy luật tự nhiên. Vì thế âm dương không chỉ là 2 yếu tố lớn tạo thành vũ trụ mà nó còn đại biểu thuộc tính của tất cả hiện tượng biến đổi của vạn vật trong vũ trụ. Các nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng: tất cả mọi hiện tượng biến đổi sự vật của giới tự nhiên không cái nào là không mang sẵn tính âm dương trong các nhân tố không gian và thời gian lúc đó, hoặc trở thành dương cương, hoặc trở thành âm nhu. Còn tác dụng biến đổi nhất âm nhất dương này sẽ vĩnh viễn lặp đi lặp lại không ngừng và không bao giờ kết thúc. Vì thế, Bát quái do âm dương tạo nên cũng sẽ đại diện cho tám tính chất của vạn sự, vạn vật trên thế gian. Đó là: "Càn là kiện, Khôn thuận, Chấn động, Tốn nhập, Khảm hãm, Li lệ, Cấn chỉ, Đoài duyệt". Tám tính chất này không đổi, vạn sự, vạn vật đều có thể quy nạp vào trong tám tính chất này. Bởi vì Bát quái sản sinh ra tứ thời, về sau này có người dùng Bát quái đại diện cho 8 khí tiết trong một năm : Lập xuân, Xuân phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập thu, Thu phân, Lập đông, Đông chí. Trong "Kinh Dịch", tính thời gian của Bát quái được biểu hiện ngày càng nổi bật. Nhưng trước khi có "Kinh Dịch" thì Bát quái chỉ là đại từ chỉ thời gian mà thôi. 64 quẻ và “Kinh Dịch” Trong cả thời gian sử dụng lâu dài, các thuật sĩ đã phát hiện Bát quái biến đổi quá ít không đủ dùng. Một số người bắt đầu công việc cải tiến Bát quái để mong làm tăng thêm biến đổi, thích ứng với các tình huống phức tạp hơn. Bát quái chỉ mới là phân chia vạn sự, vạn vật thành 8 loại lớn có tính chất khác nhau. Tính chất của từng loại sự vật một, có thể chọn rất nhiều vật tượng để tượng trưng, do đó Bát quái là sự biểu hiện ở trạng thái tĩnh đối với thế giới khách quan. Trong đó không có ý nghĩa phát triển biến hóa, cũng không có tính thời gian. Cho mãi về sau này sự hình thành 64 quẻ, mới hoàn thành sự kiến tạo của "Kinh Dịch". "Bát quái thành liệt, tương tại kì trung hĩ. Nhân nhi trùng chi, hào tại kì trung hĩ. Cương nhu tương thôi, biến tại kì trung hĩ. Hệ từ yên nhi mệnh chi, động tại kì trung hĩ ("Dịch. Hệ từ hạ truyện"). Đoạn văn trên là lí thuyết hình thành 64 quẻ. Từ Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ thời, Bát quái đã hình thành sự sắp đặt ngay ngắn có trật tự của các quẻ Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, các hiện tượng của vạn vật trong vũ trụ đều chứa ở trong đó cả. Nhưng Bát quái vẫn không chứa hết tất cả các hiện tượng đang diễn ra trong vũ trụ, do đó đem xếp chồng bát quái lên sẽ hình thành 64 quẻ, mọi điều bí ẩn tế nhị của hào đều đã chứa ở bên trong. Chuyển dịch xen kẽ nhau các hào cương và hào nhu, thì tất cả các biến hóa trong vũ trụ sẽ chứa đựng cả ở trong đó. Lại kèm thêm hào từ đã nói rõ dấu hiệu cát hung trước, tất cả mọi hoạt động trong vũ trụ cũng đều chứa cả bên trong. Vì thế, 64 quẻ sẽ phản ánh thế giới khách quan ở trạng thái động. Trên thực tế 64 quẻ đã phân chia thế giới khách quan, nhất là xã hội loài người thành 64 thời đại nối liền nhau theo một trật tự. Thời đại là sự phát triển biến hóa, mà sự phát triển biến hóa lại được 384 hào cấu tạo thành 64 quẻ phản ánh. Theo cách nhìn vĩ mô, mỗi một quẻ trong 64 quẻ đều đại diện cho một thời đại, từ thời đại này phát triển thành thời đại khác. Theo cách nhìn vi mô, mỗi quẻ đại diện cho một thời đại. Mỗi quẻ đại biểu cho 6 giai đoạn biến đổi. Vì vậy, thế giới khách quan trong 64 quẻ được miêu tả thành quá trình phát triển đầy sinh động, không ngừng biến hóa và không bao giờ hết. Sự biến hóa của thời đại và sự biến đổi giai đoạn trong thời đại đó, chính là lời giải đáp cần phải tìm của "Kinh Dịch". Do đó có thể nói "Kinh Dịch" là những học vấn bàn về sự biến hóa. Bản thân chữ "Dịch" có hàm nghĩa là: giản dịch, biến dịch, bất dịch. Vạn vật trong vũ trụ từng giờ từng phút đang biến đổi, sự việc và con người cũng như vậy, cho nên nói là "biến dịch". Song đại vũ trụ biến đổi không ngừng, nhưng vẫn có tính quy luật, có trật tự ngăn nắp và tuần hoàn, phải tuân theo một quy luật nhất định. Còn vận mệnh của con người - tiểu vũ trụ, cũng có tính quy luật như thế, vì thế nên nói là "bất dịch". Thông qua tính quy luật "bất dịch", người ta có thể tìm hiếu quy luật của trời đất trong vũ trụ lớn có thể tuân theo. Tương tự, động hướng của con người - vũ trụ nhỏ cũng có thể dự đoán trước, có thể quy định, do đó nói là "giản dịch". Bộ "Kinh Dịch" chính là dùng những kí hiệu tượng trưng giản đơn và con số để biểu thị sự biến hóa hiện tượng "biến dịch, bất dịch, giản dịch" gây được tác dụng xem bói toán. Các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đúng là đã từ phương hướng tư duy này đi tìm sự biến đổi của thiên thời. Sự biến hóa của thiên thời cũng tương tự có quy luật có thể tuân theo. Các nhà chiêm bốc và các học giả khác về sau cũng đều theo phương hướng này để tỏa đi khắp bốn phương. Bói cỏ thi và phương pháp bói cỏ thi Cỏ thì là một loại cỏ sinh sống ở vùng Hoa Bắc, thường gọi là rau Khao tử. Sau khi phơi khô có thể dùng để xông muỗi. Cỏ thi được dùng để xem bói đại khái có thể vào thời kì loài người tiến vào xã hội nông nghiệp. Lịch sử không có ghi chép, cũng không có cách nào để tìm ra người đầu tiên đã sử dụng cỏ thi. Nghe nói phương pháp bói cỏ thi có 9 loại, nhưng hiện nay chỉ có một phương pháp được lưu truyền lại. Phương pháp bói cỏ thi này được lưu truyền lại ngày nay, có thể nói là công lao của Khổng Tử. Ông đã đem phương pháp này ghi chép trong sách ”Hệ từ truyện" : "Đại diễn chi số ngũ thập, kì dụng tứ thập hữu cửu, phân nhi vi nhị dĩ tượng lưỡng, quải nhất dĩ tượng tam, điệp chi dĩ tượng tứ thời, quy kì vu lịch dĩ tượng nhuận, cố tái lịch nhi hậu quải. Càn chi sách nhị bách nhất thập hữu lục, khôn chi sách bách tứ thập hữu tứ, phàm tam bách hữu lục thập, đương kì chi nhật. Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã. Thị cố tứ doanh nhi thành dịch, thập hữu bát biến nhi thành quái. Bát quái nhi tiếu thành, dẫn nhi thân chi, xúc loại nhi trưởng chi, thiên hạ chi sự năng tất hĩ". Đại ý nói : Hãy chọn 50 nhánh cỏ thi, dùng 49 nhánh, đem chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi, lấy thêm một nhánh móc vào để tượng trưng cho tam tài (thiên địa nhân). Đem số cỏ thi đã chia làm đôi xếp bốn nhành một tượng trưng cho tứ thời, gom các số lẻ còn lại tượng trưng cho tháng nhuận. Vì năm âm lịch 5 năm nhuần 2 lần, tiếp theo lại thu thập tất cả các nhánh cỏ thì lại tiếp tục chia làm 2 như lúc trước để bắt đầu quá trình thao tác lần thứ 2 Số cỏ thì dùng cho quẻ Càn là 216 nhánh, quẻ Khôn là 144 nhánh. Tổng cộng là 360 nhánh, tương đương với số ngày trong một năm. Kinh Dịch chia thành 2 thiên, trong 64 quẻ cần có 11520 nhánh cỏ thì cũng tượng trưng cho 11520 số sự vật Vì vậy trải qua bốn bước tiến hành quẻ “Dịch“, mỗi quẻ có 6 hào, cần 18 lần biến cuối cùng thành 1 quẻ. Bát Quái so với 4 quẻ là số nhỏ nhưng nếu xếp chồng lên và khai triển thêm sẽ thành 64 quẻ thì tất cả mọi việc trong thiên hạ đều bao trùm hết thảy Nói một cách cụ thể là phương pháp bói cỏ thi được chia làm 4 bước : Bước thứ nhất là"phân nhi vi nhị". Ta đem 49 nhánh cỏ thì dùng để xem bói, tùy ý chia làm hai phần. Tượng trưng thái cực hoàn chỉnh chia thành Thiên (trời) và Địa (đất), tức Lưỡng nghi. Bước thứ hai là "quải nhất dĩ tượng tam’’. Lấy ra một nhánh từ trong số cỏ thi đã phân làm 2 phần, đặt ra một bên. Tượng trưng giữa trời đất sản sinh ra con người, do đó 49 nhánh cỏ thi sẽ chia thành 3 bộ phận : Thiên, Địa, Nhân. Quan niệm này rất quan trọng, vì nó đã làm sáng tỏ các nhà hiền triết cổ xưa đã nhận thức đầy đủ sự tồn tại và giá trị tồn tại của bản thân mình. Bước thứ ba là "điệp chi dĩ tứ". Điệp chính là đếm các chữ số, đem số cỏ thi đã chia làm 2 phần cứ 4 nhánh một, 4 nhánh một để đếm, làm như thế là tượng trưng Tứ thời. Điểm này chỉ rõ sự nhận thức của "Kinh Dịch" đối với thời gian. Bước cuối cũng là "quy kì vu lịch". Quy lẻ là các số dư lại sau mỗi lần đếm đều đặt ra một bên. Phải đem các số dư của cả 2 phần gom lại, sau đó lại đếm 4 cái một. Tác giả "Kinh Dịch" đã giải thích cách làm này là để "lập nhuận", tức tháng nhuận. Đến bước này là đã làm được "một dịch", tiếp theo cũng theo phương pháp tương tự còn phải làm 2 lần nữa, tức "tam dịch” mới có thể được một hào. Một quẻ có 6 hào, cho nên phải trải qua 6 lần "tam dịch" mới tạo thành một quẻ. Từ phương pháp bói cỏ thi phân tích ta thấy bói cỏ thi đã thay thế bói rùa, không thể lí giải một cách giản đơn rằng đó là sự tiết kiệm con vật, mà ý nghĩa chân chính của nó là việc sử dụng số và lịch pháp. Nhận thức của "Kinh Dịch" đối với trời, tức đối với quy luật tự nhiên đã từ quan trắc hiện tượng phát triển thành tính toán bằng số. Việc vận dụng kết hợp lịch pháp với phương pháp bói cỏ thi đã đưa trình độ nhận thức của "Kinh Dịch” tiến thêm về phía trước một bước khá xa. Nhận thức lí tính của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với trời được bắt đầu từ lịch pháp, ở thời vua Nghiêu, các nhà hiền triết Trung Quốc đã biết quan sát hiện tượng để báo thời gian chuẩn. Lịch pháp trước thời vua Nghiêu gọi là Hỏa lịch, về sau phát triển thành lịch Mặt trời, Hỏa và Mặt trời (Thái dương) đều là sao. Quan sát hiện tượng đã sản sinh lịch pháp, sản sinh ra nhận thức lí tính đối với thiên thời. Tác giả của "Kinh Dịch" vận dụng lịch pháp đã tỏ ra họ xem giới tự nhiên trong trời đất là khách thể độc lập ở bên ngoài bản thân mình. Nhận thức này là nhận thức duy vật đối với thế giới. Vì thế có thể nói thế giới quan của "Kinh Dịch" cũng là thế giới quan duy vật. "Liên sơn", “Quy tàng" và "Chu dịch” Do thời nhà Hạ, Trung Nguyên đã xuất hiện cục diện thống nhất lâu dài. Trong hoàn cảnh xã hội ổn định này, học thuật đã phát triển một cách ung dung. Các thuật sĩ đã thu lượm tư liệu của các bộ lạc, kinh qua chỉnh lí thống nhất, thêm bớt và cuối cùng đã biên soạn thành bộ sách xem bói toán có quẻ, có từ đầu tiên trong lịch sử, có tên là "Liên sơn". Đây chính là Hạ Dịch (Kinh Dịch thời nhà Hạ). Sách "Liên sơn" lấy quẻ Cấn làm quẻ đầu tiên, tượng trưng "những đám mây xuất hiện trên núi, liên miên không ngớt". Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương diệt vong, các thuật sĩ nhà Thương đã không bằng lòng dùng Hạ Dịch. Họ dựa vào những nghiên cứu của mình, tức những kiến thức của bộ lạc của chính họ đã chỉnh đốn lại Hạ Dịch và định ra Thương Dịch mang tên "Quy tàng". Sách "Quy tàng" lại lấy quẻ Khôn làm quẻ đầu trong 64 quẻ, tượng trưng cho "Vạn vật không có cái gì không chứa đựng ở trong đó". Đến đời nhà Chu, "Kinh Dịch" lại phát sinh một lần đổi mới nữa. Nghe nói Chu Văn Vương chính là người rất tinh thông "Kinh Dịch", ông đã từng bị vua Trụ giam nhiều năm ở trong ngục, ở đó, ông chuyên tâm nghiên cứu 64 quẻ, đồng thời đã viết ra quẻ từ và hào từ cho từng quẻ. Đợi mãi sau khi ông đánh bại vua Trụ, xây dựng nên Vương triều của mình, thành quả nghiên cứu của ông lúc đó mới trở thành văn hiến kinh điển của quốc gia. Đó chính là "Chu Dịch”. "Chu Dịch" lấy quẻ Càn làm quẻ đầu, đã phản ánh một bước nhảy vọt vĩ đại nữa về quan niệm của các nhà hiền triết Trung Quốc đương thời. Ân Thương lấy quẻ Khôn trước rồi mới đến quẻ Càn là thứ, là coi trọng mẫu hệ, còn người nhà Chu lại lấy Càn đầu, Khôn thứ là coi trọng phụ hệ. Các sách "Liên sơn", "Quy tàng” đều đã thất truyền. Hiện nay "Kinh Dịch" mà chúng ta bàn đến, chính là quyển sách quốc bản của nhà Chu. Nếu nói Phục Hi vẽ ra Bát quái là hình thức ban đầu của nền văn hóa Trung Quốc, Văn vương phát triển Chu dịch sẽ là mở đầu của nền văn hóa Trung Hoa. "Dịch đạo thâm, nhân cách tam thánh, thế lịch tam cổ". "Kinh Dịch" không những là bộ sách kinh điển cổ xưa nhất của Trung Quốc, mà từ xưa đến nay nó còn được tôn sùng hết mức, còn được gọi là "Quần kinh chi thủ". Con người trong vũ trụ biến hóa khôn lường, sinh tồn và phát triển ra sao, trong xã hội cơ hội và duyên phận phải liệu trước, làm thế nào để làm nên sự nghiệp. "Kinh Dịch" dùng trí tuệ độc đáo của phương Đông, ngửa lên xem thiên văn, nhìn xuống xét địa lí, ở giữa thông hiểu "vạn vật chi tình", nghiên cứu sự giao lưu giữa con người với thiên nhiên, tìm hiểu đạo lí vĩ đại "tất biến, sở biến và bất biến" của đời người, làm sáng tỏ quy luật "tri biến, ứng biến, thích biến" của đời người. Đây chính là những chỗ vĩ đại của "Kinh Dịch”. Vì vậy, chúng ta có thể xem "Kinh Dịch" là mô thức nhận biết của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với vũ trụ vạn vật bao la và cuộc sống của con người cơ may khôn lường. 64 quẻ của "Kinh Dịch" tượng trưng cho các hiện tượng của tự nhiên hoặc nhân sự tại một thời điểm nào đó trong quá trình biến đổi không ngừng. Vì thế, ý nghĩa của "Kinh Dịch" là vô cùng coi trọng thời gian. "Thời" nói trong "Kinh Dịch" là những tình huống của con người trong khi đấu tranh, khi vui sướng, khi khốn khó, khi đau khổ v.v... "Kinh Dịch" nói đến thời gian, tôn trọng "thời trung”. Học giả đời Thanh là Huệ Đống nói "dịch đạo thâm, nhất ngôn dĩ tế chi, viết thời trung”. (Đạo lí "Kinh Dịch” rất sâu sắc, nhưng nói tóm lại là "thời trung”). Khổng Tử viết "Thoán truyện" nói về thời có 24 quẻ, nói về trung có 35 quẻ ; "Tượng truyện" nói về thời có 6 quẻ, nói về trung có 38 quẻ. Tử Tư viết sách "Trung Dung” kể lại những lời nói của Khổng Tử rằng : Quân tử mà thời trung ; Mạnh Tử lại nói : "Khổng Tử, bậc thánh bàn về thời. Là phép tắc cùng truyền lại từ thời Nghiêu Thuấn trở lại đây. Hiểu biết được nghĩa của thời trung là đã nắm được Dịch quá nửa vậy !" Từ đó ta thấy sự coi trọng của "Kinh Dịch" đối với nhân tố thời gian và nguyên tắc trung dung. Nói cách khác, thời trung sẽ là trạng thái tốt đẹp nhất của sự vật hoặc nhân sự. Hiểu được quy luật của thiên thời mới có thể "an mệnh", thông hiểu nguyên tắc của trung dung mới có thể "thành dĩ". Tác giả của "Kinh Dịch" đã chỉ bảo cho người đời sau rằng : con người sinh ra ở đời, khi lập thân chính nghiệp cần phải giác ngộ đạo lí "thành dĩ an mệnh". Sáng tỏ phép tắc của thiên địa, nghiên cứu đạo lí của âm dương, tu chỉnh đường tính mệnh, rửa lòng nghiền ngẫm thời cơ, làm sáng tỏ điều đức mới, thì mới mong hiển đạt giàu sang. Xem bói "Kinh Dich" : Thái độ xử thế tích cực Ý nghĩa của chiêm bốc ở chỗ, nó không những là vì sự sinh tồn mà còn là vì sự sinh tồn ngày càng tốt đẹp hơn. Có rất nhiều người phản đối chiêm bốc. Một trong số nguyên nhân của nó là họ cho rằng chiêm bốc là kết quả của tâm lí tiêu cực tự mình hạ thấp. Trong nỗi nghi hoặc và khủng khiếp của cuộc đấu tranh với thiên tai của thiên nhiên, con người thường cầu xin một sức mạnh siêu nhiên ngoài bản thân mình để giúp đỡ mình, do đó mới đi chiêm bốc (xem bói). Trước khi "Kinh Dịch" ra đời, các nhà hiền triết Trung Quốc đã phát minh ra nhiều phương pháp chiêm bốc. Căn cứ xem các hiện tượng trong sách "Sơn hải kinh" đã tỏ ra dưới thời Đường Ngu hoặc Trọng Lê đã từng có các phương pháp chiêm bốc như xem biểu tượng động vật, xem biểu tượng thực vật, xem thiên tượng. Nhưng những phương pháp này rất giản đơn, cũng có rất ít lí lẽ khoa học để cho con người hiện đại tin phục. Ví dụ xem xét biểu tượng động vật, khi người ta gặp phải những việc khó khăn thì sẽ giết thịt động vật, để từ huyết tượng, cốt tượng, biểu tượng dịch mật của động vật để suy đoán cát hung của việc đang mong cầu. Ví như huyết tươi, cốt tươi sáng, dịch mật sáng và đầy chính là điềm tốt, nếu ngược lại là điềm xấu. Nếu gặp được điềm tốt lành thì cho rằng nên tiếp tục cố gắng vươn tới. Chẳng may gặp phải điểm xấu thì sẽ từ bỏ luôn động cơ dự định ban đầu, để tránh những điều bất hạnh sẽ đến với mình. Vì thế, việc chiêm bốc như vậy về thực chất chỉ là quyết định vấn đề của người ta làm hay không làm mà thôi. Điều này đã bộc lộ tính tiêu cực của phương pháp chiêm bốc này. Thuật bói rùa xuất hiện về sau này cũng không thoát ra khỏi bóng đen tiêu cực này. Điều đó đã phản ánh năng lực tư duy của con người sẽ quyết định thái độ của người ta đối xử với sự vật. Nhưng chúng ta cũng đừng nên vội chê bai đối với phương pháp chiêm bốc thô thiển này, vì chính những phương pháp thô thiển đó lại đã sản sinh ra "Kinh Dịch" vĩ đại. Trên cơ sở quan sát hiện tượng xa xưa đã sản sinh ra tượng quẻ, quẻ từ và hào từ của "Kinh Dịch". Sự phát minh Bát quái đã kết thúc bóng đen của thời đại bói rùa, đón nhận ánh bình minh ngời sáng của khoa học. Sự phát minh Bát quái không chỉ là sự cải tiến phương pháp mà còn là sự tiến bộ của tư duy. Nó đã đặt nền móng cho một lí thuyết tham bác đồ sộ. Vì thế, lòng tự tin của nhân loại mới được dựng xây lên một cách chân chính. Sự ra đời của 64 quẻ đã tỏ rõ các nhá hiền triết Trung Quốc đã bắt đầu dự vào trí tuệ của chính mình để sinh tồn, để chinh phục sự uy hiếp từ thiên nhiên tới. Xem bói "Kinh Dịch" không còn là sản phẩm của sự bị động tiêu cực trước đây nữa, mà đã trở thành phương tiện khoa học của con người nhận biết thiên nhiên và lợi dụng thiên nhiên. Chiêm bốc sẽ không còn chỉ quyết định con người làm hay không làm nữa, mà là quyết định vấn đề con người nên đi làm như thế nào và có thể làm như thế nào đế tốt hơn. Trong lịch sử đằng đẵng hàng mấy ngàn năm, "Kinh Dịch" đã làm sáng tỏ điểm này, nó đã sống với thời gian mà vẫn không hề suy vong. Nó không chỉ đã gợi lên bước ngoặt chuyển hóa tế nhị của sự phát sinh sự vật, mà còn chỉ ra con đường sinh tồn cùng tồn tại hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đã dạy cho con người biết tùy cơ ứng biến như thế nào đế tránh hung hóa cát. Điều này hoàn toàn khác với thiên đường của đạo Cơ đốc và kiếp sau của nhà Phật. Nó chỉ bảo cho con người ta phải biết nắm vững như thế nào đế thực hiện. Người Trung Quốc đầu đen da vàng, đã từng theo con đường này để bước theo những năm tháng dài lê thê đã qua. Các nhà triết học tương lai đã không ngừng làm phong phú thêm "Kinh Dịch", làm cho nó phải ngấm thấm vào trong nền văn hóa Trung Quốc. Thuyết Nho học do Khổng Tử dựng lên chính là một ví dụ điển hình. Vì vậy nói xem bói "Kinh Dịch" thật ra không phải là sản phẩm tiêu cực, mà là sự tiến thủ tích cực. Điều này có thể thông qua sự phát triển của "Kinh Dịch" để chứng minh thêm. Lịch sử phát triển "Kinh Dịch" cũng là lịch sử của các nhà tiền bối Trung Quốc nhận thức tự nhiên, thích nghi tự nhiên, chinh phục tự nhiên, đã trở nên thành thực và tiến bộ về mặt phương pháp tư tưởng. Sự phong phú của lí thuyết chiêm bốc Các ghi chép về các ví dụ chiêm bốc này có rất nhiều, như các sách "Tả truyện", "Quốc ngữ", "Chu ngữ", "Ân hư khế tiến biến", "Luận hành". Đối với những ghi chép vừa quý báu mà chân thực này, các học giả nhiều triều đại hết sức trân trọng sự nghiên cứu về phương diện này, bởi vì sự linh nghiệm của các ví dụ chiêm bốc này đã làm cho họ hết sức kinh ngạc. Ngài Lí Kính Trì trong sách "Chu Dịch thám nguyên" đã nói một cách cảm khái rằng : "Trường phái các Bốc quan thời Xuân Thu, những điều họ đoán sao mà linh nghiệm thế, chẳng lẽ họ chỉ là người ba hoa tùy tiện chẳng may trùng hợp ? Đương nhiên không phải". "Có thể xem các sách "Tả truyện", "Quốc ngữ" đăng tải những sự việc được bói đoán, thực tế linh nghiệm quá đỗi !" Sách "Quốc ngữ”, "Chu ngữ" đã từng đăng một ví dụ chiêm bốc như sau: Tấn Thành công lưu vong ở nước Chu. Khi Thành công tử nước Chu trở về Tấn, người Tấn đã nhân việc này xem bói một quẻ. Xem được quẻ Càn biến thành quẻ Phủ Căn cứ quẻ từ của quẻ Càn và quẻ Phủ, người Tấn đã đưa ra lời đoán như sau : Phối nhi bát chung, Quân tam xuất yên. Vì quẻ từ của quẻ Càn là : "Càn Nguyên Hanh Lợi Trinh". Quẻ từ của quẻ Phủ là "phủ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai". Càn là trời, là Vua, quẻ thượng của Càn là trời, quẻ hạ của Càn là Vua, cố tượng của vua phối với trời. Đây là điềm tốt lành.. Nhưng quẻ hạ của Càn biến thành quẻ Khôn, Khôn là thần, cho nên nói "phối nhưng không đến cùng". Lại thêm vì ba hào dương của quẻ hạ biến thành ba hào âm, cho nên "Vua phải ba lần xuất vậy", về sau quả nhiên đã ứng nghiệm. Nhưng cách luận đoán này có một sai lầm là dễ làm sản sinh những lời giải thích khác nhau. Trong "Luận hành bốc phệ thiên" đã ghi chép một việc như sau ; Tử cống - học trò của Khổng Tử chiêm đoán nước Lỗ đánh Việt được từ của biến hào Cửu Tứ (Dương bốn) của quẻ Đỉnh : "Đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kì hình ác, hung" bằng hào từ này Tử cống cho rằng quân nước Lỗ sẽ không thắng. Khổng Tử xem xong, nói : Đây là quẻ tốt. Bởi vì "Người Việt ở trên nước, đi bằng thuyền không đi bằng chân” là tốt. Kết quả nước Lỗ đã giành thắng lợi. Để khắc phục những sự mơ hồ và lời giải sai lầm của cách chiêm đoán trên, người đời sau dự định thay đổi cách chiêm đoán này. Cách làm thăm dò này bắt đầu từ đầu nhà Hán. Các nhà Dịch học đương thời chủ yếu có 3 người : Thi Cừu, Mạnh Hỉ và Lương Khâu Hạ. Cả 3 người này đều theo học cùng một thầy là Điền Hà, còn kiến thức Dịch học của Điền Hà lại được kế thừa từ học trò của Khổng Tử là Thương Cù. Tư tưởng thiên nhân tương quan (tương quan giữa trời với người) thịnh hành đương thời cho rằng thiên tượng và nhân sự có mối quan hệ nhân quả, điều này đã hình thành các nhà âm dương học và ngũ hành học của triết học tự nhiên. Mạnh Hỉ, con người có số phận long đong muốn gửi gắm tư duy kì cục của mình vào, đã lấy thuyết âm dương tai biến để thuyết minh và giải thích "Kinh Dịch". Ông đem quẻ được định sẵn chỉ định làm 12 tháng, dùng hào chỉ định làm ngày. Như vậy, ông đã đem lịch pháp đưa vào trong chiêm bốc, làm cho chiêm bốc có thêm ý nghĩa của thời gian. Để làm cho mọi người tin tưởng, Mạnh Hỉ đã nói toáng lên : đây là Thầy giáo trước khi mất đã truyền lại cho ông. Do đó môn học mới mẻ này đã thu hút được rất nhiều người. Điều đó chứng tỏ việc học giáo điều máy móc "Dịch" học của người ta không còn như xưa nữa, mà đang mong đợi các phương pháp và lí thuyết mới. Lời nói dối của Mạnh Hỉ về sau bị sư huynh Lương Khâu Hạ vạch ra, kết cục đã làm cho Mạnh Hỉ mất hết uy tín. Nhưng việc cải cách này, ngược lại được người đời sau tiếp nhận và truyền lại. Đến thời nhà Đại dịch học Đổng Trọng Thư, ông dốc sức phát triển rộng học thuyết âm dương ngũ hành, mạnh dạn cải tiến hệ thống Dịch học. Ông dùng âm dương ngũ hành để suy luận tai dị, dự báo trước cát hung. Ông đã trở thành nhà cải cách số một đối với "Dịch học thời Tây Hán. Người cải cách "Dịch học" lần thứ hai thời Tây Hán là Kinh Phòng. Ông đã phát minh ra phương pháp chiêm bốc bói cỏ thi phối hợp với "Nạp Giáp" trên cơ sở của Đổng Trọng Thư. Cái gọi là "Nạp Giáp" chính là đưa 64 quẻ xếp đặt vào 8 cung, mỗi cung 8 quẻ đều do một quẻ trong kinh dẫn đầu, mỗi quẻ có hai hào: thế, ứng, tiếp đó đem thiên can địa chi sắp xếp vào trong 6 hào của bát quái để được quẻ thuộc ngũ hành, lại phân ra “lục thân" : phụ mẫu, huynh đệ, quan quỷ, thê tài, tôn tử, còn căn cứ ngày chiêm bốc để phối hợp "lục thần" : Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Phi xà, Huyền vũ, Câu trần. Dùng những điều này để đoán quẻ. Dịch học của ông đã tăng thêm phần tai biến, phân 64 quẻ, thay đổi ngày xem. Việc, dùng phong, vũ, hàn, ôn đoán khí hậu. Đến đây, phạm vi thời gian và không gian của việc chiêm bốc đã được mở rộng hơn. Việc cải tiến của Kinh Phòng, không chỉ sửa đổi phương pháp mà về nội dung chiêm bốc đã sáng tạo ra nhiều cái mới trước đây chưa từng thấy, làm cho phạm vi ứng dụng chiêm bốc càng mở rộng hơn, độ chuẩn xác cũng tăng hơn. Lí lẽ của nó cho đến nay, cũng làm cho người đời nay không lường được ý sâu sắc của nó. Các nhân vật đại biểu cho phái dịch học thời Đông Hán gồm có : Trịnh Huyền, Tuần Sảng, Ngu Phiên. Dịch học của họ không giải thích lại toàn bộ ý nghĩa tượng trưng của quẻ từ, mà là từ từng chữ từng chữ trong hình tượng của quẻ đó để tìm lời giải đáp. Nhưng những lời chú giải kiểu đối ứng như vậy làm cho các tượng trưng của bát quái ban đầu không đủ dùng, do đó họ đã khai phá một con đường mới mẻ khác để phát huy tác dụng hơn. Trịnh Huyền đã thừa kế truyền thống Dịch học thời Tây Hán và Tiền Đông Hán, dùng hào thời và ngũ hành để giải thích tượng hào của quẻ và hào từ của quẻ. Tư tưởng này trực tiếp bắt nguồn từ các sách "Dịch vĩ" và "Tam thống lịch". Học thuyết của Trịnh Huyền đã góp phần cống hiến to lớn cho việc kiến lập kết cấu Dịch học Trung Quốc, từ đó "Kinh Dịch" đã liên hệ chặt chẽ hơn với thuyết âm dương ngũ hành. Dịch học của ông là sự sửa đổi hợp lí đối với Dịch học của Kinh Phòng. Sự cống hiến của Tuần Sảng ở lí thuyết Càn thăng Khôn giáng, tám cung và thuyết phi phục của ông. Ông đem sự biến đối vị thế của hào hai và năm liên hệ với khí, đã làm phong phú thêm nội đung chiêm bốc. Ngu Phiên sinh ra muộn hơn Trịnh Huyền và Tuần Sảng. Nhưng danh tiếng của ông lại lớn hơn hai người trước. Dịch học của ông đã dùng các phương pháp Quái biến, Bàng Thống, Hộ thể và Bán tượng để truyền thế, ảnh hưởng đối với người đời sau cực lớn. Ông đã huỷ bỏ thuyết âm dương tai biến về khí hậu của dịch học Kinh Phòng, mà thay bằng thuyết Quái, Bàng, nhất là quẻ biến được tạo nên do vị trí hào trong một quẻ biến động. Sự cố gắng khai thác của các nhà Dịch học thời Hán, cuối cùng đã xác lập được địa vị của Dịch học, trở thành "quần kinh chi thủ". Các nhà dịch học sau nhà Hán không tạo được những cải cách mới mẻ cao hơn đối với lí thuyết chiêm bốc, cho đến ngày nay, chiêm bốc của "Kinh Dịch" mà chúng ta được trông thấy vẫn là những kết tinh của những người thời Hán. Cần phải nói rằng, đây là một sự đình trệ không tiến lên được nữa của "Kinh Dịch", nguyên nhân của nó nên quy cho sự nổi dậy của phái Nghĩa lí. Sau khi người thanh niên thiên tài thời Tam Quốc Vương Bật lần đầu tiên đề xướng tư tưởng trị dịch ”đắc ý quên tượng", dịch học đã chuyển từ chiêm bốc sang triết học. Phái Nghĩa lí đã thay thế Dịch học tượng số thời Hán, trở thành trường phái chính nghiên cứu Dịch học, làm cho ý nghĩa chiêm bốc của "Kinh Dịch’’ đã mất đi hoàn toàn, trở thành kinh điển triết học của quy luật phát hiện và quy luật cấu thành. Dịch học của các nhà Phật học sau này, dịch học ngoài "Kinh Dịch” của Dương Hùng, dịch học luyện đan đo Ngụy Bá Dương sáng lập, dịch học của các nhà sử học Lí Quang, Dương Vạn Lí, Lí học của Trình Di và Chu Hi v.v... không ai là không như vậy cả. Nhân đây, cần phải chỉ ra sự cải tiến dịch học của nhà Đại dịch học Thiệu Ung đời Tống. Sự cải tiến của ông có thể gọi là sự cải tiến có tính thời đại trong lịch sử chiêm bốc. Dịch học của ông đã dùng tượng số hóa để giúp cho việc xử lí trời đất tự nhiên : đem thời gian phân thành 64 quẻ, dùng nó để khái quát nguồn gốc của vũ trụ, đồng thời dùng quy luật số làm quy luật quản lý hết thảy vạn vật trên thế gian. Do đó, ông đã lập nên mô thức số để thuyết minh mô thức tượng của 64 quẻ. Cần phải nói rằng ông đã làm cho chiêm bốc được mã hóa bằng con số, từ đó đã hoàn thành công việc chuẩn bị chiêm bốc tiến vào khoa học. Con số là sợi dây nối liền chiêm bốc với khoa học. Ngày nay ở Trung Quốc, chiêm bốc đã được các môn khoa học như dự đoán học, thống kê học, vận trù học v.v... thay thế. Điều này không thể nói được là chiêm bốc được khoa học hóa, mà là chiêm bốc bị vứt bỏ. Trên thực tế, dự đoán học và thống kê học hiện đại, thật ra không thể hoàn thành được công việc mà chiêm bốc đã từng làm. Chiêm bốc hiện đang đứng trước vấn đề là phải đưa vào một dòng máu mới. Hiện nay, đang là lúc không phải khoa học cần chiêm bốc, mà là chiêm bốc cần khoa học. Nhưng ở Trung Quốc có rất ít người dám bỏ ra dũng khí và tâm lực của mình để hoàn thành công việc này. Ở nước ngoài, việc nghiên cứu dịch học đã thu được rất nhiều thành quả làm cho người ta kinh ngạc, bao gồm cả nghiên cứu về lĩnh vực chiêm bốc. Còn các nhà làm công tác khoa học của chúng ta thì lại chỉ nhìn biển cả mà than mình bé nhỏ. Họ không phải là xem xét vấn đề từ góc độ khoa học mà xuất phát từ hiệu quả và lợi ích. Đây là điều bất hạnh của "Kinh Dịch", cũng đồng thời là nỗi bất hạnh của Trung Quốc. Cải tiến công cụ chiêm bốc Sau khi 64 quẻ hình thành, bói cỏ thi đã thay thế cho bói rùa. Điều đó có thể có 3 nguyên nhân : một là, 64 quẻ đã được chỉnh lí hoàn hảo, không còn cần nghi thức đốt rùa nữa. Thứ hai là bói rùa thuộc xem tượng động vật. Việc giết thịt động vật và đốt rùa đều không phải là việc làm thuận tiện, người ta vẫn mong muốn có công cụ giản đơn hơn cũng có thể đạt được cùng một mục đích. Thứ ba là bộ lạc nguyên thủy đã sống trên lục địa, bắt đầu sản xuất nghề nông, bởi vì cỏ thi chính là sản vật của đồng bằng Hoa Bắc. Những người chiêm bốc của bộ lạc ngnyên thủy đã từng trong sản xuất nông nghiệp phát hiện ra cỏ thi và dùng nó làm công cụ chiêm bốc. Bói cỏ thi do Khổng Tử ghi chép và là ra đời sau "Kinh Dịch”, nên những người chiêm bốc sau này đều dùng phương pháp này để chiêm bốc. Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói cỏ thi nào khác được ghi chép lại. Cho nên cỏ thi được dùng làm công cụ chiêm bốc kéo dài mãi tận đời Đường. Thời gian dài tới hơn hai ngàn năm, ở thời kì này, cỏ thi mới bị thẻ tre thay thế. Nguyên nhân thay có thể là người chiêm bốc cho rằng cỏ thi không thể dùng được lâu dài, cần phải thay thường xuyên, do đó họ đã chọn thẻ tre bền hơn cỏ thi. Nhưng các bước suy diễn không có gì thay đổi. Đã được xem là công cụ, khi sử dụng người ta vẫn thường mong muốn tiết kiệm sức lực và thời gian. Mặc dù bói cỏ thi so với bói rùa ít tốn sức lực hơn, song vẫn không tiết kiệm được thời gian. Vì nó vẫn phải trải qua các bước như chia ra làm hai phần, móc thêm 1 nhánh, xếp 4 chiếc một, gom các nhánh lẻ lại, làm 3 lần mới được 1 hào, làm 18 lần mới được 1 quẻ, như vậy công việc cũng khá lộn xộn rối rắm. Vì thế đến thời nhà Đường, công cụ chiêm bốc lại phát sinh một lần cải cách lớn nữa. Trong sách "Nghi lễ chính nghĩa" thời Đường đã ghi chép phương pháp dùng đồng tiền để thay cỏ thi. Công cụ chiêm bốc không còn là cỏ thi đã dùng hàng ngàn năm, mà là dùng ba đồng tiền bằng đồng. Hai tay của người xem bốc ôm hờ ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Mỗi lần lắc đem vứt các đồng tiền trên tay xuống bàn hoặc xuống đất. Sau đó ghi chép lại số mặt sấp, mặt ngửa của các đồng tiền. Làm như vậy 6 lần lắc rồi lại vứt xuống, lại ghi chép thì sẽ được một quẻ, tiếp theo sẽ phối hợp với "nạp giáp", "thế, ứng", sau đó có thể đoán quẻ. Dùng đồng tiền thay cỏ thi đã từ 18 lần biến trước đây, giảm xuống còn 6 lần lắc quẻ. Về trình tự, đã đơn giản được khá nhiều các bước suy diễn, đồng thời cũng giảm bớt được những sai lầm do suy diễn mang lại. Cho nên, công cụ này vừa mới ra đời, các nhà chiêm bốc đã tiếp thu nhanh chóng trở thành phương pháp của chiêm bốc đại tông của nước ta. Nhưng cho đến ngày nay, người ta cũng không biết là ai đã tạo ra cải cách này, lại không thể nói rõ được vì sao lại làm như thế. Việc ứng dụng dùng đồng tiền để xem bốc, mặc dù đã nâng cao được hiệu suất thời gian, nhưng nó có một chỗ không thuận tiện, đó là cần xem bói phải tự mình lắc quẻ mới có thể dự đoán được thông tin chuẩn xác, còn lắc thay thì không có cách nào nhận được những lời giải đáp chân thực. Do đó, chiêm bốc lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa. Hoàn thành cuộc cách mạng này là nhà đại dịch học thời Tống - Thiệu Ung. Thiệu Ung dựa vào "tiên thiên đồ" nhận được từ các phương sĩ Đạo gia và những điều tâm đắc trị "Dịch" của chính mình, đã sáng tạo ra "Tiên thiên tượng số học". Ông cho rằng : Thần sinh số, số sinh tượng, tượng sinh khí. Do đó, ông đã đưa số dẫn vào trong chiêm bốc, dùng số thay thế công cụ chiêm bốc. Bất cứ tượng và số nào đều có thể dùng số để biểu thị. Vì vậy ông đã sáng lập ra phương pháp dùng số chiêm bốc. Người đời sau gọi là "Mai Hoa dịch số" cũng còn gọi là "Thiệu Khang Tiết thần số". "Mai Hoa dịch số", nói một cách nghiêm chỉnh không thể gọi là công cụ chiêm bốc được, bởi vì nó đã vứt bỏ những khí cụ hữu hình. Nó là sự cải tiến phương pháp chiêm bốc. Nhưng phương pháp này lại ảnh hưởng rất lớn đối với đời sau, đã thành phương pháp chiêm bốc ứng dụng phổ biến. Nó đã bù đắp vào chỗ thiếu hụt của việc chiêm bốc bằng đồng tiền. Công cụ chiêm bốc bằng đồng tiền là cải cách có tính thời đại hiện đại mới phát sinh. Nhưng việc này không phải là ở Trung Quốc, mà là ở Châu Âu sau Đại chiến thế giới II. Chiến tranh đã mang đến cho con người những ý nghĩ trái ngược rất sâu sắc, người ta càng mong muốn có thể nắm chắc được vận mệnh của mình để bình yên và hạnh phúc đạt tới bờ kia của đời người. Do đó đã dấy lên cơn sốt bói "Kinh Dịch". Một số chuyên gia máy vi tính đã nhạy bén chớp thời cơ, đem chiêm bốc "Kinh Dịch" tạo thành phần mềm của máy tính điện tử, do đó đã sáng tạo ra công cụ chiêm bốc mới dùng máy tính để chiêm bốc. Đại khái chậm hơn châu Âu khoảng bốn mươi năm, Trung Quốc lục địa cũng xuất hiện chiêm bốc bằng máy vi tính. Mặc dù nó không phổ cập, nhưng nó cũng đánh dấu một cuộc cách tân và tiến bộ hết sức to lớn về chiêm bốc trên quê hương của "Kinh Dịch". Từ việc cải tiến công cụ chiêm bốc "Kinh Dịch", chúng ta có thể nhìn thấy hàng ngàn năm nay, người ta vẫn không buông thôi nhiệt tình đối với chiêm bốc "Kinh Dịch". Mặc dù việc cải tiến công cụ thật ra chưa mang lại cho chiêm bốc "Kinh Dịch" sự phát triển ở tầng thứ cao hơn, nhưng chiêm bốc "Kinh Dịch” lại từ đó được lưu truyền tiếp tục. Tính hợp lí của nó cũng vẫn còn chờ đợi người đời sau nghiên cứu và phát triển thêm. Chiêm bốc rất có thể cũng giống như y học và khí công của Trung Quốc, sẽ trở thành nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu khoa học thế kỉ sau. Các loại thuật chiêm bốc Truyền thuyết Lãi bốc ( bói vỏ sò) bắt đầu từ Tô Tần thời Chiến quốc. Tô Tần là người Lạc Dương, thời Chiến quốc nổi tiếng vì dùng chủ trương liên kết để chống Tần. Truyền thuyết kể rằng thời trẻ ông đã từng học nghệ với Quỷ Cốc tử, học thành nghiệp mới hạ sơn, trên đường đi bị thiếu ăn thiếu mặc, đói rét dày vò, vô cùng nhếch nhác. Khi đến đất Yên, ông đành phải dựa vào việc xem bói cát hung để kiếm tiền. Dụng cụ ông dùng để xem bói toán không còn là mai rùa và cỏ thi, mà là dùng vỏ sò hến. Phương pháp này so với bói xương rùa khác nhau không nhiều. Người đời sau gọi phương pháp chiêm bốc của Tô Tần là Lãi bốc (bói vỏ sò). Hổ bốc (bói hổ) được thấy ghi lại trong sách "Bác vật chí" của Trương Hoa đời Tấn. Hổ là một động vật có trí khôn, theo truyền thuyết hổ biết xung phá (tức có thể dự đoán được cát hung), dùng móng vuốt của nó vẽ lên trên mặt đất để biểu thị cát hung (lành dữ). Người ta đã dựa theo truyền thuyết nói hổ vẽ lần trên mặt đất biểu thị cát hung, để vẽ một số sinh vật lên trên hai mặt trên và dưới tờ giấy, cái bàn hoặc các đồ vật khác ; sau đó, dựa vào sự chẵn hoặc lẻ của số tranh đã vẽ ở hai mặt trên và dưới để suy đoán cát hung phúc họa. Trương Hoa gọi phương pháp chiêm bốc này là Hổ bốc. Kê bốc (bói gà), trong sách "Sử kí” đã ghi rằng : "Việt phệ lập việt tự dĩ kê bốc". Xem ra thì kê bốc mới đầu dùng trong các hoạt động tế lễ trọng đại. Do thời gian đã quá lâu dài, nên phương pháp bói gà như thế nào đã không còn biết nữa. Nhưng, từ việc dùng vào hoạt động tế lễ để xét có thể xem hình dáng của can tạng (gan) để xem đoán cát hung. Vì gà là một trong sáu loại súc vật thời xưa thường dùng vào việc cúng tế. Khi tế lễ, thông thường giết thịt gà ngay tại hiện trường để làm đồ lễ. Thời xưa, một số dân tộc thiểu số phương Nam còn dùng xương gà để dự đoán năm đó mùa màng được hay mất. Phương pháp bói này cũng tương tự như bói mai rùa. Ngoài ra, theo truyền thuyết thời Hán Vũ Đế, kê bốc còn được dùng rộng rãi trong việc hành quân chinh chiến, phương pháp đó như thế nào hiện nay cũng không được biết nữa. Theo truyền thuyết, Sủ bồ bốc (bói bằng con xúc xắc) bắt đầu từ Lão Tử. Gieo quân xúc xắc là một trò chơi thời cổ xưa, triều Tấn rất thịnh hành. Phương pháp này cũng gần như gieo xúc xắc đời sau, nhưng việc xem thắng thua không phải là tính số điểm nhiều hay ít mà là xem màu sắc của nó, các màu được chọn gồm có màu đất thổ, màu lông trĩ, màu da bê và màu trắng. Theo sách "Bác vật chí" của Trương Hoa có ghi chép lại, Sủ bồ bốc là do Lão Tử sáng tạo ra khi ông đi tây du Quan Trung, mới đầu là do 5 loại gỗ có màu sắc tạo nên. Sử sách còn ghi Lão Tử đi tây du Quan Trung, nhưng chỉ nói là khi ông đi qua Hàm Cốc quan, sau khi Quan lệnh là Doãn Hỉ ép đòi quyển sách nổi tiếng của ông sau đó mới đi ẩn cư, không còn biết làm sao được Lão Tử đành phải viết "Đạo đức kinh". Việc sáng tạo ra gieo xúc xắc trong sử sách không thấy có ghi chép. Trương Hoa nói "Lão Tử vào Tây giới đã tạo ra thuật gieo xúc xắc”, có lẽ đây chỉ là theo truyền thuyết. Trò chơi gieo xúc xắc này về sau được dùng để xem bói toán và do đó mới có "Sủ bồ thuật". Tương truyền rằng các dân tộc thiểu số ở phương Bắc cũng sử dụng phương pháp chiêm bốc này. Tương truyền "Thập nhị kì bốc" (bói bằng 12 quân cờ) là của Hoàng Thạch Công. Hoàng Thạch Công là người có tài cao hơn người vùng giáp ranh Hán Sở, ông đã sáng tạo ra phương pháp bói 12 quân cờ, đã truyền lại cho Trương Lương. Trương Lương đã đem thuật bói 12 quân cờ dùng vào việc chinh chiến sát phạt, giúp Lưu Bang giành lại được thiên hạ cho nhà Hán. Đến thời Hán Vũ đế, Đông Phương Sóc đã đem thuật 12 quân cờ dùng vào các việc khác và đã biên soạn ra sách "Linh kì kinh", miêu tả tỉ mỉ cách chiêm bốc bằng 12 quân cờ. Phương pháp này được làm như sau : gọt đẽo 12 quân cờ hình tròn, chia 4 quân một nhóm lần lượt khắc 3 chữ "Thượng", "Trung", "Hạ". Khi chiêm bốc phân 4 lần tung ném, mỗi lần làm đều được một nhóm các chữ Thượng, Trung, Hạ, cuối cùng đem kết quả 4 lần thu được đặt lại cùng một chỗ và dự đoán cát hung. Theo truyền thuyết từ sau Đông Phương Sóc, thuật chiêm bốc 12 quân cờ đã bị thất truyền. Mãi đến thời Hiếu Khai đế nhà Đông Tấn là Ninh Khang, Đạo nhân Pháp vị chùa Nhương Thành mới nhận lại được quyển sách đó từ một Hoàng y trưởng lão, thuật chiêm bốc 12 quân cờ mới lại được truyền lại cho đời. Sách "Linh kì kinh" đứng tên Đông Phương Sóc truyền lại đến nay đã miêu tả tỉ mỉ cách chiêm bốc bằng 12 quân cờ. Trúc bốc (bói trúc) là một loại chiêm bốc nông dân vùng Kinh Sở thời xưa dùng để dự báo mùa màng được mất. Theo ghi chép, nông dân vùng Kinh Sở tiết Thu phân (giữa thu) hàng năm thường dùng lợn và dê làm đồ lễ tế Trời Đất, đồ lễ vật so với tiết Xuân tế Trời đất còn thịnh soạn hơn. Khi tế lễ xong xuôi, tất cả đồ lễ vật đều tặng lại cho người địa phương. Khi tế lễ Trời Đất, thường ném mảnh vỏ con trai để dự đoán mùa màng năm sau thu hoạch như thế nào, có khi lại dùng mảnh trúc chế tạo thành hình dáng vỏ trai để thay cho vỏ trai. Vì vậy gọi là bói trúc. Thực tế là một loại trịch chiêm (chiêm bốc theo kiểu tung ném). Dân tộc Ô Man ở Ích Châu thời Đường có một thuật sĩ tên là Bishanjuji, ông dã sáng tạo ra một loại bói trúc khác, cách bói này dùng 49 que trúc mỏng mảnh (hoặc dùng xương gà thay thế) để chiêm bốc đoán cát hung phúc hoạ cho người cầu bói. Ngưu đế bốc (bói bằng bàn chân trâu) được ghi lại trong sách "Tấn thư" - Theo ghi chép trong sách "Tùy thư - Tứ di truyện", nước Phù Dư khi gặp hành động quân sự lớn, thường giết trâu để tế lễ và xem hình dáng hiển hiện của chân trâu sau khi giết mổ đế dự đoán cát hung. Nếu sau khi trâu giết chết mà chân móng trâu ở dạng phân li là điềm xấu không lợi cho việc xuất binh đánh nhau. Nếu móng chân trâu chụm lại với nhau là điềm tốt. Phương pháp chiêm bốc này là lấy ý nghĩa tượng trưng của hình dáng móng chân trâu : nếu móng chân trâu phân li (tách nhau) tượng trưng cho việc bị tan tác và thất bại, còn móng chân trâu co chụm lại thì tượng trưng cho việc đoán tụ và thắng lợi. Điểu bốc (bói chim) được ghi chép trong sách "Tùy thư - Tây Vực truyện". Nữ quốc Tây Vực thờ Hà Tu La thần và Thụ thần, hàng năm vào đầu năm dùng- người sống hoặc khỉ Macác để tế lễ. Tế lễ xong vào trong núi cầu đảo, lúc này sẽ có một con chim trông giống như gà rừng sẽ rơi xuống bàn tay người đứng tế. Người ta sẽ đem con chim này giết thịt, mổ bụng, nếu trong bụng nó có chứa các vật thuộc loại lương thực, điều đó nói lên năm đó sẽ được mùa. Nếu như là các vật như sỏi cát thì đó là điềm năm đó gặp thiên tai. Khai Hoàng năm thứ 6 (tức năm 586), Nữ quốc dã từng đem loại chim này làm lễ vật để cống tiến Văn đế nhà Tùy. Tiền bốc (bói bằng đồng tiền) được bắt đầu từ nhà "Dịch" thuật nổi tiếng thời Tây Hán là Kinh Phòng. Cao sĩ Nghiêm Quân Bình Thời Tây Hán đã sống ẩn ở Thành Đô, Tây Thục bằng nghề xem bói. Ông đã mượn việc xem bói để khuyên người làm điều thiện răn điều ác. Khi xem bói cho những người là con trai, con gái thì ông khuyên họ làm điều hiếu thuận. Khi xem cho những người anh em bạn bè thì ông khuyên họ yêu thương lẫn nhau. Khi xem cho tầng lớp quan lại thì dựa vào điều mình dự đoán, theo đà phát triển của sự vật để dẫn dắt, để khuyên họ làm điều thiện. Ông đã dùng đồng tiền thời nhà Hán để xem bói, tung tiền lên gieo quẻ, xem tượng quẻ để dự đoán cho người ta lấy tiền chi phí cho sinh hoạt, sau đó đóng kín cửa để truyền thụ về "Lão Tử”. Vì vậy, người đời sau có câu thơ : Ngạn dư Chức nữ chi cơ thạch. Tỉnh hữu Quân Bình trịch quái tiền. Ngõa bốc (bói ngói) và Dương cốt bốc (bói xương dê) thuộc loại bói mai rùa. Ngõa bốc là dùng ngói thay rùa, dùng lửa đốt mặt lưng viên ngói, xem hình dáng các yết nứt của nó để dự đoán cát hung. Dương cốt bốc là một phương pháp xem bói của người dân tộc thiểu số phương Bắc thường dùng. Cách này dùng lửa đốt xương ống chân dê (cừu), căn cứ hình dáng hiện ra sau khi đốt lửa để xem bói. Tấm ngói và xương ống chân dê đều là những vật thay thế mai rùa. Trịch ngao (Ném vỏ ngao) là một phương pháp xem bói tương đối được lưu hành ở Trung Quốc thời xưa. Loại xem bói này được xuất hiện khi nào, đến nay vẫn không rõ. Vỏ ngao chính là ngày nay thường gọi là vỏ con trai. Nên ném vỏ ngao chính là ném vỏ trai, dựa vào việc vỏ trai nằm sấp hay nằm ngửa đế đoán tai hoạ. Xét về hình thức nó cũng giống như Sủ bồ bốc (bói xúc xắc), chẳng qua chỉ là một loại dùng gỗ ngũ sắc, còn loại kia dùng 2 vỏ con trai. Một loại là xem màu sắc gỗ định cát hung, còn loại kia thì xem vỏ trai nằm sấp hoặc ngửa để đoán cát hung. Cả 2 loại tuy rất giống nhau, nhưng thật ra thì không phải là một. Ném vỏ ngao lần đầu tiên xuất hiện trong văn hiến cổ đạì, đại thể là câu thơ : "Thủ trì hiệu bôi ngao đạo ngã trịch" của nhà viết văn xuôi lớn Hàn Dụ, thời Đường (trong sách"Yết Hành Nhạc miếu"). Từ đó ta thấy chậm nhất là đến trước Hàn Dụ, ném ngao đã được lưu hành. Trong sách "Diễn phồn lộ" của Trịnh Đại Xương, đời Tống có đoạn ghi chép tỉ mỉ về ném ngao như sau : "Đời sau xem bốc đều hỏi Thần linh, có một dụng cụ được gọi là cốc ngao, dùng 2 mảnh vỏ trai tung lên không gian rồi rơi xuống đất, xem nó nằm sấp nằm ngửa để phán đoán lành đữ. Từ khi có phương pháp này, người đời sau không chỉ dùng vỏ ngao nữa, hoặc đã dùng trúc hoặc dùng gỗ đẽo gọt như hình vỏ ngao, trong đó chia làm 2 loại có sấp có ngửa cho nên gọi là cốc ngao. Gọi là cốc vì bên trong vỏ ngao là rỗng có thể đựng chứa đồ vật, hình dáng của nó giống như chiếc cốc. Còn ngao vốn là giáo, nói lên lời chỉ giáo của Thần linh, sẽ biểu hiện thành sấp hoặc ngửa vậy." Từ đó ta thấy ném vỏ trai là một phương pháp xem bói đơn giản, nghĩa là chỉ đem 2 mảnh vỏ trai (hoặc các đồ vật dùng mảnh trúc, mảnh gỗ đẽo thành hình vỏ trai) ném tung vào không gian, đợi sau khi nó rơi xuống đất xem vỏ trai nằm úp xuống hoặc ngửa lên để đoán lành dữ. Việc này cũng giống như việc người ta tung ném đồng tiền để xem mặt sấp ngửa để giành hơn thua. Về việc tung cốc ngao, Diệp Mộng Đắc đời Tống đã ghi chép một câu chuyện lí thú trong sách "Thạch lâm yến ngữ" rằng Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận khi còn chưa trở thành người có quyền lực, một hôm sau khi uống rượu, ông đi vào miếu Cao Tân, Nam Kinh thấy trên hương án có một chiếc cốc trúc, do đó ông cầm lấy để chiêm bốc xem danh vọng của mình trong tương lai. Một ngửa một sấp là Thánh chỉ. Những người cùng đến đó, từ Thiếu hiệu đến Tiết độ sứ, ai nấy đều lần lượt tung ném, nhưng đều không đạt được Thánh chỉ một sấp một ngửa. Lúc này Triệu Khuông Dận bỗng nhiên nói : "Sau đây sẽ phải là tượng của Thiên tử, một sấp một ngửa rồi". Thuận tay vừa ném đã đạt Thánh chỉ một sấp một ngửa. Câu chuyện này là để thần thánh hóa Triệu Khuông Dận, chứng minh cuộc chính biến Trần Kiều của ông và ứng theo ý trời của ông đã khoác lên mình chiếc áo Hoàng bào. Các bậc đế vương trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc xuất thân đều có vàng hào quang "ứng thiên thuận dân" (theo trời thuận dân) thần thánh. Triệu Khuông Dận tung được Thánh chỉ, chỉ là một bản nhạc xen giữa bé nhỏ của việc xuất thân đế vương của Triệu Khuông Dận mà thôi. Công dụng của việc bói cỏ thi Công dụng của việc bói toán đã được ghi lại trong sách "Sử kí - Quy sách truyện" có tới hơn 20 loại, trong đó có "bốc tài", ”bốc cư", "bốc tuế", "bốc thiên", "bốc đề” v.v... Nhưng trên thực tế, việc bói toán không có chỗ nào không đúng, người ta có mục đích gì, có yêu cầu gì, có tâm nguyện gì, đều có thể thông qua việc bói toán để cầu sự gợi ý của thần linh. Thời thượng cổ, việc bói cỏ thi do Bốc quan phụ trách, phần lớn dùng đế dự đoán các việc lớn của Quốc gia và quân sự, thường hay gặp có "bốc thế", "bốc niên”, "bốc giao", "bốc thực", "bốc tuế". Bốc thế chính là dùng cỏ thi hoặc mai rùa để dự đoán số đời truyền quốc. Bốc niên chính là dự đoán số năm các vương hầu hưởng quốc. Bốc giao là dự đoán ngày tốt để tế lễ. Bốc thực là chọn địa điểm làm quốc đô. Bốc tuế là để dự đoán năm tới được mùa hay thất thu. Khi xem bói "quân quốc đại sự" có 3 nguyên tắc : một là trước dùng cỏ thi đoán, sau bói. Người xưa cho rằng vật trước tiên có tượng, sau có số, rùa là xem tượng, còn đoán cỏ thi là bằng số. Khi bói cỏ thi thì trước tiên lấy cỏ thi để đoán, nếu được số tốt thì không cần phải bói nữa. Nếu không tốt thì sẽ bói tượng của nó. Hai là đoán bói không quá 3 lần. Người xưa xem bói là để cầu điều tốt lành. Nhưng đôi khi không phải là hễ bói là có thể đạt được điềm tốt lành. Bói lần đầu không tốt, có thể bói lại lần thứ 2, thứ 3. Nếu lần thứ 3 bói đạt được vẫn không tốt, thì không có thể lại bói lần thứ 4. Người xưa cho rằng, cho dù lần thứ 4 bói có đạt được điềm tốt thì cũng không linh nghiệm. Vì thế thông thường bói 3 lần vẫn không phải là điềm tốt, thì công việc cần làm đó sẽ tạm thời dừng lại, đợi chọn được ngày tốt lại bói lại. Điều này được gọi là xem bói không quá 3 lần. Người đời sau thường nói là ”Sự bất quá tam" chính là từ "bói bất quá tam" chuyển âm mà ra. Ba là đoán bói không bắt chước nhau. Đoán bói trước tiên dùng đoán bằng cỏ thi, sau mới bói, nếu đoán bằng cỏ thi không tốt có thể bói lại ; nếu bói lại mà không tốt, thì không thể chọn lại cỏ thi. Người xưa cho rằng bói là tượng còn đoán cỏ thi là số. Vật trước tiên có tượng, sau có số, tượng số không thể đổi chỗ cho nhau. Vì thế, cho dù bói mà không tốt có thể bói lại, nhưng ngược lại không thể đoán cỏ thi lại. Ba điều trên có thể nói là những nguyên tắc thời Thượng cổ khi bói cỏ thi phải tuân theo. Còn khi bói cỏ thi thì Bốc quan phải tắm giặt thay quần áo đốt hương cầu khấn là những điều cần phải làm, về sau thuật bói cỏ thi lưu truyền trong dần gian thì công dụng của nó ngày càng rộng rãi. Từ hai nhà Tần Hán về sau, thuật bói cỏ thi đã lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Còn việc quốc gia quân sự thìthường dùng quẻ trong "Kinh Dịch" và "Chiêm tinh" để dự đoán cát hung. Bói cỏ thi đã từ cung điện nguy nga của những kẻ thống trị đếnvới dân gian, thuật bói cỏ thi do đó được phát triển nhanh chóng và được dùng rộng rãi vào cuộc sống đời thường của mọi người. Nhiều người tin tưởng Thần linh mỗi khi gặp phải việc gì khó khăn không quyết định nổi hoặc một số việc khác vẫn thường có ý thức mượn các thuật sĩ để chiêm bốc.
Tinh tượng và lich pháp
Trong cuộc sống bầy đàn của người nguyên thủy tồn tại hai thế giới hoàn toàn trái ngược. Một cái là thế giới sáng sủa dưới ánh mặt trời chói chang, muông thú chạy nhảy, một cái khác là thế giới đen tối, tinh tú dày đặc. Thế giới sáng sủa đối với loài người thật ra không có gì đáng sợ. Hầu như hàng ngày về ban ngày họ đều đang tiến hành cuộc chiến đấu dũng cảm. Khi từng con thú hoang dã bị ngã xuống trước lưới rìu đá, mũi tên cung và những ngọn lao của họ, thì lòng tự tin của loài người liền được dựng lên. Song đến đêm tối, loài người nguyên thủy lại hiện ra một cảm giác lo sợ. Bởi vì họ không có cách gì để chinh phục đêm tối, không có cách gì để chinh phục không gian đêm xa xăm. Sự phát minh lửa đã chiếu sáng tất cả mọi thứ quanh mình, nhưng vẫn không có cách gì nhìn thấy rõ tất cả mọi thứ trong màn đêm đen tối. Sau khi quan sát vô số lần, người ta đã phát hiện ra những điều kì diệu của không gian ban đêm , thành thuộc quy luật biến đối của các vì sao. Mặt trăng, vì sao lớn nhất, sáng nhất trên bầu trời ban đêm. Đương nhiên đây là kết luận trong tầm mắt của người nguyên thủy, luôn là vừa tròn vừa khuyết. Người xưa phát hiện mặt trăng tròn khuyết có quy luật nhất định với bốn mùa : Mặt trăng cứ tròn khuyết 12 lần thì vừa đúng là bốn mùa. Như vậy, khái niệm của năm đã sản sinh và được quy định. Sách "Thư. Nghiêu điến" nói : "Khâm nhược hiệu thiên, lịch tượng nhật nguyệt tinh thần". "Lịch" ở đây chỉ chính là lịch pháp. Nghĩa gốc của "lịch" là ghi số. "Tinh" là hằng tinh nhị thập bát tú. "Thần" là Mặt trời và Mặt trăng gặp nhau. Từ tư liệu này ở trên có thể nhìn thấy thời đại Vua Nghiêu, các nhà hiền triết Trung Quốc đấ biết quan sát tinh tượng để báo giờ. Lịch pháp trước thời Nghiêu là Hỏa lịch. Hỏa là Đại Hỏa, tức hai sao Tâm, Tú. Về sau lại phát triển thành lịch Thái dương (lịch Mặt Trời). Trước thời này không có khái niệm "thiên" (trời), chỉ đến thời Nghiêu mới có, người ta đã học được "lịch tượng nhật nguyệt tinh thần, kính thụ nhân thời" mới bắt đầu nhận thức "thiên", nhận thức thời gian. Đây cũng chính là sự giải thích tốt nhất vì sao dùng "Thiên thời". Lịch pháp Trung Quốc dùng Thiên can Địa chi để biểu hiện. Thiên can biểu hiện ban ngày sáng sủa của Dương, Địa chi biểu hiệnđêm tối của Âm. Ban ngày và ban đêm cũng vừa đúng là một ngày, cho nên mới có Thiên can, Địa chi. Theo truyền thuyết xưa, Thiên can Địa chi là do Hiên Viên thời Thái cổ lệnh cho họ Đại Náo tạo ra. Mười Thiên can đại biểu ngày, mười hai Địa chi đại biểu tháng. Người đương thời chưa có khái niệm số trừu tượng, cho nên đành dùng một thiên can đại biểu một ngày. Thoạt đầu, can chi phối hợp là dùng đế biểu thị "năm". Sáu mươi năm gọi là một hoa giáp, sau sáu mươi năm lại lập lại tính toán. Mặc dù loại lịch pháp này rất vụng về, nhưng cuối cùng nó dã hoàn thành sự tiến bộ từ sao đến lịch, từ tượng đến số. Cần phải nói đây là có ý nghĩa Thời đại. Sự sùng bái các sao
Người Trung Quốc xưa không những cho rằng thiên thời liên quan chặt chẽ với tinh tượng không thể tách rời, mà còn cho rằng thiên thời tốt xấu chịu ảnh hưởng của tinh tượng trên bầu trời, nhất là các nhân vật lớn của giai cấp thống trị đại biểu ý chí của trời và sự kiện lớn xuất hiện đều có liên quan với tinh tượng, điều này đã này sinh ra thuật chiêm tinh. Tư liệu sử cổ ghi chép : Họ Hiên Viên thời Thái cổ đã cử người chuyên chiêm tinh gọi là "Tinh quan”. Sách "Chu lễ" có một đoạn văn chuyên bàn về thuật chiêm tinh như sau : "Họ Bảo Kinh nắm chức Chưởng Thiên tinh để ghi chép sự biến động của Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao, để quan sát sự biến đổi trong thiên hạ phán đoán cát hung. Dùng các sao để phân biệt các vùng đất của Cửu châu (Trung Quốc), các khu vực được phân cấp đều có phân thành sao để quan sát các điềm lành dữ". Thuật chiêm tinh bắt nguồn từ sự sùng bái các sao của các bộ lạc nguyên thủy. Khi con người thời hoang sơ ngửa đầu lên nhìn bầu trời ban đêm, những chòm sao sáng lấp lành chứa đựng đầy những điều thần bí đã thu hút nhiệt tình, lòng hiếu kì của loài người một cách sâu sắc. Các vì sao trên trời vừa nhiều lại có thể phát sinh biến đổi. Quan sát lâu dài, cuối cùng cũng có thu hoạch, người ta phát hiện có tinh tượng có liên quan với nhân sự. Ví như về hàng hải và trồng trọt đều có thể xem một loại tinh tượng nào đó để quyết định. Các nhà hiền triết xưa cho rằng : Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ chính là có liên quan tới việc lao động trồng trọt. Sao Cơ và sao Tất có liên quan với mưa gió. Có một điều khá hứng thú là trong khi con Rồng cháu Rồng trên mảnh đất hoàng thổ nghiên cứu đối với tinh tượng, thì tổ tiên của người châu Âu ở phía kia của quả đất cũng đang chăm chú nhìn lên bầu trời để quan sát. Đây không phải là việc ngẫu nhiên. Người cổ Hi Lạp xem các sao Thất diệu của cung Kim ngưu làm "các sao tiêu chuẩn" của hàng hải, chỉ có chờ khi nó xuất hiện trên bầu trời thì mới dám kéo buồm lên để chạy tàu thuyền. Đối với sự xuất hiện Sao Chổi và Sao băng, người phương Đông và người phương Tây đều biểu hiện hoảng sợ sâu sắc và nỗi lo ngại tột độ. Họ cho rằng đây là điềm báo trước tai hoạ sắp ập đến. Trong lịch sử ở nước ta, các triều đại đều có quan chức chuyên quan sát tinh tượng, như các chức Tinh công, Khâm thiên giám. Họ "Tìm tòi và nhận biết sự gặp nhau của Ngũ tinh, Nhật (Mặt trời), Nguyệt (Mặt trăng), tai nạn xấu, điềm tốt, trong thuật này đều xuất hiện, đây là thuật đoán biết mệnh của Thánh nhân (sách ”Hán thư. Nghệ văn chí"). Tinh bốc (bói sao) dự đoán cát hung, chỉ có thể giớị hạn ở nhân vật lớn, sự kiện lớn của giai cấp thống trị, còn người dân bình thường thì không thể dùng. Cho nên mọi quyết sách lớn và biện pháp thực thi về chính trị, quân sự trong lịch sử đều phải xem tinh tượng. Như Học giả Vương Sung thời Hậu Hán đã nói "Quốc mệnh có liên hệ với các sao. Các sao cát hung, nước có phúc họa, các sao chuyển dời, người có hưng suy". Sách "Tả truyện" đã từng ghi chép một câu chuyện như sau : Thời nước Ngô tấn công nước Việt, nhà Tinh bốc Sử Mặc bèn đoán, nói : không đầy 40 năm vượt nó chỉ có nước Ngô ; nước Việt được Tuế tinh mà Ngô đánh nó thì ắt phải nhận lấy việc hung. Ông nói Tuế tinh ở nước Việt, quốc vận của nước Việt sẽ có thể hưng vượng, nước Ngô lại đến đánh nước Việt, tất nhiên phải tự nhận lấy tai họa đó. Về sau quả nhiên đã ứng nghiệm lời đoán của ông'. Thời Hậu Hán, nhà Hán cử hai sứ giả vào đất Thục, viên lại Quán dịch là Lý Lân đã dự biết trước. Bởi vì hai sứ tinh là Thiên ất và Thái ất ở trên trời đều phân dã về phai ích Châu. Theo người nguyên thủy, trên trời bủa giăng đầy sao, trên mặt đất cũng bủa giăng đầy người. Giữa sao và người có mối quan hệ kì diệu, sao và người là có thể biến đối với nhau. Tiểu thuyết cổ điển ở nước ta và chuyện Thần thoại cổ Hi Lạp đều phản ánh quan niệm này. Quan niệm này đã hình thành tư tưởng triết học "Thiên nhân tương ứng" của Trung Quốc, đã xuyên suốt toàn bộ nền văn hóa cổ đại Trung Quốc. Thực tế "Kinh Dịch" cũng là xây dựng trên cơ sở này. Các nhà hiền triết Trung Quốc đã cùng khảo sát thời gian và các sao ngang nhau. Thiên thời chính là thiên tượng hoặc tinh tượng. Gọi "Thời thần." chính là chỉ thời gian và tinh tượng xuất hiện trong khoảng thời gian này. Từ đó ta có thể nhận ra sự trọng thị của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với tinh tượng. Từ trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chúng ta có thể nhìn thấy, yêu cầu đối với tướng soái thời xưa là "Trên phải biết thiên văn, dưới phải tinh thông địa lí". Gia Cát Lượng thời Tam quốc chính là tinh thông thuật Tinh bốc. Trước trận đại chiến Xích Bích ông đã từng có hai việc làm chấn động lòng người, đó là việc dùng thuyền cỏ mượn tên và mượn gió đông. Trên thực tế chính là ông từ tinh tượng biết được ngày hôm đó sẽ có sương mù và gió, Còn có một lần ông nhìn thấy phương Đông có một ngôi sao lớn rơi xuống, liền biết Quan Vũ chấn giữ Kinh Châu đã mất Các sao chinh và hàm ý của nó Muốn nhận biết thuật chiêm tinh của Trung Quốc, trước tiên cần phải có một số tìm hiểu đối với Tam viên, Tứ tượng, Ngũ vĩ, Thất diệu, Nhị thập bát tú : TAM VIÊN Các tinh sĩ đem Tam viên đối ứng lại với người đời và quy định nội dung nhân sự đối ứng với Tam viên, Tử vi viên là đối ứng với đế vương ở nhân gian, là đế tinh ở chỗ đó. Minh Lang Anh trong sách "Thất tu loại cảo. Thiên văn loại" đã giải thích "Tử vi viên" như sau : "Tử là màu đỏ màu đen cùng hợp lại mà thành. Thiên viên gọi là Tử vi là chọn tượng hai màu nước và lửa giao nhau. Nước và lửa giao nhau, vạn vật dùng nó để sống. Vạn vật dùng nó để sinh sống là chúa tế của muôn loài. Vì thế Thiên viên có Thiên khu tinh và Thiên hoàng đế tinh. Cho nên nơi Thiên tử ở cũng gọi là Tử thần (chốn thâm nghiêm). Còn Vi lấy nghĩa của tinh vi. Bởi vì đế tinh nằm ở Tử vi viên, cho nên Tử vi viên nằm ở trung khu của các vì sao ở trên trời đối ứng với nhân gian. Đế vương chính là chúa tể của nhân gian. Thái vi viên đối ứng là Tam công cửu khanh, Thiên thị viên đối ứng là mười hai phong quốc thời Tây Chu (Tấn, Sở, Tề, Lỗ, Trịnh, Tần, Yên, Trần, Thái, Tào, Vệ, Tống). Đem Tam viên đối ứng lại với nhân sự, rõ ràng là lấy người đời tưởng tượng thiên thể, ngược lại lại dùng quan sát tinh tượng trên trời đối chiếu với người đời. TỨ TƯỢNG NHỊ THẬP BÁT TÚ Bảy sao ở phương Đông: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Bảy sao ở phương Bắc : Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích ; Bảy sao ở phương Tây : Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sấm ; Bảy sao ở phương Nam : Tỉnh, Quỷ, Liêu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Nhị thập bát tú là tinh tượng men theo phụ cận đường Hoàng đạo và Xích đạo chia ra thành 28 bộ phận khác nhau, mỗi bộ phận sẽ gọi là một tú. Đem nhị thập bát tú phân thành 4 nhóm, mỗi nhóm 7 sao, lần lượt lấy 4 phương vị đông, tây, nam, bắc và bốn màu sắc xanh, đỏ, trắng, đen và hình tượng của mấy loại động vật rồng, chim, hổ và huyền vũ (rùa và rắn) để phối hợp gọi là tứ tượng. Quan hệ đối ứng giữa chúng với nhau như sau : Phương Đông, màu xanh, Thanh Long (rồng xanh) đối ứng với 7 tú (sao) là: Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Phương Nam, màu đỏ, Chu tước đối ứng với 7 tú là : Tỉnh, Quý, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Phương Tây, màu trắng, Bạch Hổ đối ứng với 7 tú là : Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sấm ; Phương Bắc, màu đen, Huyền vũ (rùa và rắn), đối ứng với tú là : Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích ; NGŨ VĨ Phương Đông Mộc tinh (sao Mộc) cũng gọi là Tuế tinh ; Phương Tây Kim tinh (sao Kim) còn gọi là Thái bạch ; Phương Nam Hỏa tinh (sao Hỏa) còn gọi là Huỳnh hoặc ; Phương Bắc Thủy tinh (sao Thủy) còn gọi là Thần tinh ; Trung ương Thổ tinh (sao Thổ) cùng gọi là Trấn tinh ; Ngũ tinh đều là hành tinh quay từ phải sang trái cho nên gọi là Ngũ vĩ. Các nhà chiêm tinh thời xưa cho rằng Mộc tinh (Tuế tinh) trong năm sao là cát tinh (sao tốt), nó vận động đến một khu sao nào đó, các châu, nước tương ứng với nó ở trên mặt đất sẽ được mùa ngũ cốc, dân yên nước thái bình. Hỏa tinh (Huyền hoặc) thì lại là tai tinh (sao tai hoạ), nó vận động đến một khu sao nào đó các nước châu tương ứng với nó sẽ phát sinh thiên tai nhân hoạ, những tai họa mà không có sức người nào có thể chống đỡ lại được. THẤT DIỆU THIÊN TÀN CỬU TINH (CHÍN SAO BẾN TRỜI) SAO THIÊN CẨU Triều Nguyên Chí chính năm thứ 6, đài Tư thiên có tấu trình : Sao Thiên cẩu rơi xuống đất bắt đầu ở Sở, kết thúc ở Ngô bao khắp các vùng Tề, Triệu, nhưng không đến được Lưỡng Quảng. Để làm việc ăn máu nhân gian năm ngàn ngày. Khi đó ở núi Ngọc An tỉnh Vân Nam, bỗng nhiên sinh ra vô số con chó con màu hung đỏ, thành từng bầy đàn sủa khắp nơi hoang dã. Người quan sát nói : "Sao Thiên cẩu này rơi xuống đất có sức mạnh như đoàn quân lớn bao trùm khắp cả khu vực“. Lại theo các phụ lão kế lại Thái tổ sau khi lên ngôi vua, hàng ngày tại chỗ giết người giữa chợ, ban đêm có một con chó trắng lớn ăn máu. Theo ý của lớp người như Từ Thọ Huy, Hàn Sơn Đồng, Trần Hữu Lượng, Minh Ngọc Trân, Nghê Văn Tuấn thì đều nổi lên ở Hồ Tương (Hồ Bốc, Hồ Nam) mà ở Nam Trực, Ngô trung càng cực thịnh. Sau đó, bốn miền Sơn Thiêm, Điền (Vân Nam), Thục đều có hoạ binh đao, chỉ có Phúc Kiến và Lưỡng Quảng, Vương sư đến thì lập tức ra hàng. Lấy đó để xem thì chiêm nghiệm những lời truyền lại, lẽ nào lại không tin ! SAO THIÊN LANG BỘT TINH Phân dã với hiệu ứng thiên trường Các nhà thiên văn cổ đại đã tưởng tượng vùng trời Vũ trụ có một vòng tròn lớn gọi là Hoàng đạo, đồng thời đem chia đường Hoàng đạo thành 360 độ, ở trong vòng 8 độ hai bên sườn nó là miên Hoàng đạo, Nhị thập bát tú xếp đặt ở trên đó. Dùng bốn quẻ chính của Bát quái (Li, Càn, Khảm, Khôn) phân thành bốn phương bốn mùa. Bắc thần tượng trung Thái cực, Bát quái phân nạp 12 lần, 12 địa chi. Dùng Địa chi phân nhóm bố trí ở bốn phương để đại biểu cho bốn mùa 12 tháng, sau đó mỗi phương vị (mỗi mùa) phân nạp 7 tinh tú tạo thành quan hệ của Bát quái với tinh tú và Thời vị. Mười hai Địa chi sắp xếp theo chiều thuận kim đồng hồ, còn Nhị thập bát tú thì sắp xếp theo chiều ngược kim đồng hồ. Sao Phòng đóng tại Mão là Xuân phân ; Sao Mão tại Dậu là Thu phân ; Sao Hư tại Tí là Đông chí ; Sao Tinh tại Ngọ là Hạ chí. Nguyên lí nội tại của hệ thống này rất khó dùng ngôn ngữ khoa học hiện đại để miêu tả ra được, nhưng có một điểm có thể khẳng định là nó nhất định có một điều cốt lõi bên trong hợp lí. Sách "Tố vấn. Cử thông luận" từ lâu đã chỉ ra rằng : "Người giỏi luận đoán về trời, tất sẽ có chiêm nghiệm về người." Theo tư tưởng của Thuyết toàn thông tin, tất cả mọi chuyển động của vũ trụ đều có thể tác dụng vào sinh mệnh trên quả đất ở mức độ khác nhau, từ đó trên thân thể các sinh mệnh trên quả đất đều lưu lại toàn bộ thông tin của nó. Trong chuyển động của các loại thiên thể vũ trụ phức tạp, chủ yếu lấy sự chuyển động của hai vầng Nhật (Mặt trời), Nguyệt (Mặt trăng) ảnh hưởng đến sinh mệnh trên quả đất là lớn nhất. Sự chuyển động của Mặt trời đã hình thành biến đổi khí hậu nóng lạnh, sự chuyển động của Mặt trăng thì có sự thay đổi nhau tròn khuyết, đồng thời chuyển động này của chúng biến đổi có chu kì. Tương ứng với nó sự vận hành khí huyết trong kinh mạch của nhân thể cũng có sự biến đổi có tính chu kì thịnh suy, ví dụ sự chuyển động biểu kiến của Mặt trời đã tạo nên sự thay đổi khí hậu bốn mùa. Khí trời ấm áp thì mạch nước trong đất cùng dễ lưu động, khí huyết trong người cũng dễ lưu thông. Ngược lại khi trời lạnh rét thì mạch nước trong đất cũng đông cứng. Còn khi huyết trong người cũng ngưng trệ không thông. Ví dụ rõ ràng nhất của ảnh hưởng chuyển động của Mặt trăng đến hoạt động sinh lí con người là kinh nguyệt của Phụ nữ. Thời gian thấy có kinh nguyệt cũng thống nhất với khí huyết thịnh suy của con người trong chu kì tháng. Hệ thống vị trí Nhị thập bát tú được sáng lập trong quá trình xác định quy luật chuyển động của Mặt trời và Mặt trăng. Sau khi các nhà hiền triết Trung Quốc đem chúng hòa hợp lại với nhau trong dự đoán tự nhiên có thể phản ánh được quỹ tích chuyển động của Mặt trời và Mặt trăng, đồng thời cũng cố hòng dự tính được ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng trong trạng thái vị trí được chỉ định đặc biệt đối với nhân sự. Ngoài chuyển động của Mặt trời, Mặt trăng ra, chuyển động của các thiên thể khác cũng có thể có ảnh hưởng nhất định, trong đó chủ yếu là chuyển động của hành tinh. Trong năm hành tinh lớn mà người xưa nhận biết được thì ảnh hưởng của Mộc tinh (sao Mộc) lớn nhất. Thời xưa Mộc tinh còn gọi là Tuế tinh, khi Tuế tinh xung mạnh có sự can nhiễu tương đối lớn đối với hoạt động sinh mệnh của con người. Căn cứ Thiên văn học hiện đại đo được, ta biết khối lượng của Mộc tinh gấp 2,5 lần tổng khối lượng các hành tinh lớn khác trong Thái dương hệ, có từ trường lớn mạnh đặc biệt, bức xạ điện từ của nó đạt tới quả đất, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sinh mệnh trên quả đất. Người xưa khi xem xét ảnh hưởng của hiệu ứng trường thiên thể đối với nhân sự, đã xem xét đẩy đủ đến tác dụng của Mộc tinh. Chu kì quay quanh Mặt trời của Mộc tinh là 11,86 năm, đối diện với một điểm gần Mặt trời nào đó, chu kì hội hợp chuẩn với quả đất là 12 năm. Trong 12 năm đó, quan hệ giữa Mặt trời, Quả đất và Mộc tinh nằm ở mấy trạng thái khác nhau, có thể cũng là một trong những nguyên nhân bên ngoài dẫn đến việc hình thành 12 đường kinh mạch trong thân thế con người. Sự sản sinh và sắp xếp của Nhị thập bát tú vừa căn cứ vào "Trời", lại căn cứ vào "Người", vừa có thể từ trong quan hệ Trời Đất tìm thấy được ngọn nguồn của nó, lại có thể từ trong tổng kết sâu xa đối với phương thức hành vi loài người tiếp xúc với sự phát triển của nó, biểu thị rõ ràng hệ thống toạ độ hiệu ứng khác nhau của Trời đối với người với các vị trí khác nhau. Loài người đã sinh sống trong điều kiện vật đổi sao dời, ảnh hưởng của trường thiên thể đối với phương thức hành vi của loài người trong trạng thái khác nhau, so với những điều hiện nay chúng ta có thể nhận thức được còn rộng lớn hơn nhiều, cũng sâu xa hơn nhiều. Ứng dụng thuật chiêm tinh trong quân sự Trong "Tam Quốc diễn nghĩa" đã ghi chép câu chuyện Gia Cát Lượng quan sát thiên văn mà biết được trong tháng có mưa lớn tầm tã, không đánh mà thắng quân Ngụy : Tào Chân dẫn đại quân bốn mươi vạn đi cướp Thục, Gia Cát Lượng nghe được tin này sai Trương Nghi, Vương Bình mỗi người dẫn một nghìn quân đi cố thủ đường Trần Thương để ngăn chặn quân Ngụy. Hai người nói : "Người ta báo quân Ngụy có 40 vạn, nói lừa là 80 vạn, thanh thế rất lớn, làm sao chỉ với 1000 quân mà đi giữ được cửa ải ? Nếu quân Ngụy đến đông hơn làm sao chống cự nổi nó ?". Gia Cát Lượng nói : "Ta muốn nhiều hơn nữa, nhưng sợ quân sĩ gian khổ quá". Trương Nghi, Vương Bình đều là những tướng có khả năng chinh chiến, nghe câu nói đó đành phải ngơ ngác nhìn nhau. Họ biết lấy hai ngàn đối chọi với 40 vạn chẳng khác gì lấy trứng chọi với đá, là mất mạng như chơi, cho nên đều không dám đi. Không ngờ Gia Cát Lượng lại như người không có việc gì xảy ra, chỉ thúc giục hai người đi : "Nếu có điều gì sơ xuất thì các người không phải nhận tội, không cần phải nhiều lời, có thể nhanh chóng đi ngay". Hai người vẫn không dám đi, lại buồn rầu nói : "Thừa tướng muốn giết hai người chúng tôi, thì xin giết tai đây, là vì không dám đi". Gia Cát Lượng nhìn thấy hai người sợ hãi như vậy, cười mà nói rằng : "Sao mà lại ngu như thế ! Ta ra lệnh cho các người chờ đợi đi, tự có chủ kiến. Đêm qua ta ngửa trông thiên văn, thấy sao Tất vận hành vào vùng của Mặt trăng (Thái âm), trong tháng này tất nhiên có mưa lớn tầm tã. Quân Ngụy tuy có 40 vạn, đâu dám vào sâu vùng núi hiểm ? Vì thế không dùng nhiều quân, nhất định không chịu hại. Ta đưa đại quân đâu để ở Hán Trung, an cư một tháng, đợi quân Ngụy rút lui, lúc đó dùng đại quân để đánh úp nó. Dưỡng sức chờ đánh quân địch đã mệt mỏi, quân ta chỉ có 10 vạn cũng có thể thắng quân Ngụy 40 vạn được". Hai người nghe xong vui mừng khôn xiết, lên mệnh lệnh đi ngay. Tào Chân lên đại quân đến thành Trần Thương thấy không có đại quân phòng thủ, ra lệnh tiếp tục tiến quân. Phó đô đốc Tư Mã Ý can rằng : "Không nên khinh tiến. Đêm tôi xem thiên văn thấy sao Tất vận hành vào vùng của Mặt trăng (Thái âm), trong tháng này ắt sẽ có mưa lớn. Nếu đi sâu vào nơi trọng yếu, hễ thắng thì còn được, nếu có sơ xuất người ngựa chịu khổ, muốn rút lui cũng khó. Mà nên dựng lên lán trại ở trong thành để ở, đề phòng mưa dầm". Quả nhiên, chưa đầy nửa tháng trời đổ mưa lớn rầm rì liền suốt một tháng. Ngoài thành Trần Thương chỗ đất bằng nước sâu đến ba thước, quân khí ướt sũng hết, người không thể ngủ được ngày đêm không yên, ngựa thì không có cỏ ăn, người chết vô số, tiếng oán của quân sĩ không ngớt. Tào Chân và Tư Mã Ý đành phải rút quân. Gia Cát Lượng xem thiên văn biết có mưa to liên miên, dĩ dật đãi lao, không đánh mà vẫn thắng. Tinh tượng với sự hưng suy quốc vận TRUNG THAI THƯỜNG XÍCH (SAO TRUNG THAI THƯỜNG NỨT) "Trung thai tinh thường xích" là nói sao Trung thai thường thường phân li, không thể hai tướng quốc ở lân cận nhau. Vì sao lại xuất hiện sự biến đối tinh tượng này ? Lang Anh dẫn lời của người khác nói : "Hoặc là trên dưới không hòa hợp nhau, hoặc là nguyên nhân trong triều không lập nổi Tể tướng". Ông không phải là xuất phát từ sự biến đổi của bản thân tinh tượng đế tìm tòi, mà là cho rằng giữa Trời và Người không thể tương ứng. Ông cho rằng "Trung thai tinh thường xích" là tượng trưng cho sự chia rẽ của tổn thất. SAO THIÊN QUYỀN THƯỜNG KHÔNG SÁNG NGŨ TINH TỤ HỢP Theo ghi chép, kể từ thế kỉ 11 trước công nguyên đến thời Minh Gia Tĩnh trải qua hơn 2600 năm, tổng cộng đã xuất hiện 8 lần hiện tượng "Ngũ tinh tụ hợp". Lần thứ nhất vào thế kỉ 11 trước công nguyên, năm sao tụ hợp tại chòm sao Phòng, tác giả cho là điềm báo nhà Chu sẽ thay nhà Ân ; Lần thứ hai vào khoảng trước sau năm 650 trước công nguyên, năm sao tụ hợp tại chòm sao Cơ, tác giả cho là điềm báo Tề Hằng công sẽ trở thành bá chủ số 1 thời Xuân Thu ; Lần thứ ba xuất hiện vào thời Hán Cao tổ Lưu Bang năm thứ nhất (năm 206 trước công nguyên), năm sao tụ hợp tại phía Đông chòm sao Tĩnh, Trương Nhĩ cho rằng "Đông Tĩnh thuộc đất Tần, Hán vương đang vào Tần đế chiếm thiên hạ", về sau, quả nhiên Hán Cao Tổ đánh thắng Hạng Võ thống nhất Trung quốc. Lần thứ tư xuất hiện vào tháng 8, Đường Huyền tông Khai nguyên năm thứ ba (năm 715), năm sao tụ hợp tại hai chòm sao Cơ và Vĩ, nhà chiêm tinh cho là tinh tượng này có nghĩa là có đức thì mừng, không có đức thì gặp tai ương. Sau khi Đường Huyền tông nối ngôi đã dốc sức vì nước lập lại an ninh trật tự trong thiên hạ, đã xuất hiện thời "Khai Nguyên thịnh thế". Cuối đời, Đường Huyền tông ham mê hưởng lạc, tin dùng gian tướng, sùng ái Dương Quý phi đã xuất hiện vào thời Ngũ Đại, Tốn Cao Tổ năm Thiên phúc (trước sau năm 940), năm sao trên cùng một đường thắng suốt mấy đêm liền ở phía Tây Nam. Thời gian 5 sao tụ hợp lần thứ 6, ghi chép có chỗ sai khác nhau, sách "Thất tu loại cảo" ghi là : "Tấn- Thái tố Kiến Long năm thứ 3, tháng 11, năm sao tụ hợp tại chòm sao Khuê", Lang Anh cho là năm sao tụ hợp lần này là điềm báo đời nhà Tống hưng thịnh, cái gọi là "có đức thụ mệnh bao trùm khắp bốn phương, con cháu sinh sôi, vinh xương" cũng là thế. Lần thứ bảy xuất hiện vào thời kì Minh Thái tổ Hồng Vũ, năm sao cũng tụ hợp tại chòm sao Khuê. Lần thứ 8 xuất hiện vào thời Minh Thái tổ, Gia Tĩnh năm thứ hai (năm 1523), năm sao tụ hợp tại chòm sao Thất. NGỮ ĐỨC CHUNG THỦY Huỳnh hoặc lại đi ngược gặp với sao Thái Bạch ở Thiên quan, sao Kim và sao Hỏa hội hợp với nhau, tất nhiên sẽ có Thiên tử mới xuất hiện. Tôi xem khí vận Đại Hán sắp hết, trong đất Tấn Ngụy ắt có người nổi lên". Lại mật tâu với Hiến đế : "Mệnh trời có kẻ đi người ở, ngũ hành thịnh suy bất thường. Thay Hỏa là Thổ, thay Hán mà có được thiên hạ đương nhiên là ở Ngụy”. Trấn tinh tức Thổ tinh (sao Thổ) nằm ở giữa ngũ tinh, Thái Bạch tức Kim tinh (sao Kim) ở phương Tây, "Thái Bạch phạm Trấn tinh vu Đẩu, Ngưu" là nói sao Kim ở phương Tây vận hành vào trung ương cùng phạm vào Trấn tinh ở vùng hai chòm sao Đẩu, Ngưu, sau đó qua Bến Trời đến Thiên quan. Huỳnh hoặc tức sao Hỏa ở phương Nam. Sao Hỏa đi ngược lại cùng đến Thiên quan, sao Kim và sao Hỏa cùng gặp nhau tại vùng sao Thiên quan. Căn cứ biến đổi tinh tượng này, Vương Lập đoán "ắt là có Thiên tử mới xuất hiện". Vương Lập nói : "Thừa kế nhà Hán là Ngụy thôi", chính là dựa theo thuyết "Ngũ đức chung thủy" (lễ suy đoán. Hán thuộc Hỏa, Ngụy ở trung ương (giữa), trung ương thuộc Thổ, mà Hỏa có thể sinh Thổ cho nên có thuyết "Thay Hỏa là Thổ". Mưu sĩ hàng đầu của Tào Tháo là Tuân Du nghe được lời của Vương Lập, theo học thuyết "Ngũ đức chung thủy” khuyên Tào Tháo dời đô về đất Hứa : "Nhà Hán lấy đức Hỏa làm vua, còn minh công lại mệnh Thổ. Hứa đô thuộc Thổ đến đó tất hưng thịnh. Hỏa có thể sinh Thổ, Thổ có thể vượng" Mộc, chính là hợp với lời của Đổng Chiêu và Vương Lập, tất sau này sẽ phát mạnh". Nhà chiêm tinh Vương Lập đem 5 loại nguyên tố cấu tạo thành vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đối ứng lại với 5 sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, dùng lí thuyết ngũ hành sinh khắc để giải thích một số biến đổi của tinh tượng, "Kim hỏa giao hội, cách mệnh chi tượng" của Vương Lập, căn cứ của nó chính là Hỏa khắc Kim. Kim Hỏa cùng tụ hợp với nhau mà Hỏa có thể khắc Kim tất nhiên có vật chất mới tạo nên. Vì vậy, Vương Lập đem "Hỏa Kim giao hội" gọi là "cách mệnh chi tượng” (biểu tượng là cách mạng). Thuật tinh bốc và vận mệnh cá nhân Thần sát nói ở trong thuật Tinh mệnh lại là tinh Tượng. Ví như các sao : Thiên ất quý nhân, Tướng tinh, Hoa cái, Văn xương, Thái Tuế. Khi ngày hoặc tháng sinh của một người gặp được những sao này, thì những tinh tượng này sẽ quyết định vận mệnh một đời của người này. Trong "Kinh Thi” có bài thơ : "Ngã thần an tai ?!" Lại là biểu hiện một người tự than ngôi sao chiếu mệnh của mình là ngôi sao nào. Ngoài ra, nhà Đại văn hào đời Đường là Hàn Dụ thường thường tự than cung mệnh Ma kết. Bởi vì Ma kết chiếu mệnh là không tốt, bất lợi. Lỗ Tấn cũng đã từng làm thơ nói : "Viễn giao Hoa Cái dục hà cầu", căn cứ lí thuyết chiêm tinh giải thích nói : người có Hoa cái chiếu mệnh, có nghệ thuật trời phú cho tương đối cao, nhiều tài nhiều nghề, nhưng là người sống thanh cao cô quạnh. Theo lí thuyết tinh bốc Trung Quốc, trong mỗi năm có rất nhiều Thần sát. Dùng "Thái tuế" làm đầu thay nhau trực năm. Thần sát mỗi năm có tốt có xấu. Cung mệnh của một người nếu như gặp Cát thần (Thần tốt) lưu niên, thì năm này sẽ có thể có phúc, nếu gặp phải sát tinh thì năm này sẽ có thể có tai hoạ đưa đến. Lí thuyết giải thích phúc họa đời người này mang nhiều sắc thái gượng ép, cho nên về sau có không ít nhà chiêm bốc cũng không tán thành cách giải thích này. Nhưng thuật Tinh mệnh không chỉ có ở phương Đông, mà ở phương Tây cũng tồn tai từ rất lâu. Chúng tôi đã từng từ trong tác phẩm của một học giả nghiên cứu tính cách người Pháp hiện đại xem được tài liệu Tinh tướng học của phương Tây. Môn Tinh tướng học này là căn cứ ngày tháng năm sinh của một người, cho mỗi người lấy 12 loại tinh tướng tượng trưng. Mười hai loại tinh tướng này không phải là lấy một tháng đế tính toán, ví dụ sao Bạch dương (Aries) là từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 20 tháng 4 ; chòm sao Kim ngưu (Taurus) là từ ngày 21 tháng 4 đến ngày 20 tháng 5 ; chòm sao Song tử (Gemini) là từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 21 tháng 6, v.v... Mặc dù không trong một tháng, nhưng chu kì đại thể đều là 30 ngày. Từ đây, chúng ta đã sản sinh ra một ý tưởng lạ : hạt giống của sinh mệnh trong quá trình từ lúc sinh trưởng đến lúc tử vong, tinh tú có lẽ thật sự có những nguyên cớ nào đó không hiếu nổi đối với chúng ta. Bởi thế, loài người đối với nhận thức tự thân và khai thác tiềm lực phải nhờ vào việc thăm dò của loài người đối với vũ trụ. Bởi vì chúng ta cho đến nay, còn chưa thể nhảy ra khỏi "góc độ quả đất" nên nền văn hóa của chúng ta vẫn còn là "văn hóa ở quả đất". THUẬT ĐOÁN MỆNH Theo lí luận của các nhà đoán mệnh ”Con người thụ mệnh ngay từ khi cha mẹ thụ khí, đã có cát hung rồi... Giàu sang, nghèo hèn đã có từ lúc bẩm sinh, không phải là sau khi lớn lên theo tiết tháo của mình mà có được", (thiên "Mệnh nghĩa"). Vương Sung cũng nói : "Mệnh, cái đã có ngay từ lúc bẩm sinh, con người sinh ra từ lức thụ tính (giống), đã thụ mệnh". Vì thế, "Mệnh", các nhà đoán mệnh nói, cũng chính là "Thời”. Thuật đoán mệnh bắt nguồn từ thuật chiêm bốc. Trải qua 2 thời nhà Hán, Đường sự sáng tạo của các nhà tinh mệnh học phát triển, phương pháp ngày càng thành thực, lí luận cũng trở nên hệ thống hơn. Phương hướng tìm tòi của nó là vấn đề đời người với thời gian, vấn đề nó giải đáp không phải là con người từ đâu đến, mà là những đáp án hiện thực chỉ ra làm thế nào để sống được khá hơn. Sự tìm tòi của đáp án là sự ra đời của con người, tức là sự bắt đầu của sinh mệnh. Các nhà đoan mệnh dùng Thiên can, Địa chi để sắp xếp giờ, ngày, tháng, năm sinh của con người, tiếp sau dùng ngũ hành thay can chi để suy diễn mối quan hệ giữa 8 chữ can chi và tìm được lời giải cần tìm. Các nhà đoán mệnh phân chia toàn bộ quá trình đời người thành 12 giai đoạn hay là 12 trạng thái : Trường sinh : tức mới sinh. Phương pháp suy diễn này bắt nguồn từ nhận thức đặc trưng của vật chất. Ví dụ Mộc tại tháng Hợi (tức tháng 12) là trạng thái Tràng sinh. Cây cối lúc này hơi bắt đầu sinh trưởng từ trong trạng thái đất trời đầy băng tuyết, đang chờ đón mùa xuân đến. Người dùng ngày, tháng, năm sinh của người để đoán mệnh đầu tiên là Lý Hư Trung Thời nhà Đường. Đến thời Ngũ Đại có một người tên là Từ Tử Bình ẩn cư tại động ngọn núi Tây thường Thái Hoa đã cải tiến thủật đoán mệnh. Xác định lập luận lấy bốn mục : năm, tháng, ngày, giờ sinh của người để đoán mệnh. Lãnh tụ Đạo học thời Tống là Chu Hi rất tin tưởng thuật đoán mệnh. Ông nói : "Người đời lấy can chi của giờ, ngày, tháng năm sinh của con người để nạp âm' để suy diễn ; biết được mọi việc cát hung, thọ yểu, cùng cực và thành đạt của người đó. Thuật đó tuy có chỗ còn nông cạn, song những người có học cũng vẫn chưa tạo được gì tinh vi hơn. Mọi cái bao trùm cả trời đất, sinh vật thảy đều không vượt khỏi âm dương ngũ hành ; Các thông tin lúc khuất lúc hiện của nó, đan xen nhau biến đổi, vốn đã không thể khảo cứu hơn. Còn trời phú cho muôn vật có sự khác nhau hiền, ngu, sang hèn, đặc biệt sai khác nhau chút đỉnh về tối tăm hoặc thông minh, điều đó có thể dễ hiểu được." Không chỉ có Chu Hi tin tưởng thuật đoán mệnh, mà từ nhà Đường trở về sau, mọi người không kể giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, trai gái, mọi việc không kể là làm quan, thi cử, kinh doanh, hôn nhân, hầu như ai ai cũng đều tin vào số mệnh. Ngay cả đến Hoàng đế cùng đoán mệnh. Làm việc đó không ngoài mục đích để tìm ra hoặc xác định cơ may thành công của mình. Định nghĩa vận mệnh Ví dụ, nếu một người trong cả cuộc đời không có tai nạn lớn, hoặc gặp tai nạn lớn nhưng không chết, gia đình hạnh phúc hòa hợp, cuộc sống đầy đủ, tiền tài không thiếu, khoẻ mạnh trường thọ, quan vận hanh thông thanh danh thành gia, "bách mưu bách thành", mọi việc như ý, thường dễ dàng đạt được những cái mà người khác phải bỏ ra sức lực lớn hơn vẫn không với tới được. Những gì chúng ta thường nói anh ta có mệnh vận tốt chính là nói kết cục và trạng thái một đời của người đó tốt. Có thể người này xuất thân từ địa vị thấp hèn, có thể thời trai trẻ không ngờ phải trải qua cuộc sống long đong, có thể tài năng không có gì kiệt xuất, nhưng lại được tất cả hạnh phúc của đời người. Ngược lại, có một số người trong cả cuộc đời gặp nhiều tai nạn, cuộc sống gia đình bất hạnh, khốn khó buồn chán, mọi việc trắc trở, mưu sự không thành, thậm chí bất hạnh chết sớm, gặp nhiều thảm hoạ ngang trái, có thể người này rất có tài năng, rất thành thạo, lăn lộn móc nối ; có thể xuất thân từ gia đình cao sang, được đào tạo bồi dưỡng rất cao, nhưng cuối cùng vẫn không được như ý ; có người có thể đã từng có chức tước to, nhỏ, nhưng không phải là vừa được đề bạt đã bị mất chức hoặc vì nguyên nhân khác phải vội vàng dờí nhiệm. Tất cả những trường hợp này, ta sẽ nói anh ta số phận long đong, chính là nói kết cục và trạng thái cuộc đời của người này là không tốt. Từ ví dụ này ta thấy, mặc dù vận mệnh là đặc điểm và xu thế chung của tất cả những gì đã gặp trong đời người, nhưng cũng giống như sự cảm thụ của cuộc sống hàng ngày, hầu như vận mệnh lại là một sức mạnh, một sức mạnh mà con người rất khó nắm vững và chi phối, mà từ đầu đến cuối nó sẽ chi phối hoạt động lựa chọn của con người, đồng thời đã định sẵn kết cục một đời. Bởi vì người ta thường suy ngẫm : Tại sao cũng là người mà lại có mệnh vận hoàn toàn khác nhau ? Tại sao cái phải bỏ ra và cái thu được lại không tỉ lệ với nhau ? Tại sao sự việc lại thường đi ngược với ý nguyện ? Tại sao con người không có cách nào để hiểu biết tương lai, khó tránh khỏi hiếm họa ? Tại sao con người không thể theo ý chí của mình đế sinh tồn, để hoàn thiện mình và tự do chi phối sinh mệnh của chính mình ? Tất cả các điều đó khó tránh làm cho người ta có sự hiểu sai, hầu như có một sức mạnh âm thầm nào đó mà sức người không thể bì kịp, đã chi phối và thao túng tất cả mọi cái của con người. Nói cách khác, tất cả đều là do cuộc sống an bài. Loài người không có cách nào khác đối với sức mạnh này, tất cả mọi hoạt động đều không thể tránh khỏi sự sắp đặt của cuộc sống, mà đây chính là vận mệnh. Cho nên, cho dù thời kì đương đại này, nhiều giải thích cũng không thoát khỏi điều còn nghi hoặc này, ta hãy xem một giải thích trong sách "Luân lí tôn giáo bách khoa toàn thư” bản tiếng Anh đối với vận mệnh như sau : "Mệnh là một loại thế lực mà khả năng của chúng ta không thể nào chống cự lại được, thường là một thế lực vô ý thức, vật chất, cơ giới. Loại thế lực này có thể quản lý cả thế giới, mà ngay cả con người cũng nằm trong “hàng ngũ bị quản lý này". Thực chất của vận mệnh Từ khía cạnh quy luật tự nhiên để xét, như mọi người đều biết, người là sản phẩm của tự nhiên, mọi sự sinh tồn và hoạt động của con người chỉ có thể tiến hành trong thời gian, không gian mà tự nhiên tạo cho, tất cả mọi nhu cầu sinh tồn cũng chỉ có thể hấp thụ trong tự nhiên, Nghĩa là quy luật tự nhiên quyết định sự sinh tồn và phát triển của loài người, quyết định sự chọn lựa và hoạt động của cá thể chỉ định trong thời gian không gian chỉ định của tự nhiên. Sự chọn lựa và hoạt động này có thể xem như là vận mệnh. Còn đối với tự nhiên to lớn bao la và vĩnh hằng, không kể là toàn bộ hay là quần loại mãi mãi vẫn là bé nhỏ, mãi mãi cũng chỉ là một trẻ thơ trung thực của tự nhiên. Định vượt qua hoặc không tuân thủ quy luật tự nhiên, cứ bành trướng bản thân mình một cách không kiềm chế, thì kết cục của nó hay nói cách khác là vận mệnh nhất định phải bi thảm. Thế giới ngày nay, do những cuồng vọng và mù quáng của loài người tạo nên như làm mất cân bằng và phá hoại sinh thái, làm ô nhiễm bầu khí quyển và cái gọi là "hiệu ứng buồng nóng", v.v... đã làm cho chúng ta cảm thấy loài người đang đứng trước vận mệnh bi thảm, như vô vàn sự chết chóc, đói rét do hạn hán và lụt lội gây ra. Tóm lại là xem xét từ khía cạnh quy luật tự nhiên, vận mệnh chính là sự thích nghi và mức độ tôn trọng của con người đối với quy luật tự nhiên. Xét từ khía cạnh xã hội, cá thể con người là sản phẩm của quần loại, cũng là một phần tử tạo thành quần thể. Cũng giống như loài người không tách rời đại tự nhiên, sự tồn tại của cá thể cũng không tách rời xã hội. Quy luật xã hội tất nhiên sẽ quyết định sự chọn lựa và hoạt động của một người, trong thời gian không gian chỉ định trong xã hội. Sự chọn lựa và hoạt động, tương tự cũng có thể xem nó như là vận mệnh. Nếu cá thể đó vi phạm quy tắc giá trị, quan niệm luân lí, phương thức sinh hoạt của quần thể, như thế thì tất nhiên sẽ gặp phải sức mạnh xã hội lớn hơn gấp nhiều lần sức mạnh cá thể lạnh nhạt, ruồng bỏ thậm chí trừng phạt. Ví như một người có cá tính quá quái dị, làm việc quá thiên tư, làm cho người bình thường không ai hiểu nổi mà cũng không có cách nào chấp nhận nổi, mọi hành vi của họ tất nhiên chỉ có thể gặp cản trở khắp nơi, do đó vận mệnh nhất định phải long đong lận đận. Không có sự tôn trọng của xã hội, không có sự tu dưỡng phong độ tốt sẽ không thể có địa vị và danh vọng hiển hách. Không có sự bồi dưỡng văn hóa, quan niệm kinh doanh tối thiểu, tất nhiên không thể chọn được nghề nghiệp và ngành kinh doanh của mình thích hợp, không những không thể trở thành một nhà doanh nghiệp, một giám đốc, ngược lại sẽ khuynh gia bại san, vận mệnh long đong lận đận. Tóm lại từ khía cạnh xã hội, vận mệnh chính là trình độ nắm bắt thông tin của con người đối với xã hội. Từ khía cạnh sinh mệnh để xét, sinh mệnh con người chịu hạn chế của kết cấu sinh lí của cá thể chỉ định, cần phải tiến hành tuyển chọn và hoạt động trong phạm vi công năng về sinh lí của nó có thể đạt tới, cũng có thể xem nó là vận mệnh. Vi phạm thiên tính của con người, không yêu quý sinh mệnh, đương nhiên sẽ không mạnh khoẻ sống lâu, dùng những phương thức vi phạm thiên tính của con người để chọn lựa, để hoạt động, đương nhiên sẽ không có được "bách mưu bách thành", mọi việc đều trôi chảy. Ví dụ, mặc dù chúng ta không thể làm cho mình "trường sinh bắt tử", cũng không thể nắm vững một cách hữu hiệu tuổi thọ và sống chết của mình, nhưng nếu mỗi người chúng ta dựa theo quy luật sinh mệnh để sinh tồn, như thế thì việc kéo dài tính mệnh của mình, thực tế chứng minh rõ ràng là có khả năng. Tóm lại, từ khía cạnh sinh mệnh để xét vận mệnh chính là trình độ thích nghi đối với quy luật sinh mệnh. Đây chính là thực chất của vận mệnh, nó được biểu hiện ra qua mọi trạng thái hoạt động của cá thể. Đặc điểm của vận mệnh Do vận mệnh được xem là đặc điểm và xu thế chung của cảnh ngộ của đời người, được quyết định một cách tuyệt đối bởi quy luật của tự nhiên, xã hội và sinh mệnh, nên trạng thái tư chất bấm sinh tự nhiên và tình hình hun đúc tái năng của xã hội khi trưởng thành, cũng sẽ tạo thành quan hệ tỉ lệ thuận với trạng thái vận mệnh. Có nghĩa là có được tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ, ắt sẽ có vận mệnh tốt. Không có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ thì tất nhiên không có được một đời người tốt đẹp. Cũng đúng như chúng ta không có cách nào trông chờ một người trí lực bẩm sinh không hoàn hảo lại có thể giành được danh vọng, một người ốm yếu bệnh tật lại có thể sống lâu. Chúng ta cũng không thể mong đợi một người thần thái suy nhược, dung mạo bủn xin, hình dáng ti tiện có được vận mệnh tốt đẹp. Đấy chính là do không có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội đầy đủ. Song, đối với đại đa so người, muốn phán đoán trình độ và trạng thái nắm bắt thông tin của bản thân với tự nhiên và xã hội có tính hợp tự nhiên, hợp xã hội hay không, thật không dễ dàng chút nào. Vì thế, dự đoán chuẩn xác và nắm chắc kết cục và xu thế một đời đối với tương lai như xem lòng bàn tay thì hầu như không thể làm được. Huống hồ bản chất của loài người quyết định loài người mãi mãi không thể đi đến tận cùng bí ảo của tự nhiên, mãi mãi không thể làm chúa tể tự nhiên, chi phối xã hội, làm chúa tể sinh mệnh, chi phối sinh mệnh, cho nên cũng sẽ khó chọn lựa được phương vị không gian thời gian chỉ định, trong phương vị này hoạt động và thực hiện giá trị tự thân, vì vậy cũng khó dự đoán được xu thế chung, kết cục chung của đời người của chinh mình. Đồng thời trong nhiều nhân tố quỵêt định vận mệnh một người, cố nhiên có những nhân tố người ta vẫn mãi mãi không có cách nào để chi phối và nắm chắc, nhưng cũng có những nhân tố người ta có thể chi phối và nắm chắc, chẳng qua vì trình độ nhận thức của loài người chưa đạt được yêu cầu, với tư cách là cá thể thì tầng nấc lại càng bất nhất. Vì thế cũng sẽ quyết định khó khăn của việc chọn lựa và hoạt động của cá thể trông không gian, thời gian được chỉ định và cái khó nắm chắc và dự đoán đối với kết cục và xu thế của đời người. Song, cố nhiên vận mệnh không dễ nắm chắc, nhưng không phải là không có thể nhận thức, cải biến và nắm chắc. Điều đó tạo nên cái chúng ta gọi là vận mệnh quan và vận mệnh quan truyền thống (tức cho rằng vận mệnh đã được định sẵn lúc mới sinh, không thể chi phối được). Chỉ bàn về mấy nhân tố kiềm chế vận mệnh khó nắm chắc nêu ở trên, thì trong phạm vi nhất định cá thể có thể chi phối sinh từ thọ yểu, bần tiện, phú quý, cát hung, ví dụ biết mình thân thế suy nhược bệnh tật thì phải dùng phương pháp dưỡng sinh để bù đắp, phân tích mọi nhân tố mình sắp sửa tiến hành hoạt động, từ đó để chọn lựa những cái có lợi cho mình, quyết định theo cái thuân lợi tránh cái phiền phức. Lại như về kinh doanh, thì phải nhắm đúng ngành hàng trong thương trường và tình hình nhu cầu của mọi người, phán đoán chuẩn xác sẽ làm tăng tỉ lệ vận may, phán đoán không chuẩn xác thì cơ hội vận may đã mỏng manh lại càng mỏng manh. Nếu như xuất hiện tình huống ngược lại, tất nhiên lại như không hẹn mà gặp được một số nhân tố có lợi nào đó một cách không tự giác. Tóm lại, chúng ta khó chi phối kết cục chung của các việc như sinh tử thọ yểu, phú quý bần tiện của chúng ta, nhưng chúng ta có thể thông qua sự cố gắng của lúc trưởng thành nắm chắc cơ hội, làm theo điều lành, tránh điều dữ thì không nghi ngờ gì nữa làm cho vận mệnh của mình hướng tới mặt tốt của nó. Nếu ngược lại, vận mệnh tất nhiên sẽ hướng tới mặt xấu kém. Tác giả trong tác phẩm này đã nhiều lần cho rằng làm điều thiện và tích đức, có thể làm thay đổi vận mệnh không tốt đẹp hiện ra do bản thân tướng mạo bẩm sinh, căn cứ của nó chính là ở chỗ này. Điều đó sẽ quyết định vận mệnh có những đặc điểm như sau : Vận mệnh là căn cứ chắc chắn của kết cục và xu thế chung đối với đời người, nó được biểu hiện qua mọi trạng thái hoạt động của cá thể. Cách nhìn truyền thống của người Trung Quốc đối với vận mệnh là : "vận mệnh là một mô thức cố định của người sinh ra đã có, quyết định sự sinh tử thọ yểu, phú quý bần tiện, cát hung vinh nhục của một đời. Một con người vừa mới thoát ra khỏi bụng mẹ đã có vận mệnh, nó chi phối đặc điểm, trạng thái kết cục và xu thế chung của một đời. Nó là do sức mạnh thần thánh làm chúa tể loài người và vạn vật quyết định. Sức mạnh vô hình này, người ta không thể làm thay đổi nó, nắm chắc nó, cho nên đứng trước sức mạnh thần bí của vận mệnh con người này chỉ có thể vô điều kiện nghe theo nó, tiếp thu sự chi phối của nó. Đương nhiên người ta cũng có thể nhận biết nó, thông qua phương thức nhất định để miêu tả nó và dự đoán nó". Vận mệnh quan cổ xưa này rõ ràng đã biến vận mệnh thành một sức mạnh vô hình, làm cho vận mệnh phủ lên một lớp màu sắc thần bí. Như Vương Sung đã cho rằng vận mệnh là một sức mạnh thần bí quyết định sự sinh tử thọ yểu và phú quý bần tiện của con người. Nó được quyết định bởi bào thai chịu ”khí” khác nhau ngay từ khi trong bụng mẹ, mà sức người không thể làm thay đổi được. "Mệnh là cái chính để khử hung, là lẽ tự nhiên, là số ngẫu nhiên bắt gặp, cũng không có bất cứ khí vật nào khác có thể áp đão và lay chuyển được mệnh vận". Trong sách "Luận hành - Ngẫu hội”, Khổng Tử cũng nói "Sống chết có số mệnh, giàu sang do Trời". Còn trong dân gian thì lại càng xem vận mệnh đồng nghĩa với ý trời. Như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa đã làm cho người ta không thể dùng thái độ lí tính đế phân tích vận mệnh, từ đó cải biến vận mệnh, mà chỉ có thể bằng thái độ sợ hãi để xem xét vận mệnh và tiếp thụ vận mệnh. Nhưng cũng có không ít các học giả đã nhận thức được vận mênh chịu đặc tính kiềm chế này của quy luật tự nhiên và bẩm sinh tự nhiên, như trong cách nhìn của Vương Sung đã nhận thức được vận mệnh là một loại thể hiện của quy luật tự nhiên. Nhưng Vương Sung lại dẫn dắt từ điểm xuất phát đúng đắn đến một kết luận không chính xác, chưa nhận thức được vận mệnh cũng là một loại thể hiện của quy luật xã hội, chưa nhận thức được vận mệnh có thể thay đổi. Về điểm này thì nhận thức của các nhà tướng học cổ đại Trung quốc có bước tiến hơn rất nhiều. Tướng học cổ đại Trung Quốc cùng cho rằng vận mệnh do trình độ và phương thức của tính hợp tự nhiên quyết định và thông qua đặc điểm hình thế, thần thái cử chỉ biểu hiện ra. Nhưng lại cho rằng việc chọn lựa và hoạt động thời trưởng thành của một người có thể làm thay đổi vận mệnh, ảnh hưởng vận mệnh, điều họ gọi là "Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt" (có tâm mà không có tướng, thì tướng phát triển theo tâm, nhưng có tướng mà không có tâm, thì tướng bị diệt theo tâm). Song điều đáng tiếc là tướng học cổ đại Trung Quốc lại không tiến hành giải thích mới và nhân mạnh đối với vận mệnh. Chúng tôi cho rằng vận mệnh quan cũ xưa không nghi ngờ gì nữa đã ràng buộc nghiêm trọng tính năng động chủ thể của con người, làm cho con người trở thành kẻ nô lệ tiếp thụ bị động vận mệnh và nghe theo sự sắp đặt của vận mệnh, từ đó đã trở thành công cụ góp thêm vào và nảy sinh ngu muội và lạc hậu. Vì thế vận mệnh quan cũ xưa là một quan niệm ràng buộc thiên tính tự do và tính sáng tạo của con người, làm trở ngại văn minh tiến triển, nên cần phải hoàn toàn vứt bỏ. Có điều đáng quý là người Trung Quốc mặc dù hết sức lo sợ dưới sự bao phủ của vận mệnh quan cũ xưa, nhưng vẫn luôn tiến hành đấu tranh không ngừng với vận mệnh. Sự phát triển của tiến hóa và văn minh của cả loài người, có thể nói là lịch sử phấn đấu không ngừng để cải thiện vận mệnh của mình. Những lời hô hào dân chủ và tự do cũng chính là những lời hô hào của loài người cải thiện vận mệnh của mình. Mặc dù người ta vẫn còn chưa hiểu hết hàm nghĩa của vận mệnh, dẫn đến cuộc đấu tranh này có tính chất mù quáng và giới hạn rất lớn, làm cho loài người thường xuyên rơi vào cảnh không biết làm sao đối với vận mệnh, nhưng tinh thần dũng cảm dám đấu tranh với vận mệnh là đáng được khẳng định. Tóm lại, chúng ta thừa nhận có sự sinh tồn của loài người thì sẽ có vận mệnh, bởi vì không kể đối với toàn thể loài người hay đối với sinh mệnh cá thể, đều là sự miêu tả đối với một quá trình và xu thế. Nó là do sự hoạt động sinh tồn của loài người tất nhiên dẫn ra, nó chịu sự kiềm chế của cả hai quy luật tự nhiên và xã hội, mà sự kiềm chế này là đã được định và khách quan. Vì thế việc khái quát, phán đoán và miêu tả đối với kết cục và đặc điểm chung này cũng là khách quan. Thật ra nó không phải là một sức mạnh thần bí, mà là một sức mạnh khách quan có thể miêu tả và phân tích, nó có thành phần của "tiên thiên" mà cũng có thành phần của "hậu thiên", vừa do sức mạnh của vận mệnh là to lớn, không có sức người nào có thể khống chế nổi, vì vậy vừa không dễ nắm chắc, không dễ làm thay đổi. Nhưng đồng thời, chúng ta còn cho rằng vận mệnh là có thể nhận thức, có thể miêu tả, vì vậy lại có thể nắm chắc và thông qua phương thức nhất định để đự đoán nó. Đồng thời, chỉ cần mỗi người chúng ta tôn trọng quy luật tự nhiên và xã hội, tiến hành chọn lựa và phấn đầu tích cực và bằng lí trí, vận mệnh lại sẽ có thể biến đổi trong một chừng mực và phạm vi nhất định. Đây chính là sự phân biệt căn bản và ranh giới giữa cái chúng ta gọi là vận mệnh quan với vận mệnh quan cũ xưa. Cũng cần phải kể lể rườm rà một chút là : Vận mệnh đã là tồn tại khách quan, như thế chúng ta sẽ không thể không chú ý đến nó, không thể vì vận mệnh thấu lộ ra màu sắc thần bí, mà đã mù quáng phủ định nó, vứt bỏ nó ngay. Ngược lại, chúng ta nên tích cực nghiên cứu nó, phải giải thích một cách khoa học đối với thực chất của vận mệnh, làm cho người ta được thoát ra khỏi sự ràng buộc của vận mệnh cũ xưa. Đồng thời, nhận thức và dự đoán đối với vận mệnh đã là có thể thông qua thủ đoạn đoán mệnh, xem tướng để thực hiện, như thế chúng ta nên tích cực nhìn thẳng vào và nghiên cứu những phương thức độc đáo này, từ đó dùng luận chứng khoa học mạnh mẽ làm cho người ta rút khỏi vũng lấy mê tín thần bí, thúc đẩy bước tiến văn minh. Mặt khác, qua lịch sử lâu dài đằng đẳng làm cho vấn đề "vận mệnh" đề cập đến hàng loạt đặc trưng có liên quan đến sinh lí và tâm lí sẵn có của loài người, mà các đặc trưng sinh lí tâm lí này lại chuyển hóa thành cơ chế văn hóa tâm linh, tham dự vào kết cấu của nền văn hóa dân tộc và hình thành một hiện tượng văn hóa đặc biệt, tỏ rõ sức sống mãnh liệt của nó. Vì thế, cho dù xét từ khía cạnh nghiên cứu văn hóa tâm linh cũng phải dùng thái độ tích cực để nghiên cứu nó, chứ không thể không chú ý đến sự tồn tại của hiện tượng văn hóa này, đối xử thô bạo với nó. Đoán mệnh theo Ngũ hành Ngũ hành chính là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, vừa là 5 loại vật chất, lại là 5 loại nguyên tố. Thời Chu U Vương có một Sử quan là Bá Tựu đã từng nói : "Dùng Thổ (đất) hỗn hợp với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa tạo thành trăm vật”. Các nhà hiền triết Trung Quốc đã xem Ngũ hành là nguyên tố cơ bản tạo thành vạn vật, trên từ tinh tú, dưới đến người và thú vật, đều do ngũ hành tạo thành. Điểm cơ bản của cách nghĩ dùng Ngũ hành giải thích nguồn gốc vạn vật là một quan điểm duy vật. Bởi vì nó thừa nhận vật chất là mệnh đề đầu tiên của triết học. Các nhà hiền triết Trung Quốc còn cho rằng : Vạn vật do ngũ hành tạo nên nhất định phải có sẵn bản chất của ngũ hành. Cho nên tư tưởng này dẫn đến một số nhà đoán mệnh dùng Ngũ hành để giải thích nguồn gốc của sinh mệnh và quy luật sinh trưởng và tiêu vong. Sách "Thích điển" có nói tứ đại hòa hợp, hư vọng danh sinh, tứ đại biệt li hư vọng danh diệt. Phật gia nói về tứ đại, Nho gia nói về Ngũ hành. Một đời của con người đều do tứ đại hòa hợp tạo nên, cũng tức là tính cách Ngũ hành tạo nên". Đây là lời của tác giả sách "Cổ kim danh nhân mệnh giám" nói về tứ đại và Ngũ hành là những kiến giải khác nhau của Phật gia và Nho gia đối với con người, chỉ ra tứ đại và Ngũ hành vốn chỉ là một sự việc mà thôi. Theo lí giải của các nhà hiền triết Trung Quốc thì khi con người thoát khỏi lòng mẹ nó đã chịu sức hút của quang tuyến, tức là thiên bẩm của đời người, thiên bẩm nhận được trong tiến trình của đời người có thích nghi và không thích nghi, theo thuận nghịch mà nảy nở sinh sôi. Khi đắc khí đượm nồng, thần định khí đủ thì thọ, khi đắc khí mạnh mẽ, thân thể to lớn thì rất quý. Chu Hi cũng cho rằng : "Sự biến đổi của sinh vật trùm khắp cả trong trời đất, không vượt qua lí Âm dương Ngũ hành... còn cái má sinh vật được trao cho có sự khác biệt giữa hiền ngu, bần tiện, nhất là sự khác nhau giữa trọng thị với khinh thường." Ta biết, các nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng : Mệnh của con người là do Ngũ hành bẩm phú quyết định mà thời gian bẩm phú là thời gian lúc mới sinh. Muốn biết Ngũ hành được bẩm phú thì cần xem trạng thái Ngũ hành của hoàn cảnh tự nhiên khi mới sinh ra. Trạng thái Ngũ hành theo từng giờ, từng nơi có khác nhau, do đó mà việc bẩm phú của mỗi người có khác nhau và mệnh cũng khác nhau. Phương pháp các nhà đoán mệnh Trung Quốc dùng để suy đoán mệnh cho con người theo Ngũ hành như sau : Đầu tiên, đem Ngũ hành của can chi năm tháng ngày giờ sinh sắp xếp lại. Vì Ngũ hành tùy theo từng giờ, từng nơi khác nhau cho nên ngũ hành mà mười thiên Can và 12 địa chi đại biểu cho thời gian là khác nhau. Ví dụ như bảng dưới đây :
Thiên can Địa chi Mộc Giáp Ất Dần - Mão - Thìn Hỏa Bính Đinh Tị - Ngọ - Mùi Thổ Mậu Kỷ Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Kim Canh Tân Thân - Dậu - Tuất Thủy Nhâm Quí Hợi - Tí - Sửu Thiên can Ngũ hành
Thiên can có Ngũ hành, địa chi cũng có Ngũ hành. Nhưng Ngũ hành của thiên can là dương tính so với Ngũ hành địa chi âm tính còn mạnh hơn. Ngũ hành của Giáp và Ất đại diện cũng không giống nhau. Giáp Mộc là dương mộc là đại thụ trong rừng sâu, còn Ất Mộc là âm mộc là cây, cỏ nhỏ bé, cho nên vận mệnh của hai cái đó cùng khác nhau. Thứ hai là phân tích trạng thái của Ngũ hành trong bốn mùa. Ví dụ Mộc là sinh ở mùa Xuân mới gọi là hợp thời nên mới hưng vượng, đến mùa Hạ đã là thứ yếu, đến mùa Thu thì ỉá đã rơi, cây khô sẽ là lúc không tốt lắm. Đến mùa Đông thì cây cối không còn phát triển gì trong băng giá, đành nằm yên chờ đợi mùa Xuân tới. Khi một người, có mệnh Mộc làm chính thì có thể phân tích mệnh người đó tốt hay xấu rồi. Thứ ba là suy diễn quan hệ giữa các Ngũ hành chứa trong thiên can và địa chi. Quan hệ giữa ngũ hành có 2 loại : quan hệ tương sinh và quan hệ tương khắc. Quan hệ ngũ hành trong 8 chữ (bát tự) của một người cần phải bảo đảm sự cân bằng tương đối, một hành nào đó nổi bật lên nhiều và mạnh đều là việc không tốt, được gọi là sát khí quá lớn. Vì thế, việc hợp hoặc kị của ngũ hành cần phải xem trạng thái của 5 mặt bị sinh, sở sinh, bị khắc, sở khắc, tiêu tiết. Nhiều người xem thuật đoán mệnh là thứ học vấn "huyền diệu cao sâu", kì thực không phải như vậy. Nhưng nếu xem nó quá đơn giản thì cũng làm mất cái du hí (trò vui chơi) của nó. Chỉ cần hiểu được việc luận đoán ngũ hành thì cũng đã biết được vận mệnh ít nhiều. Xét từ phương pháp luận, tác dụng của ngũ hành trong đoán mệnh chỉ là tác dụng của phương pháp thôi. Phương pháp quan hệ ngũ hành đã từng được cảc nhà hiền triết Trung Quốc ứng dụng vào nhiều mặt đế xứ lí, giải quyết các vấn đề quan hệ với nhau. Nếu xét từ khía cạnh triết học, ngũ hành là một mô thức tư duy biện chứng. Do đó, việc lí giải sáu sắc đối với ngũ hành thực tế là rất cần thiết. Nó là một cách huấn luyện tốt nhất đối với phương thức tư duy của chúng ta. Phương pháp đoán mệnh theo ngũ hành và tứ thời Trước hết tìm "bát tự" khi sinh của mình, sau đó dựa vào thiên can của ngày sinh, căn cứ tình hình thiên can đó trong 4 mùa để phán đoán. Ví dụ người sinh ngày Giáp Dần, thiên can là Giáp tức có thể tra trong sách "Tứ thời ngũ hành luận" những lời bình có liên quan, từ đó có thể có nhận thức đại thế đối với vận mệnh của mình. Dưới đây chúng tôi sẽ trích một phần sách "Tứ thời ngũ hành luận" như sau : Bàn về Giáp Mộc Tóm lại, Giáp Mộc sinh vào tháng Giêng, người trong tứ trụ có Canh, Mậu là tốt, nếu đươc Đinh hiện ra thì mệnh là giàu sang, có lời đoán : Giáp Mộc, tháng Giêng (tức chi người sinh ngày Giáp của tháng Giêng). Việc tốt hoặc xấu của mệnh hoàn toàn dựa vào sự phối hợp của ngũ hành đế xem xét có hợp không. Nếu quá vượng cũng không nên, ví như sinh ngày Giáp Dần, trong địa chi lại gặp Dần Mão (tăng Mộc nhiều), gọi là Mộc vượng cần phải cứu (kiềm) chế, nếu không thì không tốt. Phàm thuộc về ngũ hành cũng đều như vậy cả. Hễ sinh vào Giáp Tuất và Ất Hợi là "Mộc chi nguyên", sinh vào Giáp Dần và Ất Mão là "Mộc chi hương", sinh vào Giáp Thìn và Ất Tị là "Mộc chi sinh" đều thuộc hoạt mộc" (cây sống), sinh vào Giáp Thân và Ất Dậu là "Mộc thụ khắc", sinh vào Giáp Ngọ và Ất Mùi là "Mộc tự tử", sinh vào Giáp Tí và Ất Sửu là "Kim khắc Mộc" đều thuộc là "Tử mộc" (cây chết), sinh mộc gặp Kim thì tự thương, được tất phải lộ, tử mộc được Kim thì tạo, được Hỏa tự cháy, Canh Tân tất sẽ lợi. Việc biến hóa sinh tử của mộc hoàn toàn dựa vào trong tứ trụ có cứu trợ đế định. Mộc sinh tháng 2, trong tứ trụ Canh Kim đắc địa, chủ có nhiều phần nhưng tiểu quý, trong vận trụ gặp "tài" tất phải là anh hùng, hễ gặp Quý Thủy, tài sát gặp khó khăn sẽ trở thành kẻ độc thân, lại gặp Dương Nhẫn ắt phải gặp cái chết bất ngờ, Mộc vượng mà được Hỏa thì có phần công danh. Mộc sinh tháng ba. Nếu thấu lộ Canh Kim kiêm gặp Nhâm Thủy là Dụng, tất nhiên đại quý. Nếu Thiên can gặp hai Bính, địa chi tàng Canh Kim là số nghèo khó. Các chi lộ Nhâm Quý phá Hỏa, có thể đạt được công danh nhỏ. Nếu như thấu lộ can Mậu Kỉ của tứ trụ không thấy Thủy, Chi thành thổ cục, chủ sẽ do người khác mà được phú quý. Xưa có câu : tháng ba vô dụng- (không dùng) Đinh, chỉ có Chi thành Kim cục, xưa có thể lấy Đinh làm Dụng, nếu không thì trước chọn Canh, sau chọn Nhâm đế dùng. 2) Mùa Hạ, Giáp Mộc Mộc sinh tháng năm, trước có Quý mà sau là Đinh, Canh Kim là sau nó, trong tứ trụ thấu lộ Quý và Canh, chủ được phú quý song toàn. Trong tứ trụ gặp Bính Hỏa trùng lặp, lại thêm Đinh Hỏa, gọi là "thương quan" đẹp nhất, chủ sẽ thanh quý (sang mà trong sạch), không thấy "quan sát” sẽ là"thương quan thương tận" chủ cũng sang mà thanh liêm. Trong trụ có nhiều Kim tất nhiên là "sát trọng thân khinh" là số trước giàu có sau nghèo, tối kị là trong trụ gặp Nhâm Thủy, hành vận lại gặp Thủy, vừa nghèo lại vừa yểu thọ (chết non). Nếu Canh Kim nhiều, trong trụ lại thấu lộ một hai Bính Đinh để kiềm chế nó, lại được thấu lộ can là Nhâm Quý, thì chủ trước nghèo sau giàu có, hai can thấu lộ từ giờ và tháng là Kỉ Thổ, gọi là nhị Kỉ tranh hợp, nếu mệnh nam phạm phải nó thì chủ bôn ba, nữ mệnh phạm phải nó thì chủ là kẻ hèn hạ bị khinh rẻ. Nếu trong tứ trụ có Thìn, can thấu lộ hai Giáp, hai Kỉ, đó là số đại phú đại quý. Nếu sinh vào tháng sáu thì gọi là cách gặp thời hòa hợp, Giáp pháp sinh vào tháng năm tháng sáu cùng bàn như cố pháp, chỗ này bản tháng 5 và tháng 6 cũng có thể thông dụng. Mộc sinh tháng 6, trước Đinh sau Canh, trong trụ thấu lộ 2 can : Canh, Đinh, dụng thần lại thấu lộ, Mộc Hỏa thông minh là mệnh phú quý song toàn. Nếu Đinh Hỏa, Quý Thủy nhiều là mệnh của người bình thường. 3) Mùa Thu, Giáp Mộc Giáp Mộc sinh tháng 8, gọi nó là Mộc tù Kim vượng, cây cối vào mùa thu, là vàng rơi rụng nên gọi là Mộc tù. Tháng tám là lúc thu Kim đang vượng. Trước lấy Đinh Hỏa Bính Hỏa, Kim là thứ, trong trụ có hai can thấu lộ là Đinh Canh, chủ nhất định sẽ hiển đạt. Nếu gặp Quý Thủy, thì công danh không có phần, trong trụ không có Đinh, không có Bính là số theo kiếp tu hành. Bính thấu lộ mà không gặp Quý, thì giàu nhưng không quý. Nếu Bính Hỏa bị Quý Hỏa kiềm chế, thì suốt đời chỉ là tầm thường. Có Bính có Canh thì đại phú tiểu quý. Bính Đinh phá Kim thì về già chịu ám tật, chi thành Kim cục thấu lộ Canh Kim, Mộc bị Kim làm thương tổn, chủ bị tàn tật. Giáp Mộc sinh tháng 9, đúng lúc là cây rơi rụng, hoàn toàn (lựa vào Đinh Hỏa để làm ấm nó. Nhâm Quý Thủy để tu dưỡng nó. Nếu được Đinh Nhâm Quý cùng thấu lộ, đồng thời được Mậu Kỉ thổ để bồi bổ thì có thể đạt được công danh nhỏ. Chỉ có Canh Kim được nơi chốn thì công danh mới có tiến bộ. Nếu thấu "Tỉ kiên" mà không có Canh Kim là số của người cùng đinh. Vận không đắc dụng tất là người nghèo rớt mùng tơi. 4) Mùa Đông Giáp Mộc Giáp Mộc sinh tháng 11, tốt nhất gặp Canh Kim, Đinh Hỏa Mậu Thổ để bồi bổ nó. Nếu được 2 chi thấu lộ là Canh Kim, chi gặp Tị, Dần tất nhiên thanh quý. Nếu gặp Quý Thủy khắc Đinh Hỏa, trong trụ không có Thổ để cùng cứu giúp, tất sẽ bị tàn tật. Tối kị Nhâm Thủy sẽ trở thành "tử mộc". Không có Đinh Hỏa cùng kiềm chế là số mệnh của người tầm thường không có chí. Nếu chi thành Thủy cục, lại thêm Nhâm Thủy, chủ chết không có hòm ván. Giáp Mộc sinh tháng 12, trời rét đất cứng lạnh là tượng khí không phát vượng. Trước Canh Kim như được rìu sắc để cắt cành khô, sau dẫn Đinh Hỏa để khắc nó, thì hàn mộc bắt đầu có sức sống. Trong trụ nếu được hai can thấu lộ Canh Đinh, chủ sẽ có công danh hiển đạt. Đinh Hỏa trùng điệp là số mệnh phú quý. Chỉ có điều là cần phải trong trụ thấu lộ "Tỉ kiên" làm hỗ trợ thì tài đức đều thịnh, không gặp "Tỉ kiên” thì chỉ đủ no ấm mà thôi. Đinh tàng Canh thấu lộ; là mệnh của chủ đạt tiểu quý. Tóm lại, hàn đông Giáp Mộc hoàn toàn dựa vào Canh Kim, Đinh Hỏa để hỗ trợ, Đinh Hỏa ít không có trở ngại gì lớn. Nhưng thiếu Canh Kim thì mới thật hỏng hết mọi việc thôi Bàn về Ất Mộc Ất Mộc sinh tháng hai, cũng giống tháng giêng cũng trước Bính sau Quý, Bính và Quý cùng thấu lộ thì chủ đại phú quý. Chỉ có điều là không có thể cùng thấu lộ cả Canh Kim. Nếu thiên can lộ Canh, địa chi không có ngày giờ để hóa Kim, dựa vào có Quý Thủy tư dưỡng, chủ cũng quí hiển. Nếu chi thành Mộc cục, can thấu lộ Bích Quý, chủ đại quý. Nếu Thủy nhiều vây Hỏa và Bính Mậu nhiều thì là số mệnh bình thường. Ất Mộc sinh tháng ba, khí trời đã ấm áp, trước Quý sau Bính, cả Bính và Quí đều thấu lộ, không thấy có Kỉ Canh là số trọng thanh liêm. Hễ gặp Kỉ Canh thì công danh vô vọng (không có hi vọng). Bính Quý thấu lộ mà Kỉ Canh lẫn vào thì tất nhiên sẽ bần tiện (nghèo hèn). Thấy có Canh mà không thấy Kỉ là số mệnh ít khỏe mạnh. Hai can Bính Mậu thấu lộ mà gặp Thủy cục, thì chủ đắc công danh. Giờ, ngày (sinh) đều thấy Canh là hai Canh tranh hợp số nghèo hèn. Chỉ có điều là nếu can của năm thấu lộ Đinh có thể phá được Canh, gọi nó là "tòng hóa”, chủ lập được quân công đế làm quan. 2) Mùa hạ Ất Mộc Ất Mộc sinh tháng 5, Đinh Hỏa nắm quyền, nửa đầu tháng thuộc Dương, trước Quý sau Bính ; nửa cuối tháng thuộc Âm, Bính Quý đều cùng dùng. Trên vị trí năm là Canh Tân, trên chỗ giờ thấu Quý thì công danh hiển hách. Nếu không có Quý Thủy thì công danh không có phần. Trong trụ thấu lộ Bính Hỏa, mà chi lại thành Hỏa cục, tất sẽ mang tàn tật. Nếu không có Canh Thủy kiềm chế, chủ yểu thọ, gặp Nhâm thì có thể giải. Ất Mộc sinh tháng 6, trước Bính thứ là Quý, trong trụ nhiều Kim Thủy, chi thành Thủy cục, lại được thấu can Quý Thủy là mệnh phú quý song toàn. Nếu thiếu Quý lại là mệnh của người tầm thường không có chí, tối kị là có Mậu Kỉ lẫn lộn vào. Nếu xuất lộ một bè can Mậu Thổ, không gặp "Tỉ ấn" thì sẽ là tiền nhiều nhưng thân thể yếu ớt, tất trở thành kẻ nghèo sống trong nhà giầu. Nếu được Bính Tân hóa Thủy, tất nhiên sẽ do chơi bời cờ bạc đĩ điếm làm cho khuynh gia bại sản. Thổ nhiều mà không thấy có Giáp là không tốt, nhưng thấy có Đinh mà không thấy Bính Quý là số mệnh tầm thường. Gặp thấu hai can Bính, lại được Giáp thấu kiềm chế Mậu có thể đạt công danh. Tóm lại, Mùa Hạ Ất Mộc, chuyên chọn được gặp Thủy, thứ đến là Bính Hỏa, Canh Tân. 3) Mùa Thu Ất Mộc Ất Mộc sinh vào tháng 8 là cây lan quế, sinh trước tiết Hàn lộ, chuyên dùng Quý Thủy là được tôn sùng. Sinh sau Thu phân thì hoa lan quế nở, thấy ngày càng thơm. Trước là Bính Hỏa, thứ là Quý Thủy trong tứ trụ Bính Quý đều thấu lộ, tất nhiên sẽ hiển đạt thành danh. Không có Hỏa, không có Thủy là số vất vả lao lực, thấu lộ Quý mà không có Nhâm gọi là vì con mà được mẹ, chủ suốt đời ăn mặc không thiếu. Nếu chi biến thành Kim cục, trong trụ nên tàng ẩn Đinh Hỏa để kiềm chế Kim, có thể tránh được Mộc tồn Kim thương. Trong trụ Bính Đinh Hỏa cùng thấu lộ với Mậu Thổ thì chủ được đường công đnnh khác. Ất Mộc sinh sau Thu phân nếu được giờ sinh thấu can là Bính Hỏa, trong trụ lại cùng gặp Quý Thủy, thì gọi là Thủy Hỏa vân tinh, tất nhiên hiển quý, thấu lộ Bính mà không gặp Quý, chủ sẽ được tiểu phú quý. Nếu có Quý mà không có Bính, hoặc Bính Quý đều không có thì chủ sẽ được cả danh lẫn lợi. Vì thu Mộc không có Hỏa thì không phát, nhưng cũng tối kị là Ất Mộc gặp Kim cuờng, thì sinh mệnh khó bảo toàn. Ất Mộc sinh tháng chín, chuyên lấy Quý Thủy đế bồi dưỡng, trong trụ thấy có Quý Thủy, lại thấy có cả Tân Kim tất nhiên sẽ thanh quý (sang nhưng thanh liêm). Nếu có Tân mà không có Quý thì chủ nghèo hèn. Nếu có Quý mà không có Tân là hạ cách. Thấu lộ can Mậu Thổ, trong chi lại ám tàng Mậu Thổ, không gặp "Tỉ kiếp" thì chủ giàu có, hể thấy có "Tỉ kiếp’1 thì tài khí bị chiếm đoạt tất trở thành người nghèo trong cảnh giàu, lại thêm ít con cái. 4) Mùa Đông Ất Mộc Ất Mộc sinh tháng 11, chuyên chọn Bính Hỏa làm dụng thân, mà không dùng Quý Thủy để tránh Mộc bị Thủy làm cóng rét. Trong trụ thấu lộ hai can Bính Hỏa, không gặp Quý Thủy, công danh hiển đạt, chi ám tầng (ẩn chứa) Bính, chủ được ân phong ở thứ hạng cuối. Nếu chi thành Thủy cục, thấu lộ can Nhâm Quý mà không có Bính Hỏa, chỉ thấu lộ Mậu Thổ hoặc Nhâm Mậu đều không có, tất nhiên suốt đời nghèo hèn. Nếu chỉ có Đinh Hỏa lẻ loi thì khó giải quyết được đông cóng của hàn đông. Nếu một phái Đinh Hỏa thấu lộ ra tất sẽ là người đại gian xảo trá, con cái nhiều. Nếu thành Thủy cục, thấu lộ hai can Nhâm Quý, chủ sẽ bần và yểu thọ. Ất Mộc sinh tháng 12, chuyên chọn Bính Hỏa làm dụng thần, tứ trụ thấu lộ một Bính Hỏa, tuyệt đối không có hình xung. Không thấy có Quý Thủy là mệnh của Đại quý: Nếu trong tứ trụ có nhiều Kỉ Thổ, tuyệt đối không có "Tỉ kiếp" xung khắc, được gọi là tòng tài cách, chủ sẽ giàu có. Hễ gặp "Tỉ kiếp" thì chủ nghèo đến nỗi không có chỗ cắm dùi. Can chi trong tứ trụ không có Bính Hỏa chủ sẽ nghèo hèn. Bàn về Bính Hỏa Bính Hỏa sinh tháng 2, chuyên lấy Nhâm Thủy làm căn cứ, là mệnh của người thanh quý (sang mà trong sạch). Thấu can Kỉ Thổ không thấy có Nhâm Thủy, thì ăn mặc có vẻ thiếu thốn. Ngày thấu lộ Bính Tí, giờ gặp Tân Mão. gọi là tòng hóa cách bất phùng thời, tất nhiên sẽ làm bại tổ nghiệp. Nếu được Đinh Hỏa phá Tân Kim làm cho Nhâm Thủy được yên vị trí, chủ sẽ giàu mà lại sang. Bính Hỏa sinh tháng 3 chuyên Lấy Nhâm Thủy tương tế, Giáp Mộc tương trợ. Nhâm Giáp cả hai thấu lộ, công danh ổn định. Nếu lại cùng thấu lộ Canh Kim để kiềm chế Giáp Mộc là mệnh của người tầm thường. Can thấu lộ Nhâm Thủy, chi tàng Giáp Mộc thì đại phú đại quý. Thấu lộ Giáp mà thiếu Nhâm, chủ phú trọc, tàng Nhâm thiếu Giáp chủ bần cùng, Nhâm và Giáp đều không có, chủ ngu hèn. 2) Mùa Hạ Bính Hỏa Ất Mộc sinh tháng chín, chuyên lấy Quý Thủy đế bồi dưỡng, trong trụ thấy có Quý Thủy, lại thấy có cả Tân Kim tất nhiên sẽ thanh quý (sang nhưng thanh liêm). Nếu có Tân mà không có Quý thì chủ nghèo hèn. Nếu có Quý mà không có Tân là hạ cách. Thấu lộ can Mậu Thổ, trong chi lại ám tàng Mậu Thổ, không gặp "Tỉ kiếp" thì chủ giàu có, hể thấy có "Tỉ kiếp’1 thì tài khí bị chiếm đoạt tất trở thành người nghèo trong cảnh giàu, lại thêm ít con cái. 4) Mùa Đông Ất Mộc Ất Mộc sinh tháng 11, chuyên chọn Bính Hỏa làm dụng thân, mà không dùng Quý Thủy để tránh Mộc bị Thủy làm cóng rét. Trong trụ thấu lộ hai can Bính Hỏa, không gặp Quý Thủy, công danh hiển đạt, chi ám tầng (ẩn chứa) Bính, chủ được ân phong ở thứ hạng cuối. Nếu chi thành Thủy cục, thấu lộ can Nhâm Quý mà không có Bính Hỏa, chỉ thấu lộ Mậu Thổ hoặc Nhâm Mậu đều không có, tất nhiên suốt đời nghèo hèn. Nếu chỉ có Đinh Hỏa lẻ loi thì khó giải quyết được đông cóng của hàn đông. Nếu một phái Đinh Hỏa thấu lộ ra tất sẽ là người đại gian xảo trá, con cái nhiều. Nếu thành Thủy cục, thấu lộ hai can Nhâm Quý, chủ sẽ bần và yểu thọ. Ất Mộc sinh tháng 12, chuyên chọn Bính Hỏa làm dụng thần, tứ trụ thấu lộ một Bính Hỏa, tuyệt đối không có hình xung. Không thấy có Quý Thủy là mệnh của Đại quý: Nếu trong tứ trụ có nhiều Kỉ Thổ, tuyệt đối không có "Tỉ kiếp" xung khắc, được gọi là tòng tài cách, chủ sẽ giàu có. Hễ gặp "Tỉ kiếp" thì chủ nghèo đến nỗi không có chỗ cắm dùi. Can chi trong tứ trụ không có Bính Hỏa chủ sẽ nghèo hèn. Bàn về Bính Hỏa Bính Hỏa sinh tháng 2, chuyên lấy Nhâm Thủy làm căn cứ, là mệnh của người thanh quý (sang mà trong sạch). Thấu can Kỉ Thổ không thấy có Nhâm Thủy, thì ăn mặc có vẻ thiếu thốn. Ngày thấu lộ Bính Tí, giờ gặp Tân Mão. gọi là tòng hóa cách bất phùng thời, tất nhiên sẽ làm bại tổ nghiệp. Nếu được Đinh Hỏa phá Tân Kim làm cho Nhâm Thủy được yên vị trí, chủ sẽ giàu mà lại sang. Bính Hỏa sinh tháng 3 chuyên Lấy Nhâm Thủy tương tế, Giáp Mộc tương trợ. Nhâm Giáp cả hai thấu lộ, công danh ổn định. Nếu lại cùng thấu lộ Canh Kim để kiềm chế Giáp Mộc là mệnh của người tầm thường. Can thấu lộ Nhâm Thủy, chi tàng Giáp Mộc thì đại phú đại quý. Thấu lộ Giáp mà thiếu Nhâm, chủ phú trọc, tàng Nhâm thiếu Giáp chủ bần cùng, Nhâm và Giáp đều không có, chủ ngu hèn. 2) Mùa Hạ Bính Hỏa Bính Hỏa sinh tháng 5, trước chọn Nhâm Thủy, thứ dùng Canh Kim, hai can Nhâm Canh thấu lộ, phú quý song toàn. Tứ trụ chỉ có nhiều Nhâm Thủy, còn Mậu Kỉ thì chỉ thấy lẫn vào chủ được ”dị lộ công danh”. Nhiều hỏa không có Thủy là mệnh của hòa thượng. Hỏa Thổ lộn xộn, hễ thấy Quý Thủy tất sẽ thành người mù. Nếu thấy Mậu Kỉ, mắt không mù thì tất trở thành cô quả. Tứ trụ thấu lộ nhiều Giáp Ất tuyệt đối không có Canh Tân thấu lộ và ẩn tàng không thấy Thủy vận, gọi là viêm thượng cách tất nhiên sẽ đại phú đại quý. Nếu thấy Mậu Thổ đế kiềm chế Thủy tất thành danh hoạn, không có Nhâm Thủy, trái lại là hạ cách. 3) Mùa Thu Bính Hỏa Bính Hỏa sinh tháng 8, vẫn chọn Nhâm Thủy, trong tứ trụ nhiều Bính Hỏa, chỉ thấu lộ một mình Nhâm, phú quý song toàn. Nhâm Thủy ám tàng, chỉ được công danh tối thiểu. Không có Nhâm Quý, khó được công danh, nếu gặp Tân Kim là số nghèo khổ. Dù cho thấu lộ một Đinh để cùng kiềm chế, cũng thuộc hạ cách, nam chủ sẽ gian trá, nữ chủ dâm tiện. Bính Hỏa sinh tháng 9, cuối thu hỏa suy, trước chọn Giáp Mộc, thứ chọn Quý Thủy, Giáp Nhâm cùng thấu lộ, tuyệt đối không có hình khắc, xung khắc, đại phú đại quý. Hai can Giáp Quý thấu lộ, chủ đạt được dị lộ công danh (công danh bằng con đường đặc biệt). Nếu là Canh Kim Mậu Thổ bị vây hãm là mệnh của kẻ tầm thường, ngu dốt. Trong trụ Nhâm Quý Canh Tân cùng thấu lộ, tuổi thọ rất ngắn ngủi. 4) Mùa Đông Bính Hỏa Bính Hỏa sinh tháng 11, tháng 12, nhất dương lai phục, trước chọn Nhâm Thủy, thứ đến Mậu Thổ, Nhâm Mậu cùng thấu lộ công danh giành được vững chắc. Nhâm nhiều Mậu ít, khó mong tiến bằng quan trường. Nếu thấu lộ Giáp Mộc để cứu Mậu thì mệnh hiển quý. Không có Mậu mà lại gặp Kỉ cũng là dị cách, nhiều Nhâm không có Giáp, công danh có thể tìm thấy. Bàn về Đinh Hỏa Đinh Hỏa sinh tháng 2, trước chọn Canh Kim, thứ chọn Giáp Mộc, Canh Giáp cùng thấu lộ, giành công danh vững chắc. Canh thấu Giáp tàng, chủ sẽ đạt công danh tối thiểu. Giáp thấu Canh tàng đang cầu công danh bằng con đường đặc biệt (dị lộ). Nếu trong tứ trụ quan quý song toàn "sát ấn" vượng, Canh Kỉ cùng thấu, gặp Kim Thủy vận, chủ sẽ khuynh gia bại sản. Nếu Canh thấu Kỉ tàng, hành Mộc Hỏa vận và không có hình xung phá khắc, tất nhiên phú quý song toàn. Tháng 3 đang lúc Thổ vượng, Đinh Hỏa suy nhược, trước chọn Giáp Mộc, thứ chọn Canh Kim. Giáp Canh cùng thấu lộ, công danh có thể đạt được. Nếu chi thành Thủy cục, can đầu lại thấu Nhâm Thủy, gọi là "sát trọng thân khinh", tất nhiên sẽ yểu thọ. Trong tứ trụ thấu Mậu Kỉ, và không có hình xung phá kiếp, tất nhiên đại quý. 2) Mùa Hạ Đinh Hỏa (** Đoạn này bản gốc thiếu tháng 5, 6, 7 của Đinh Hỏa) Đinh Hỏa sinh tháng 8, trong tứ trụ đều gặp Giáp Canh Bính, mà không có hình xung phá khắc tất sẽ thành đại quý. Sinh vào tháng 9, chuyên chọn Giáp Mộc, Canh Kim là được tôn trọng. Giáp Canh cùng thấu, sang bé giàu lớn. Giáp Canh Bính cùng thấu; công danh giành ctược vững chăc. Thấu can Canh Bính không có Giáp chỉ thấy Nhâm là số làm quan thanh liêm. Nếu thấu một Nhâm hai Quý mà gặp Mậu Thổ kiềm chế là số giàu sang. Nếu trong trụ đều không có Thổ là mệnh người không tầm thường. Đinh Hỏa đều gặp tại can năm và can ngày, thấu Tân không có Canh tức là cách "tòng tài", nếu không có hình xung "tỉ kiếp" là mệnh của Quận thú. 3) Mùa Đông Đinh Hỏa Mộc, gọi là Mộc Hỏa thông minh trong trụ không sợ nhiều Kim nhiều Thủy. Can thấu Bính Hỏa, Đinh Hỏa không sáng, can có chi tàng Nhâm Thủy để chế phục, mới bảo đảm đời sống ăn mặc không bị thiệt kém. Giáp Canh cùng thấu, có thể giành được công danh. Hễ gặp Kỉ Thổ sẽ là hạ cách. Trong chi kiêm tàng Kim Thủy là số thanh quý. Trong can chi, Kim Thủy đều không có là số của người tầm thường. Có Thủy mà không có Kim, đạt công danh tối thiểu. Nếu được năm tháng đều thấu Quý Thủy, can giờ thấu Tân Kim, trong trụ tuyệt nhiên không hề có tí gì về chất Thổ tức là cách "khí mệnh tòng sát" chủ nhất định số đại quý. Nếu chi thành Mộc cục, năm tháng đều thấu Quý Thủy, chủ nhất định được Lệnh phong. Bàn về Mậu Thổ Mậu Thổ sinh tháng giêng, tháng hai, trước chọn Bính, thứ là Giáp, sau đến Quý Thủy. Sinh tháng ba, trước chọn Giáp, sau Quý Thủy, trong tứ trụ được Giáp, Bính Quý đều thấu lộ, mà không có hình khắc chế là số đại quý. Nếu cả ba can đều có thấu, gặp ở thiên can có tàng, tàng ở địa chi thì chủ đạt tiểu quý. Nếu chi gặp Bính mà không có Giáp, Quý thi gọi là Xuân hạn, làm việc thành bại thất thường. Tóm lại, Mậu Thổ sinh vào tháng giêng tháng hai, tất gặp Bính Hỏa sẽ bắt đầu phát, không có Bính Hỏa mà có Giáp Quý là hạ cách. Nếu một phái Bính Hỏa, thấu Giáp không có Quý thì chủ sẽ thông đạt về những năm về sau đời. Chi thành Hỏa cục, trong trụ không hề có một chút Thủy nào là số cô bần. Giáp và Canh đều thấu, chi thành Mộc cục mà không có hình xung phá khắc thì phú quý song toàn. Nếu không có Canh Kim và "Tỉ kiếp" thì không trộm cướp cũng sẽ chuốc lấy tai họa bất ngờ. Mậu Thổ sinh tháng ba, trong tứ trụ đều không có Giáp Bính Quý là số ngu hèn. Hễ thấu Giáp Quý tất sẽ thành hiển quan. Giáp Quý ám tàng, tất thành nhà tư bản. Bính nhiều mà không có Quý giống như ruộng hạn không có nước, thì chủ sẽ trước giàu sau nghèo. Hỏa nhiều mà thấu Nhâm Thủy cùng kiềm chế thì nhất định chủ sẽ trước nghèo, sau giàu. Nếu thấy Quý Thủy thì trước hèn, sau quý. Nếu chi thành Mộc cục, thấu can Giáp Ất thì gọi là “quan sát hội hợp” cần phải thấu Kim tốt để quét sạch nó, thì tất nhiên sẽ phú quý song toàn, không thấy Canh Kim thì lại thành nghèo hèn, cần phải được Hỏa đế tòng Mộc khí thì mới có thể được quý hiếm. Chi thành Hỏa cục, thấu Quý tất sẽ ngồi hưởng phú quý. Thấu Nhâm chủ cũng được phú quý, nhưng phải tìm nó từ trong lao khó (gian khổ). Bao trùm Quý Thủy là nước ở trên trời cho nên có thể yên hưởng phú quý. Nhâm Thủy là nước của sông ngòi, nên cần phải dùng sức người để lấy mới có thể tưới ướt đất và trưởng thành. 2) Mùa Hạ Mậu Thổ Mậu Thổ sinh tháng tư, trước chọn Giáp Mộc bổ thưa, thứ đến Bính Hỏa Quý Thủy, Bính Giáp hoặc Bính Quý cùng thấu tất nhiên hiển quý. Quý thấu Nhâm tàng tuyệt đối không có xung khắc mà hóa hợp thành cục, chủ quý đến làm quan cực phẩm, giàu tựa Thạch Sùng. Nếu chi thành Kim cục, can thấu Quý Thủy gọi là "Thổ nhuận Kim sinh", chủ đạt công danh đặc biệt. Mậu Thổ sinh tháng 5, trời nắng nóng, đất khô cằn, trước chọn Nhâm Thủy để nhuận thổ, thứ chọn Giáp Mộc đế bổ thưa. Bính Hỏa cân nhắc dùng. Nên được Nhâm Giáp thấu lộ, tuyệt đối không hình xung phá khắc, nhất định chủ phú quý. Lại được can năm thấu lộ Tân là mệnh làm tướng lên hoặc Thừa tướng. Chi thành Hỏa cục, thấu Quý Thủy thì lực mỏng manh khó kiềm chế, là mệnh nghèo hèn. Nếu thấu Nhâm Thủy giành công danh vững chắc. Mậu Thổ sinh tháng sáu, trước chọn Quý Thủy thứ Giáp Mộc và Bính Hỏa, Quý Bính đều thấu lộ giành công danh vững chắc. Thấu Bính không có Quý, ăn mặc không thiếu thốn, thấu Quý không có Bính lại gặp Giáp, chủ đạt công danh tối thiểu. Không có Giáp chủ sức khỏe không tốt. Quý Tân cùng thấu, chủ đạt công danh khác thường. Trong trụ đều không có Bính Tân Giáp, là số nghèo hèn, Thổ nhiều chỉ thấu một Giáp, không gặp Canh Tân, là thượng cách. 3) Mùa Thu Mậu Thổ Mậu Thổ sinh tháng 8, tháng 8 Kim Bính Thổ hàn, trước chọn Bính Hỏa, thứ đến Quý Thủy, Bính và Quý đều thấu, mà không có xung phá, nhất định trở thành hiển hoạn. Bính Quý đều không có, một đời lao lực vất vả. Bính tàng không có Quý cũng là hạ cách. Quý thấu, Bính tàng là số sức khoẻ kém. Trong trụ một phái Tàn Kim, không thấy Bính Đinh gọi là thương quan cách, cần gặp Quý Thủy là mệnh phú quý, không có Quý là hạ cách. Tóm lại, Thu Thố là cực yếu, cần được thấu can Bính Đinh mới đẹp. Mậu Thổ sinh tháng 9, tháng chín đang là Mậu Thổ nắm quyền, trước chọn Giáp Mộc, thứ đến Quý Thủy, chỉ có điều kị hóa hợp gặp Kim, trong trụ có Giáp không có Quý Bính, ăn mặc đầy đủ. Có Quý, không có Bính, chủ kém sức khỏe. Nếu chi thành Thủy cục, can thấu Nhâm Quý, mà là "tỉ kiếp" chủ giàu có. Chi thành Hỏa cục, Kim Thủy đều thấu, chủ sức khoẻ kém. không gặp Quý Thủy, sô nghèo hèn. 4) Mùa Đông Mậu Thổ Tháng 11, tháng 12 là trời đất lạnh cóng, trước chọn Bính Hỏa, lại chọn lại Giáp Mộc, Bính Giáp đều thấu là số phú quý. Tàng Giáp, thấu Bính đạt công danh tối thiểu. Trụ thấu Bính Hỏa không thấy Giáp, chủ sẽ đại phú (giàu to). Có Giáp mà không có Bính thì chủ thanh bần, Bính và Giáp đều không có, chủ ngu hèn. Trong trụ nhiều Bính Hỏa, nhưng gặp một can Nhâm thấu, chủ thanh quý. Không có Nhâm thì chủ cô bần. Bàn về Kỉ Thổ Kỉ Thổ sinh tháng hai, trước chọn Giáp Mộc kị hợp, thứ chọn Quý Thủy, Giáp Quý cùng thấu, giành được công danh vững chắc. Nếu được kiêm thấu Bính Hỏa, làm quan đến cực phẩm. Hễ thấy Nhâm Thủy thì giáng đến cấp cuối cùng. Giáp Mộc bị Canh Tân kiềm chế, can thấu Nhâm Thủy cùng với nhiều "Tỉ kiếp" là số người tầm thường. Kỉ Thổ sinh tháng 3, tháng 3 là thời gian, đang cấy ruộng, trước chọn Bính Hỏa, thứ chọn đến Quý Thủy và Giáp Mộc, Bính Quý Giáp cùng thấu, có vị trí quan cao. Chỉ có điều cần không có hình xung phá khắc mới ứng nghiệm, không có Bính Giáp mà lại thấu Quý là mệnh số của kẻ hàn sĩ. Thấu Bính Giáp mà không có Quý là mệnh của người giàu. Không có Giáp mà thấu Bính Quý là người đa tài. Bính Quý đều không có là mệnh của kẻ nghèo hèn. 2) Mùa Hạ Kỉ Thổ 3) Mùa Thu Kỉ Thổ 4) Mùa Đông Kỉ Thổ. Bàn về Canh Kim Canh Kim sinh tháng hai thuộc Ất Mộc nắm quyền, chuyên chọn Đinh Hỏa, thứ dùng Giáp Mộc, Đinh Giáp cùng thấu, dưới chi lại tàng Đinh để kiềm chế Giáp, gọi là phối hợp trung hòa, là mệnh đại quý. Bính Tân Đinh thấu can, dưới chi lại tàng nhiều Thủy nhiều Mộc, chủ cũng đại phú quý nhưng không có con cái, ở trên đều can không có hình xung phá khắc mới nghiệm. Canh Kim sinh tháng 3, trực thuộc Mậu Thổ nắm quyền, trong trụ Thổ vượng cần thấu Giáp Mộc để tương cứu, không có Giáp sẽ là hạ cách. Tóm lại trước chọn Giáp Mộc, sau chọn Đinh Hỏa, Giáp Đinh thấu cả hai, tuyệt đối không có xung phá, công danh giành được vững chắc. Nếu gặp "Tỉ Kiên“, công danh trùn lại. Đinh Hỏa thấu can, chi tàng Giáp Mộc sẽ được công danh đặc biệt. Thấu Giáp không có Đinh, thấu Đinh không có Giáp là mệnh kẻ tầm thường, Giáp Đinh đều không có là mệnh của kẻ hạ tiện. Đinh Giáp tàng chi, lại tàng thêm Bính Hỏa gọi là phối hợp trung hòa, chủ phú quý song toàn. Chi thành Hỏa cục mà thấu Quý Thủy, tuyệt đối không có xung phá, chủ cũng phú quý. 2) Mùa Hạ Canh Kim Canh Kim sinh tháng 5, đang là lúc Hỏa nắm quyền, trước chọn Nhâm Thủy thứ đến Quý Thủy. Nhâm xuất can, còn chi tàng Quý, kiêm tàng Canh Tân không có xung phá, giành đươc công danh vững chắc. Thấu can Quý Tân mà không có xung phá, tất sẽ giành được công danh đặc biệt. Tóm lại, trong trụ không hề có một chút Thủy, hung nhiều, cát ít (dữ nhiều lành ít), cần phải lộ đầu can Thổ, mới tránh được yểu thọ và cô bần. Canh Kim sinh tháng 6 là Thời kì "tam phục sinh hàn" trước chọn Đinh Hỏa, thứ đến Giáp Mộc, Đinh Giáp cùng thấu lộ là số mệnh cao quý, cả hai mà thiếu một thì khó mong phát phúc, Đinh Giáp đều không có là số hèn. 3) Mùa Thu Canh Kim Canh Kim sinh tháng 8, thuộc thời kì mùa Thu Kim đang vượng, trước chọn Đinh Hỏa, thứ chọn Giáp Bính, nếu được cả ba cùng thấu, nhất định hiển quý. Lại gặp Dương nhận không gặp hình xung, thì Dương nhận này "giá sát" là quý mệnh của người "xuất tướng nhập tướng" {số không làm đại tướng cũng làm thủ tướng). Trong trụ gặp nhiều Bính Hỏa, can thấu một mình Đinh có thể được công danh. Tóm lại, Canh Kim sinh tháng tám thiếu Hỏa không phát. Canh Kim sinh tháng chín, Mậu Thổ nắm quyền kị nhất là trong trụ nhiều Thổ chôn vùi Kim, nên trước chọn Giáp Mộc sau chọn Nhâm Thủy, Giáp Nhâm cả 2 cùng thấu, chủ nhất định sẽ hiển quý. Chỉ có điều cần không gặp Kỉ Thổ, tuyệt đối không có hình xung mới nghiệm. Giáp thấu Nhâm tàng, hoặc Giáp tàng Nhâm thấu, có thể giành được công danh. Có Nhâm không có Giáp thuộc loại tầm thường, có Giáp không có Nhâm thì học vấn cao. Chi thành Thủy cục, can thấu Bính Hỏa, tất sẽ nổi tiếng về văn tài. Kị nhất là Kim vượng Mậu Thổ nhiều, tuyệt nhiên không có Giáp Nhâm tương cứu, thì gọi là Thổ dầy chôn vùi Kim, thì dù có căn cơ nhưng cũng khó được hưởng phúc. 4) Mùa Đông Canh Kim Sinh tháng 11, Thủy vượng trời lạnh rét, trước chọn Đinh Hỏa, thứ đến Giáp Mộc, Bính Hỏa, nếu là Đinh Giáp thấu can, chi tàng Bính Hỏa, lại không có hình khắc, nhất định ung dung bước vào chốn thanh vân. Có Đinh không có Giáp thì "quý tòng phú xuất" (có quý không phú). Có Giáp không có Đinh thì tầm thường không phát. Thấu Giáp tàng Đinh tất sẽ lập võ công. Tàng Đinh thấu Bính thì được "dị lộ công danh". Đinh Giáp cùng thấu, chi không có Bính Hỏa thì công danh tối thiểu. Chi tàng Nhâm Quý thành Thủy cục, trong trụ không hề có Bính Đinh gọi là thương quan cách, ăn mặc không đủ, con cái cũng không. Sinh tháng 12 trời rét đất cóng, trước chọn Bính Tí làm đầu, lại dựa vào Giáp Mộc để trợ Hỏa lực, Bính Đinh Giáp cùng thấu không gặp hình xung phá khắc, tất sinh hiển hoạn. Nếu thấu Đinh Giáp mà không có Bính, thì chủ nổi tiếng về tài năng. Thấu Bính mà không gặp Đinh Giáp chủ "quý tòng phú xuất". Thấu Bính Đinh mà không có Giáp thì nhất định "tay trắng làm nên". Bàn về Tân Kim Tân Kim sinh tháng 2, Nhâm Giáp cùng dùng, cả hai đều thấu không có xung phá, nhất định hiển quý, can không gặp Thổ, chi Hợi tàng Nhâm, chủ sức khoẻ kém, dưới chi không có Nhâm tàng, lại càng là hạ cách. Tân Kim sinh tháng 3, trước chọn Nhâm sau Giáp, Nhâm Giáp cả hai cùng thấu, phú quý song toàn, tàng Giáp thấu Nhâm là người giàu có. Tàng Nhâm thấu Giáp đạt công danh tối thiểu. Nhâm Giáp đều không có là kẻ tầm thường. Trong trụ một phái Bính Đinh, tuyệt nhiên không có Nhâm Quý cùng kiềm chế là số của người tu hành. Nếu được trong chi ẩn tàng Quý Thủy thì có thể tránh được. 2) Mùa Hạ Tân Kim Sinh tháng 5, Đinh Hỏa đang quyền, Tân Kim cần phải được Thổ ướt tương hỗ, cho nên chọn Kỉ Thổ, Nhâm Thủy làm dụng thần. Quý là nước sông ngòi, lực hơi yếu, không bằng nước trên trời của Nhâm. Nhâm Kỉ cả hai cùng thấu dưới chi tàng Quý, tuyệt nhiên không có xung phá tất nhiên hiển quý. Thấu Kỷ không có Nhâm, có thể được công danh khác thường. Tân Kim sinh tháng 6 đang là lúc Thổ vượng, chuyên chọn Nhâm Thủy, lại dựa vào Canh Kim để phụ trợ, cả hai Nhâm Canh cùng thấu không có hình xung, tất nhiên hiển quý. Can thấu Mậu Thổ nếu không có dương Giáp cùng kiềm chế là mệnh của kẻ tầm thường. Nếu có Giáp có Canh, Mộc bị Kim khắc cũng là hạ cách. Chỉ có điều là can thấu Nhâm Kỉ, có Canh không có Giáp mới là thượng mệnh. 3) Mùa Thu Tân Kim Sinh tháng 8 Tân Kim nắm quyền, chuyên chọn Nhâm Thủy, kị gặp Bính Đinh, trụ thấu một mình Nhâm và gặp Canh Giáp, tuyệt đối không có Hỏa khí hình xung, tất nhiên đại phú đại quý. Hễ gặp Đinh Hỏa thì chỉ đủ no ấm. Mậu Thổ chồng nhau, "Tỉ kiên" trùng lặp, can thấu một Nhâm gọi là Thổ dầy vùi Kim, là số mệnh tầm thường. Hễ gặp Giáp Mộc sẽ là có bệnh gặp được thuốc, chủ tay không làm nên. Một Nhâm thấu can, Tân Kim gặp chồng nhau mà không có hình xung thì phú quý song toàn. Tóm lại, Kim sinh vào mùa Thu nếu thành Kim cục mà lại được Tị Dậu Sửu đều có đủ, thì nhất định làm quan chức lớn. Tháng chín Mậu Thổ nắm quyền, chọn trước Giáp sau Nhâm, Giáp Nhâm cùng thấu giành công danh vững chắc. Can thấu Giáp Mộc, chi tàng Nhâm Mậu có thể giành được công danh đặc biệt. 4) Mùa Đông Tân Kim Tân Kim sinh tháng 11, Thủy Quý đang quyền, nhất thiết kị Mậu Quý mà thích Nhâm Bính. Bính Bính cả hai cùng thấu, can chi đều không có Mậu Quý, tất nhiên phú quý song toàn. Trong trụ có nhiều Nhâm Thủy, lại thấu Mậu Giáp Bính là số mệnh quý hiển. Trong trụ nhiều Nhâm Thủy không gặp Bính Mậu là kẻ nghèo nàn. Sinh tháng 12 là lúc trời lạnh đất cóng, chọn trước Bính sau Nhâm, Bính Nhâm thấu cả hai không có hình xung, là mệnh của người thanh quý (quan thanh liêm). Thấu Bính thiếu Nhâm chủ sức khỏe kém, thiếu Bính thấu Nhâm chủ nghè hèn. Bính Nhâm đều không có là mệnh tú tài, nhiều Bính thiếu Nhâm mà thấu Quý Thủy, nếu không có hình xung phá khắc, có thể làm nên cơ nghiệp bằng nghề buôn bán. Bàn về Nhâm Thủy Nhâm Thủy sinh tháng giêng là lúc Thủy đang vượng, trước chọn Canh Kim tương sinh thì sẽ chảy được xa, thứ dùng Mậu Thổ để phòng kiềm chế, Bính Hỏa để tương tế. Trong trụ Canh Mậu Bính đều thấu đủ, không gặp hung tinh hình xung, nhất định quý hiển. Can thấu Mậu Thổ, trong chi lại ám tàng nhiều Mậu, không gặp hình xung, thì gọi là một người chắn giữ quan ải muôn người không địch nổi, nhất định sẽ không làm đại tướng cũng làm thủ tướng. Tóm lại, Nhâm Thủy sinh tháng giêng không gặp Canh Mậu sẽ là hạ cách. Nhâm Thủy sinh tháng 2, trước chọn Mậu Thổ, thứ chọn Tân Kim, Mậu Tân cả hai cùng thấu không có hình xung, giành công danh vững chắc. Can thấu Canh Kim, chi tàng Mậu Tân, chỉ giàu không sang. Mậu thấu Tân tàng, có thể cầu được công danh đặc biệt. Chi tàng Giáp Ất thành Mộc cục, can thấu Canh Kim chủ được công danh. Hỏa nhiêu thấu Mộc lại gặp Nhâm Thủy, gặp Dương nhận, Tỉ kiếp, trái lại chủ được phú quý, gọi là Mộc thịnh Hỏa viêm, không có Thủy sẽ là hạ cách. Sinh tháng 3, Mậu Thổ đang vượng, trước chọn Giáp sau Canh, Giáp Canh cùng thấu không có hình thương xung phá, công danh giành được vững chắc. Giáp thấu đầu can, lại gặp Quý Thủy mà không có hình xung, tất sẽ hiển quý bằng võ công. Chi tàng một Giáp, can không thấu Mộc, chủ nhất định sẽ giàu to. Tóm lại, trong trụ không có Giáp chủ ngang ngược, không gặp Canh Kim chủ ngu và thô lỗ. 2) Mùa Hạ Nhâm Thủy Nhâm Thủy sinh tháng 5, đang thuộc Đinh Hỏa nắm quyền, Nhâm Thủy cực yếu, trước chọn Canh Kim để tương sinh, thứ chọn Quý Thủy để hỗ trợ, Canh Quý cùng thấu giành công danh vững chắc. Trong tứ trụ nếu gặp hai Nhâm kẹp một Canh, không hề có hình xung, tất nhiên sẽ đại quý. Nhâm Thủy sinh tháng 6, Kỉ Thổ nắm quyền. Chọn trước Tân sau Giáp, Tân Giáp cùng thấu, phú quý song toàn, thấu Giáp tàng Tân, chủ sẽ lập được quân công. Tân Nhâm thấu can, vô hình thương nhất định quý hiển. 3) Mùa Thu Nhâm Thủy Nhâm Thủy sinh tháng 8 thuộc Tân Kim đang vượng, chuyên chọn Giáp Mộc, can giờ thấu Giáp, không hề có hình xung phá hại, tất nhiên sẽ quý hiển, chi gặp Thân, Hợi thì chủ kém sức khỏe. Nhâm Thủy sinh tháng 9, trước chọn Giáp Mộc thứ đến Mậu Thổ, Giáp Mậu cùng thấu, thấu Bính nhiều Nhâm, trong tứ trụ trung hòa, không có bệnh là mệnh thanh quý. Không gặp Bính Mậu là hạ cách. 4) Mùa Đông Nhâm Thủy Nhâm Thủy sinh tháng 11, Dương nhận trợ thân, Thủy khí cực vượng, trước chọn Mậu Thổ, thứ dùng Bính Hỏa, Mậu Bính cùng thấu, trong tứ trụ phối ghép trung hòa, chủ nhất định phú quý. Thấu Bính không có Mậu thì chủ tiểu phú. Nhâm Thủy sinh tháng 12, đang là lúc trời lạnh nước đóng băng', chuyên chọn Bính Hỏa, thứ đến Giáp Mộc, Bính Giáp đều thấu không có hình hại, chủ nhất định sẽ hiển quý. Bàn về Quý Thủy Quý Thủy sinh tháng 2, thuộc lúc Ất Mộc đang vượng, chuyên chọn Canh Tân để sinh Thủy cả hai cùng thấu, không gặp Đinh Hỏa và hình hại tất nhiên hiển quý, một thấu một tàng, thì đạt công danh tối thiếu. Trong chi tàng Canh Tân, trong trụ không có hình xung, chủ được quý trong sự giàu có. Canh Tân đều không có là mệnh hèn. Quý Thủy sinh tháng 3, người sinh sau tiết Thanh minh, cái rét mùa xuân chưa hết, chuyên dùng Bính Hỏa, sinh sau Cốc vũ, cùng chọn Bính mà kiêm dùng Tân Giáp để phù trợ, Tân Bính Nhâm đều tề tựu, không gặp hình xung, người sinh sau Thanh minh tất nhiên hiển quý. Người sinh sau Cốc vũ, Quý Tân thấu can không gặp hình thương thì chủ tiểu quý. Can thấu Giáp Mộc, chi tàng Thìn Tuất Sửu Mùi (gọi là Tứ khố) chủ công danh hiển đạt. 2) Mùa Hạ Quý Thủy Sinh tháng 5, Bính Hỏa đang vượng, chuyên chọn Canh Tân để hỗ trợ Thủy, Canh Tân thấu can lại gặp Nhâm Thủy, không hề có hình thương phá hại, nhất định sẽ gặp đại quý. Canh Tân thấu can, chi tàng Thân Tí Thìn là mệnh người thanh quý. Thủy ít Kim nhiều là mệnh của người giàu có. Kim Thủy đều thấu, không có hình thương sẽ được phú quý song toàn. Quý Thủy sinh tháng 6, sinh vào nửa đầu tháng (sau tiết Tiếu thử) chuyên chon Canh Tân làm phù trợ. Nêu cả Bính Đinh đều gặp, Hỏa nhiều Kim yếu cần gặp "Tỉ kiếp” chủ mới phú quý. Sinh vào nửa cuối tháng, từ sau tiết Đại thứ, trong trụ Canh Tân đều thấu, không gặp 'Tỉ kiếp" cũng có thể giành được công danh. Hễ gặp Đinh Hỏa sẽ là hạ cách. 3) Mùa Thu Quý Thủy Quý Thủy sinh tháng 8 thuộc lúc Thủy trong Kim vượng, trước chọn Bính Hỏa. thứ chọn Tân Kim, Bính Tân cũng thấu, không có hình thương nhất định chủ hiển quý. Tân tàng Bính thấu, có thể mong tiến bằng học hành và quan trường. Quý Thủy sinh tháng 9 d8ang thuộc Thổ tinh nắm quyền, Quý Thủy không có hình dáng biến đổi chế ngự, chuyên dựa Tân Kim tương trợ. Giáp Mộc phò tá, Tân Giáp đều thấu, chi lại tàng Quý, trong trụ không có hình thương chủ nhất định hiển quý. Can thấu Giáp Quý không có hình thương, chủ nhất định phú quý song toàn, nhưng gặp Giáp Quý không gặp Tân chỉ giàu mà không quý. Cả ba cái đều không gặp là số mệnh nghèo hèn. 4) Mùa Đông Quý Thủy Quý Thủy sinh tháng 11, chuyên chọn Bính Hỏa để giải nước đông cứng, thứ chọn Tân Kim để tương trợ, Bính Tân cùng thấu, giành công danh vững chãi. Nhưng gặp Bính Hỏa, không gặp Tân Nhâm và hình thương chủ cũng hiển đạt, có Tân không có Bính sẽ thành hạ cách. Quý Thủy sinh tháng 12, dĩ nhiên cũng chuyên chọn Bính Hỏa để giải đông cứng, trong tứ trụ năm và giờ sinh thấu Bính, lại được Nhâm Thủy xuất can, mậu Thổ tàng chi gọi là Thủy chuyển dương khắc, Nếu như không có hình thương nhất định sẽ làm quan đến cực phẩm. Chi tàng Nhâm Quý thành Thủy cục, can thấu lưỡng Hỏa mà không có hình thương, thì một đời ăn mặc sung sướng, không gặp Bính Hỏa là số nghèo. Có Bính không có Nhâm giành công danh tối thiểu. Tóm lại, ba tháng mùa Đông Quý Thủy, một khi thiếu Bính Hỏa thì cuối cùng cũng không có hi vọng phát đạt. Mệnh phả của các danh nhân xưa và nay Chúng tôi chọn mấy mệnh phả để các bạn đọc tham khảo : Mệnh phả của Gia cát Lượng Gia Cát Lượng sinh vào năm thứ tư Quang Hòa Linh đế, thời Hậu Hán, tháng 7 ngày 23, giờ Tị Theo sự sắp xếp "bát tự” năm tháng ngày giờ sinh của các nhà đoán mệnh : Tân Dậu (năm) Bính Thân (tháng) Quý Sửu (ngày) Đinh Tị (giờ) Căn cứ 10 Thiên can để tính hiện tượng ngũ hành sinh khắc, các nhà đoán mệnh rút ra kết luận như sau : Nhật nguyên là Quý Thủy, sinh sau tiết Lập thu, Bạch đế nắm quyền, Kim đương lệnh, Thủy được Kim sinh, chính khí đầy đủ, lại gặp được can năm là Tân Kim, chi năm là Dậu Kim, gặp chi tháng Thân ẩn tàng Canh Kim, lại ẩn tàng Nhâm Thủy, chi ngày là Sửu ẩn tàng Tân Kim, lại ẩn tàng Quý Thủy, chồng chất lên sinh nó và trợ nó, đó là "Kim bạch Thủy thanh” hiển nhiên dễ gặp. Ngược lại, dựa vào can tháng Bính Hỏa đơn độc, chẳng những không thể kiềm chế Kim, mà cũng còn dùng để giúp thêm Thủy, hơn nữa Bính hợp với Tân, đồng hòa thành Thủy, thành phần của Hỏa lại hồi phục khi có khi không, không có giờ sinh là Đinh Tị, là hai Hỏa thì không thể kiềm chế được Kim đang vượng, cứu Thủy có dư. Nay được những cái đó là dụng thần chính thức, nó như là khi gặp mưa, nếu trời đất thuận thành thì sẽ biết... Đáng tiếc Đại vận Kim Thủy liên hoàn đi ngược đường với dụng thần Hỏa, tuy rằng làm việc hết sức hết mình, nhưng cũng chỉ đạt làm nhiều công nhỏ... Năm Đinh Hợi, 27 tuổi Lưu Chiếu Liệt đóng quân Tân Dã, Từ Thứ tiến cử. Chiếu Liệt ba lần đến cầu mới gặp. Năm Mậu Tí 28 tuổi, Võ hầu thuyết Tôn Quyền ở Sài Tang, Tôn Quyền vui lớn, lại điều khiển 3 vạn Thủy quân của Chu Du, Trình Phổ, Lỗ Túc, cừng tuần Kinh Châu với Chiêu Liệt, các quận Giang Nam xin hàng, tâu biểu cử Lưu Kì làm Thứ sử Kinh Châu, phong Võ hầu làm Quân sư, Trung lang tướng... Hai năm này là mấu chốt về danh nghiệp một đời của Võ hầu. Cái diệu kì là năm gặp Đinh Mậu, hạn phùng Bính Ất không có hiệu lực của vận Quý Thủy... Đến năm Nhâm Thìn, 32 tuổi, tiểu hạn Tân Dậu, 33 tuổi là năm Qưý Tị, tiểu hạn Canh Tân, Võ hầu đều ở Kinh Châu. Năm năm này dù là danh nghiệp bước đầu của ông, nhưng quan hệ rất to lớn. Nếu như không có thành tích đặc biệt của mấy năm này, Lưu Chương cố nhiên không sai sứ đến đón Chiếu Liệt, còn Tôn Quyền cũng không thể đứng trước giường lại để kẻ khác ngủ say được, cho nên tất nhiên làm theo vận của Kỉ, Bính Hỏa ẩn tàng trong đó, cùng với Kỉ của giờ sinh cố nhiên là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, mà lại còn cùng hợp tác với can tháng là Bính Hỏa, can giờ là Đinh Hỏa là "đắc đạo đa trợ" hóa khó khăn thành tốt đẹp... Năm 40 tuổi, Quý Mão, ... trong 5 năm này Thánh đế, Hoàn hầu lần lượt tạ thế, mà Chiếu Liệt đế lại chết. Gặp Thần vận là Thủy mộ, tuế hạn gặp Kim Thủy, cho nên dồn dập gặp trắc trở lớn, nên Mệnh chỉ dựa vào rủi may. Tuy là người có chí, nhưng cũng không biết làm sao... Năm Canh Thân 48 tuổi, tiểu hạn Kỉ Dậu. Mùa Xuân, Hầu thay Ngụy... tiến quân mã Tốc vi phạm tiết độ, bị đánh bại ở Nhai Đình... Trong 5 năm này lấy Canh Thân là tồi tệ nhất. Bao trùm cả đại vận là Canh, mà năm lại là Canh Thân. Kim nhiều sinh Thủy là để tràn đầy. Tuổi 48, năm gặp Mộc Hỏa cho nên có thể ung dung không phí sức. Đinh Mùi sinh con, cũng là minh chứng của Hỏa có thể giúp Thủy... Năm Giáp Dần, 54 tuổi... tháng 8 Quý Dậu, ngày 28 là Canh Thìn, Võ hầu bị ốm và mất trong quân. Việc này là cái hại của chi năm là Dần xung với Thân và hình với Tị, đương nhiên nếu như không có tháng Quý Dậu, ngày Canh Thìn càng làm tăng thêm những việc ngang trái, chứ không đưa đến những việc mãnh liệt như đã xảy ra. Mệnh phả của Thiệu Ung Mệnh cung Quí Tị
7 Canh tí
17 Kỉ hợi Tân Sử (Tháng) 27 Mậu Tuất
37 Đinh Dậu Giáp Tí (Ngày) 47 Bính Thân
57 Ất Mùi Giáp Tuất (Giờ) 67 Giáp Ngọ
77 Quí Tị Trong "Bát'tự" của Khang Tiết tiên sinh có : Giáp Mộc hai dãy, Tân Kim cũng 2 dãy. Hình thức chỉnh tề, cách tạo thành hai can không lẫn lộn. Xét bề ngoài là người phú quý. Sinh ra sau tiết Đại hàn, tuyết đọng nước đông, Cành trơ là rụng. Tuy Giáp Mộc hai hàng, cũng không thắng nổi khắc chế của hai Kim Tân. Huống chi Hợi Tí Sửu có thể là Thủy của khí phương này, lại có điều chê là thấp Mộc (làm ướt Mộc). Có cái may là chi của giờ sinh thuộc Tuất, trong ẩn tàng Đinh Hỏa, Mệnh cung gặp Tị, trong ẩn tàng Bính Hỏa, mượn hai Hỏa này để kiềm chế Kim. Mượn hai Hỏa này để đánh động Mộc, nhất cử lưỡng tiện. Mà sức sống của Giáp Mộc vẫn có thể hàm súc vô cùng, lại thêm lấy ngày thuộc Thiên xá, tháng thì có quý nhân cho nên có thể học hành chăm chỉ (khắc khổ), lập danh hàm phẩm tước thanh khiết, một mình có thể suy đoán được vận hóa của Trời Đất, thăm dò sự tăng giảm của âm dương. Xem vận ban đầu Canh Tí Kỉ Hợi, một phái Thủy Kim, gặp biết bao trục trặc. Rét không lò sưởi, nóng không quạt, không vào đúng chỗ mất mấy năm. Từ 38 tuổi người vào vận Đinh. Mới đầu chọn nời ở tại Lạc Dương giàu có. Các hiền tài như Tư Mã Quang, Lã Công Trước, thôi làm quan về ỏ Lạc Duơng, cũng thường cùng giao du, vẫn là ở chốn "thị viên" (vườn trong thành phố). Ông quanh năm ngày tháng trồng trọt chỉ đủ tự cấp ăn mặc. Nơi ở của ông gọi là ổ An Lạc, do đó ông cũng được gọi là An Lạc tiên sinh. Năm 45 tuổi, năm Ất Mùi, sinh con trưởng là Bá Ôn. Năm 47 tuổi năm Đinh Dậu, sinh con thứ là Trọng Lương, là năm có chiếu tiến cử nên thôi ẩn cư. Lưu thủ Vương Củng Thần khuyên ông nên tiếp nhận chiếu. Mới đầu giao cho chức Giám chủ bạ. Năm 58 tuổi thuộc vận Ất, năm đầu của Hi Ninh, lại xin cho nghỉ ngơi. Phụ tá Ngự sử Lã Công Hải, Long đồ các học sĩ Tố công Vô Trạch và Thừa tướng Ngô Công Sung lại có lời khuyên ông một lần nữa. Lại đề cử làm quan chuyên luyện Dĩnh Châu, đều một mực từ chối, không đi làm quan. Phàm tất cả mọi việc này, đủ chứng tỏ Bính Hỏa, Đinh Hỏa và Ất Mộc đều là Hỉ thần của nhật nguyên Giáp Mộc. Mặc dù kinh qua ba vận Dậu, Thân đều được Bính, Đinh che đầu. Dù Kim bị Hỏa kiềm chế cũng không bị hại. Năm 67 tuổi thuộc vận Mùi, Tuế trực Đinh Tị, tiểu hạn Đinh Hợi, vừa gặp Sửu Tuất là Tam hình lại gặp Tị Hợi là Lục hàm, vì thế ông đã mất do già lão. Ông đã tặng trước tác của mình cho Sở lưu giữ "sách bí mật“. Được gia tặng bổng lộc, lương thực và vải lụa. Khi ông mắc bệnh, Tư Mả Quang, Trương Tải, Trình Hạo đã sớm tối túc trực bên ông. Sau khi chôn cất xong, Trình Hạo đã làm bài minh khắc trên mộ chí. Xưng đạo của Tiên sinh là thuần khiết không hỗn tạp, từ đó có thể gọi là vững vàng mà thành công. Hàn Hiến Túc thủ trấn Lạc Dương lại vì việc đó xin triều đình ban tặng tên thụy. Đã xuống chiếu ban tặng thụy là Khang Tiết. Đại thể từ triều đó trở đi, tên tuổi này đã có trong thiên hạ khoảng 400 năm. Với danh nghĩa "ẩn dật cư sĩ", nhưng danh tiếng và việc làm của ông trước sau vẫn đều hoàn hảo, không hề bị bôi nhọ. Còn triều đình thì ra mệnh lệnh để khen thưởng và chi phí tiền tang tuất. Việc tặng tên thuỵ cho ông không hề có một nghi ngờ gì, càng thời gian lâu dài về sau, tên tuổi ông càng vẻ vang. Việc đó chỉ có một mình ông mà thôi. Mệnh phả của Tôn Trung Sơn Tôn Trung Sơn không chỉ là người đầu tiên lật đổ thể chế chính trị quân chủ chuyên chế hơn 4000 năm của dân tộc Trung hoa, mà còn là người xây dựng nên nước Cộng hòa dân chủ đầu tiên ở châu Á. Vốn mang theo tư tưởng cao cả, kế hoạch lớn dựng xây đất nước, dám xông vào nguy nan hiểm trở, phục vụ tận tụy, không tiếc mang hết tinh lực suốt đời, toại lòng ra tay cứu vớt. Tạ thế đến nay đã hơn 30 năm, song bát tự của con người vĩ đại có tính thời đại này quả thật có giá trị nghiên cứu. Bây giờ suy luận như sau : Mệnh lí của ông là lập mệnh Quý mão, thai nguyên Mậu Dần. Sách "Tam mệnh thông hội” gọi là cục Tam kì, gọi mệnh phả này là "Gió lộng tung bay". Nhật (ngày) quý lại gặp Nguyệt (tháng, quý, vận mệnh từ xưa đến nay chỉ thấy có ở đây. Điều đáng tiếc là Mệnh cung Quý Mão với nhật nguyên Đinh Dậu lại bị Thiên khắc Địa xung, cho nên sự nghiệp của đời người phải trải qua nhiều gian nan hiểm trở, nhưng về sau thành công. Ất Sửu là người thực sự trong kho Võ, cho nên có thể lấy tư cách của Văn nhân mà nhiều lần đã chấn động bằng quân sự. Dịch Mã quý nhân tọa tại Thiên Môn, một đời bôn ba lao lực mới lập nên. Năm 47 tuổi gặp vận Nhâm. Hai Nhâm hai Đinh, sự tương hợp do thiên tạo, năm Tân Hợi quân quý đã lên Thiên môn nên đảm nhận chức Tổng thống đầu tiên. Năm Dân quốc thứ hai tức Quý Sửu, để tiêu diệt bọn hỗn quan, hai lần cách mạng đều thất bại, vì Quý xung với Đinh, phá hoại sự hợp nhất của Đinh Nhâm, cũng là một nguyên nhân của thất bại. Năm 53 tuổi, gặp vận "Lộc nguyên chi hương" lại khởi nghĩa ở Sơn Đông, xưng là Đại Nguyên soái và Đại Tổng thống. Năm cuối đời, hành đại vận Tân Tị, năm Ất Sửu 61 tuổi, Tị Dậu Sửu hội Kim cục, ấn tinh bị tổn thất mắc bệnh ung thư gan không chữa được. Gan thuộc Mộc nên không chịu nổi Kim cục, song sau khi Quốc phụ tạ thế hành Mộc vận phương Đông Dần Mão Thìn, Bắc phạt và cuộc kháng chiến đều thành công, người tuy đã mất nhưng tinh thần không chết, thanh thế to lớn vẫn trường tồn. Người anh hùng tạo thời thế, không thể phạm Ngũ hành, song việc thành bại thì phải theo mệnh vậy. Tân Kim mà sinh vào tiết Tiểu dương Xuân, dương thăng dương giáng, được Bính Hỏa và Nhâm Thủy gọi là"Kim bạch thủy thanh", Bính thấu lộ, ẩn tàng Nhâm thì chỉ có danh vọng mà không có chức vị, sang quý mà không giàu có, Địa chi Kim Dần Hợi Mão, Mộc khí kết ngưng, Mộc Hỏa Thổ Kim tuần hoàn tương sinh, thanh danh được lưu truyền dài lâu, rất là quý. Phàm là những người vì sự nghiệp lớn, từng người phần nhiều đều như thế, như đã lập mệnh phả cho Tăng phụ Chính, đều trong thành công có thất bại, trong bại có cứu giúp, càng phải được năm và giờ Thái Ất cùng chiếu, thì mọi việc dù gặp xấu cũng đều được hóa giải, đáng tiếc là trên giờ không thấu lộ Nhâm Quý, nguồn xa nhưng chảy không được dài (tức lưu truyền không được dài lâu) bị ngừng lại cùng với thân thể, cho nên mang hận xuất binh đánh Tề không thắng, ở trên là bàn một cách đại thể, tháng 10 Nhâm Thủy nắm lệnh, Bính Tân hóa hợp, Ân, Kiếp vô hận, Địa chi Kim Dần Mão Hợi là Mộc cục, thì khí vượng Thủy Mộc đều sáng sửa, hành vận cần phải thuận theo thế vượng của nó, gọi là "tòng khí" (theo vận khí). Tôn Trung Sơn vốn xuất thân từ một người bình dân tập hợp được hàng triệu người, còn với tư cách là lãnh tụ đã gặp 10 lần thất bại, nhưng vẫn không ngừng cố gắng. Nếu như không phải là vận cực vượng thì chắc chắn là một lần ngã không thể gượng được, không thể lại có được thời cơ mở mày mờ mặt nhìn thấy ánh Mặt trời. Ví như thuyền buồm vượt trùng dương làm sao tránh được nguy hiểm của sóng dồn gió dập ? Năm Tân Hợi là Mão vận, Hợi Mão hợp cục, từ hải ngoại trở về, được bầu làm Tổng thống, trong vận Giáp mở phủ Tổng thống ở Quảng Đông, năm Nhâm Tuất là vận Thìn, Thổ khô khan xung Thìn, ngược với thế vượng của nó, sự biến phát sinh ngay sát nách, năm Ất Sửu vận Ất Tị, Ất Canh hóa Kim, Tị Sửu ngầm hội nhập Kim cục, vận năm đều ngược lại, cùng chí cùng lòng không còn nữa. Mệnh phả của Hoàng Hưng Trong những năm Thanh Quang Tư, ông đã lãnh đạo người Hán lật đổ Hoàng triều nhà Mãn Thanh, giúp ông Tôn Trung Sơn tổ chức Hội Hưng Trung, sau đó lại cùng với Tống Giáo Nhân tổ chức Hội Hoa hưng mới đầu hai phái mỗi người đi theo một ngả, mạnh ai nấy làm. Quang Tự năm thứ 31, tức năm Ất Tị, hai ông Tôn Trung Sơn và Hoàng Hưng gặp nhau ở Tôkyô Nhật Bản, hai phái hợp lại, cải tổ thành Đồng Minh hội, thanh thế từ đó mạnh mẽ hơn. Không lâu, đã có nhiều lần khởi nghĩa, phần nhiều đều do Hoàng Hưng chủ trì. Ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi, trong cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương bị thương, bị đứt hai ngón tay, trốn về Quảng Châu, có thể còn may mắn, được sự chăm sóc của bà Từ Tông Hán, đáp tàu Thủy Ha-đơ-an đến Hồng Kông vào bệnh viện Mari để điều trị. Để tiến hành phẩu thuật, theo thường lệ phải có người nhà kí giấy, lúc đó bà Từ Tông Hán đành phải mạo xưng là vợ của Hoàng Hưng để thực hiện thủ tục kí tên. Không bao lâu bệnh khỏi ra viện bèn làm giả mà thành sự thật, Hoàng Hưng và Từ Tông Hán kết hôn với nhau, có thể nói thật quả là tình cảm chân thành đã kết thành trong cách mạng. Thời kì đầu của Tân Hợi quang phục ở trong và ngoài nước thường thường là Tôn và Hoàng cùng đặt ngang nhau. Thân phận của Hoàng Hưng trên thực tế là đặt ở trên Hồ, Uông và Trần Kì Mĩ, ông đã từng đảm nhận các chức vụ : Tổng trưởng bộ Lục quân, bộ phận đóng giữ Nam Kinh, Đốc biện đường sắt Xuyên - Áo - Hán. Bát tự của ông, lập mệnh tại cung Thân, thai nguyên Ất Sửu. Ngày lập tự ngồi hưởng lộc, Thiên can có 4 chữ Giáp, Thiên nguyên cùng một khí thế, lại được sức của thuần dương, cho nên có thể từ một phần tử trí thức trở thành anh hào của thế gian, đi theo con đường cách mạng dân tộc. Sự từng trải của ông đã cho người ta nhiều điều gợi ý. Giáp là cây (Mộc) cao ngất trời, tuy gặp mùa Thu cũng có thể chịu đựng được sự quét sạch thê thảm của nó, trong thế giới cảnh vật muôn màu muôn vẻ tung hoành dọc ngang. Hành vận Mậu "thân vượng nhiệm tài", cho nên bỗng chốc nổi danh, cũng củng cố được vị trí thích hợp của mình. Thời đầu của vận Mậu đang thuộc năm Kỉ Dậu, Canh Tuất, Kim vượng tổn lộc, nửa năm đầu Tân Hợi cũng như thế, vì vậy mới có cái sợ nguy hiểm. Nửa năm cuối Tân Hợi, Dần Hợi hợp lộc, bỗng nhiên trở nên hưng thịnh. Năm Dân quốc đầu tiên tức năm Nhâm Tí, Lộc Hỉ gặp Ấn thụ cho nên vinh dự được ban thưởng công đầu. Năm Dân quốc thứ hai, tức nửa năm cuối Đinh Sửu, Sửu Tuất hình xuất Thất sát, vì thế hai lần suýt mất mạng. Năm Dân quốc thứ 5, tức năm Bính Thìn, nằm trong vận Dần, "Chúng hóa tranh lộc”, ba Tuất xung Thìn, đánh dẹp Viên Thế Khải tuy thành công, nhưng kết thúc bằng việc cùng lòng cùng chí với nhau cũng hết, năm 43 tuổi nhiệm vụ thực thi chưa làm tròn. Cách chuyên lộc vượng khí tụ sợ nhất là Quan sát, lại "hóa kiên tranh lộc", cả hai đều gặp thì ắt sẽ không may. Từ đó ta có thể thấy : nhà đoán mệnh đem mọi cảnh ngộ của một đời người đều quy về thời gian sinh ra của người đó. Giống như Gia Cát Lượng có thể phát huy tác dụng trong trận đại chiến Xích Bích, một sự kiện lớn như thế cũng là do Gia Cát Lượng "Tuế phùng Đinh Mậu" (Tuế tinh gặp Đinh Mậu). Đoán mệnh cần phải có hệ thống lí thuyết tự giải thích cho lí lẽ kín kẽ, song nó lại là phản khoa học. Cho đến hiện nay, nó vẫn không thể mượn khoa học hiện đại để làm sáng tỏ tính hợp lí tự thân của nó. Vì vậy vẫn đặt vào loại mê tín như xưa. Nó đúng hay không đúng cần thiết còn phải bàn cãi nhiều. Chúng tôi sở dĩ nêu ra mệnh phả của một số danh nhân xưa và nay là để thuyết minh Thiên thời với ý nghĩa của cá nhân, nó là từ đồng nghĩa với vận mệnh. Nhưng thuật đoán mệnh là một phương pháp dự đoán đã được người ta lưu truyền hàng ngàn năm nay, đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa dân tộc Trung Hoa, không thể không nói đến nguyên nhân tồn tại có tính hợp lí của nó, phủ định một cách đơn giản nó cũng không phải là thái độ khoa học. Về thuật đoán mệnh vốn là một đề mục rất khó. Có một số học giả để bóc di áo khoác "mê tín" của thuật đoán mệnh, gượng gạo đem nó nhuộm thành màu sắc "duy vật". Nhưng làm như thế chỉ là trò quyền biến, khó thành việc lớn. Đối với việc phủ định của thuật đoán mệnh mới là nhu cầu sứ mệnh thời đại. Các bậc đế vương khanh tướng trước đây cần loại học thuật thần bí này, còn như chúng ta ngày nay lấy chủ nghĩa Mác -Lê nin làm tín ngưỡng, thì không cần. Họ không tin Thiên mệnh, điều tin tưởng chỉ là chân lí. Những người hòng lật án cho đoán mệnh, nếu như thật sự hiểu được mệnh số thì sẽ lại không in trộm một số sách nhỏ mơ hồ, giả vờ làm chống cự qua loa xong chuyện. Làm như thế, chỉ có thể là làm tăng số lượng của sâu mọt, mà không thể mang lại biến đối về thực chất. THUẬT QUÁI ẢNH QUỸ CÁCH Núi Thanh Thành mà Tô Thức nhắc đến là tên núi của Đạo giáo, Quỹ Cách quái ảnh lại đưa ra từ một cụ già trong núi Thanh Thành, xem ra rất có nguồn gốc với Đạo giáo. Đạo giáo là một tôn giáo rất có ảnh hưởng Thời cổ đại Trung Quốc, nguời sáng lập của nó là Trương Đạo Lăng Thời Đông Hán, tôn thờ Nguyên Thủy Thiên tôn vá Thái Thượng Lão quân. Vì trong tên Trương Đạo Lăng, người sáng lập có chữ ”Đạo", từ Thời Ngụy Tấn về sau, người ta liền gọi giáo phái này là Đạo giáo, Trương Đạo Lăng được các giáo đồ gọi là Thiên sư. Tương truyền Trương Đạo Lăng đã từng đến núi Thanh Thành lập đàn công bố Đạo. Đến nay, dưới đỉnh Hổn Nguyên sườn núi Thanh Thành còn có một động Thiên sư, theo truyền lại là nơi Trương Đạo Lăng công bố đạo. Núi Thanh Thành thì được Đạo giáo gọi là "Đệ Ngũ Động Thiên". Núi Thanh Thành vừa là núi nổi tiếng Đạo giáo, quai ảnh Quỹ Cách là bắt nguồn từ một cụ già ở ẩn ở núi này, thì quan hệ của nó với Đạo giáo cũng sẽ dễ dàng suy ra. Thuật quái ảnh Quỹ Cách là gì ? Sách "Phủ Chưởng lục" của Hác Cư Thực Thời Tống ghi như sau : Quỹ Cách giả dĩ đan thanh ngụ cát hung. Hoạ nhân vật bất thường, điểu hoặc tứ túc, thú hoặc lưỡng dực, nhân hoặc nho quan nhi tăng y, cố vi quái dĩ kiến tượng. Thiết vị quái ảnh giả, hoặc như kim chì bà quy toán mệnh, tước nhi toán mệnh chi loại. Chí Quỹ Cách tắc thủ kì nghĩa, bắt khả giải hĩ" (trích dẫn từ sách "Tống nhân tiểu thuyết loại biến" của Dư Tẩu đời nhà Thanh). "Dĩ đan thanh ngụ cát hung" chính là thông qua tranh vẽ ám chỉ hoặc thuyết minh điều lành dữ, vui buồn của người và việc. Những tranh vẽ này đều không theo lẽ thông thường mà vô cùng cổ quái, như chim có bốn chân, thú có hai cánh, người thì đội mũ nhà Nho, nhưng lại mặc áo nhà sư. Đây là ảnh của quẻ. Còn Quỹ Cách là gì ? Hác Cư Thực cho rằng "không thể giải được". Tô Thức ghi chép "Phí Hiếu Tiên quái ảnh" nói là cụ già ở núi Thanh Thành dạy Phí Hiếu Tiên "thuật Dịch và Quỹ Cách quái ảnh". Hác Cư Thực thì nói : "Thục trung nhật giả Phí Hiếu Tiên, phệ "Dịch", dĩ đan thanh ngụ cát hung, vị chi quái ảnh", (ở trong đất Thục có Phí Hiếu Tiên là người biết bói "Dịch", dùng màu thuốc son và xanh để vẽ, gửi gắm biểu thị điềm lành dữ, gọi là ảnh quẻ). Tham khảo và đối chiếu ghi chép của hai người có thể biết Quỹ Cách quái ảnh thực chất là một phương thuật. Gọi là Quỹ Cách chính là dùng "bát tự" lúc sinh của người để suy đoán thành quẻ, tức là theo dân gian nói "Suy bát tự", nhưng nó không phải là suy đoán cát hung phúc họa trực tiếp từ trong "bát tự" lúc sinh, mà là dựa vào "bát tự" lúc sinh để suy diễn thành quẻ để làm việc chuẩn bị cho việc "dùng màu son và màu xanh để gửi gắm ngụ ý cát hung", sau đó dùng tranh vẻ để biểu hiện tượng quẻ ra, việc luận đoán của các thuật sĩ sẽ gửi gắm ngụ ỷ ở trong tranh vẽ. Quỹ Cách quái ảnh bao gồm hai bước : suy "bát tự" thành quẻ và đem tượng quẻ dùng tranh vẽ đế biểu hiện ra, sau hai bước này hoàn thành mới là suy đoán của thuật sĩ. Từ đó ta thấy Quỹ Cách quái ảnh vừa không giống với "suy đoán bát tự", cũng không giống với quẻ "Dịch", mà là một loại phương thuật bao gồm đoán bát tự, thuật "Dịch" và tranh sấm hợp lại thành một dạng. Các thuật số cổ đại Trung Quốc như bốc phệ, thuật "Dịch", tướng thuật, thuật ngũ hành, chiết tự, phần nhiều đều là nói thẳng vào điều cát hung của người và việc, còn Quỹ Cách quái ảnh lại là dùng tranh vẽ hoặc lời thiền để ẩn ngụ ý cát hung phúc họa, người cầu xin muốn biết rõ tường tận nó, thường thường phải tốn một chút tâm tư mới hiểu được "thiên cơ" của nó. Những sách cổ có liên quan với thuật này, chỉ có trong sách "Tống sử. Nghệ văn chí" có ghi chép một số như : "Quỹ Cách truyền đạo lục", "Quỹ Cách chỉ mê chiếu đảm quyết", "Quỹ Cách bí bảo". Việc lưu hành Quỹ Cách quái ảnh đã sản sinh ảnh hưởng nhất định đối với "dân phong thế tục" đời Tống, trong quá trình truyền bá và lưu hành của Quỹ Cách quái ảnh, Phí Hiếu Tiên đã có tác dụng quan trọng. Trước tiên là thuật Quỷ Cách quái ảnh đã giành được tín nhiệm của nhiều người, "các vương công và nhân vật lớn đều không ngại ngàn dặm xa xôi đã dùng tiền của cầu xin quái ảnh của họ" chính là một chứng minh. Thứ hai là do ảnh hưởng của ông ta không ít người đã học tập thuật Quỹ Cách quái ảnh, đã đẩy mạnh việc truyền bá thuật Quỹ Cách quái ảnh. Theo truyền thuyết một nhà buôn lớn nổi tiếng họ Vương đến Thành đô để buôn bán, hâm mộ tên tuổi của Phí Hiếu Tiên đã đến để xin xem quẻ, Phí Hiếu Tiên đã tặng ông ta mấy câu kệ : "Bảo dừng không dừng, bảo tắm gội không tắm gội, một cốii thóc giã được ba đấu gạo. Gặp sáng suốt thì sống, gặp tối tăm thì chết". Đồng thời khuyên đi khuyên lại phải nhớ thật kĩ. Người họ Vương tuy không giải được ý, nhưng vẫn tuân theo lời dặn không quên. Trên đường về gặp mưa lớn cùng với nhiều người trú chân trong một gian nhà đổ nát, bỗng nhiên nghĩ đến câu dặn đi dặn lại của Phí Hiếu Tiên "bảo dừng không dừng", trong lòng liền sinh ra hoài nghi, tự mình lẩm bẩm nói : "Bảo dừng không dừng, có phải chính là nói sự việc hôm nay chăng ? "Thế là xông vào mưa để đi, mọi người đều thấy kì lạ. Vừa đi ra khỏi không xa thì gian nhà bị đổ, một nhà đầy người đều bị đè chết, chỉ có một mình ông Vương là may mắn thoát nạn. Ông Vương đi buôn bán ở ngoài, vợ ông ở nhà tư thông với người hàng xóm, và chuẩn bị đợt ngày ông Vương trở về thì đến đêm sẽ giết ông Vương để chung sống suốt đời với nhau. Ông Vương vừa về thì người vợ bèn hẹn với người hàng xóm nói : "Người hôm nay gội đầu là chồng của tôi". Ý nói là để người hàng xóm đêm nay khi mưu sát thì nhận đúng người vừa mới gội đầu là ông Vương. Hôm đó khi ăn cơm tối, người vợ bảo ông Vương gội đầu và thay khăn và lược. Ông Vương liền nghĩ đến lời "bảo gội không gội" nên cố giữ không gội đầu. Người vợ giận dữ lên đến mỗi đầu óc mê muội, rôi tự mình đi gội đầu. Đến đêm, tên hàng xóm đến giết ông Vương kết quả đã giết chết tên gian phụ. Sau khi ông Vương tĩnh lại, phát hiện người vợ đã bị giết bèn kinh hoàng hô hoán, xung quanh hàng xóm, mọi người đều không biết lí do của nó liền bắt ông Vương giải đến quan phủ. Quan phủ cho là do Vương giết, đã tra khảo rất nghiêm. Vương không thể tự bào chữa được bị kết thành tội, sẽ đem đi chém. Vương đã khóc lóc và nói : "Tôi chết thì cũng thôi, nhưng quái ảnh của Phí Hiếu Tiên tiếng tăm lừng lẫy mà trái lại cũng hỏng bét hết". Hai bên tả hữu liền đem những lời nói này tố đến Quận phủ, quận Phủ lệnh hoãn hành hình, triệu về để hỏi, Vương liền đem những lời của Phí Hiếu Tiên đều nói hết. Quận phủ hỏi : "Người hàng xóm của anh là ai ?" Vương đáp là Khang Thất. Quận phủ mới vở lẽ "một cối thóc giã được ba đấu gạo" tức là Khang Thất, liền nói với Vương : "Giết vợ anh nhất định là Khang Thất". Liền ra lệnh cho người bắt Khang Thất để tra hỏi và quy án, chân tướng của sự việc đã rõ ràng. Khang Thất giết người phải đền mạng, còn Vương thì vô tội và được thả ứng với lời "gặp sáng suốt thì sống”. Câu chuyện này thấy đăng tải trong sách "Liễu hoa châu nhân lục" của Cao Văn Hổ đời Tống. Nhưng tính tiểu thuyết rất mạnh của nó lại gây sự chú ý của người đời Thanh, sách "Uyên giám loại hàm" của Trương Anh biên soạn và "Tống nhân tiểu thuyết loại biên” của Dư Tẩu đều thu thập câu chuyện này. Trong câu chuyện này, Phí Hiếu Tiên tặng mấy câu vừa giống như lời sấm, lại vừa giống như lời kệ của đạo Phật, ông dùng phương pháp diễn đạt kiểu đố chữ, đem những việc cát hung trong cuộc hành trình của Vương để dặn dò, người nói thì rõ ràng, người nghe thì mơ màng. May mà Vương không phải là một người mơ hồ, khi gặp sự việc liền nhận ngay ra hàm ý lời dặn dò của Phí Hiếu Tiên, lần lượt lần này đến lần khác đã may mắn thoát nạn. Câu chuyện này thuộc ngôn ngữ của nhà tiểu thuyết, mức độ tin cậy của nó phần lớn có thể nghi hoặc, song nó lại nói lên một sự thật nhu sau : Thuật Quỹ Cách quái ảnh lưu truyền là nhờ thế lực của Phí Hiếu Tiên, còn Phí Hiếu Tiên được thuật Quỹ Cách quái ảnh mà nổi danh trong nước. "Dương Trừu Mã" quái ảnh Ở phía trước nhà của Dương Trừu Mã có một cây to, một hôm, ông viết chữ lên mảnh giấy dán lên cửa khuyên răn người , qua đường "Ngày mai vào lúc giữa giờ Ngọ và giờ Mùi, người qua đường không được đi qua chỗ này, nếu đi qua sẽ gặp tai họa". Mọi người đều bảo nhau đừng đi qua. Ngày hôm sau lúc giữa giờ Ngọ và giờ Mùi, cây to tự đổ xuống chắn hết cả giữa đường phố, nhưng nhà cửa hai bên phố đều không hề hư hỏng. Dương Trừu Mã thích tạo ra những trò ác, có người tố cáo ông có thuật yêu mê hoặc mọi người, theo pháp luật phải khép vào tội chết, thế là bắt Dương Trừu Mã tống vào ngục giam. Cai ngục rất sợ phép thuật của Dương Trừu Mã, không dám thi hành hình phạt, nhưng lại sợ ông ta trốn đi mất, mình chịu không nổi tội. Dương Trừu Mã biết ý bèn nói với cai ngục : "Không việc gì phải sợ tôi, tôi còn có thể mắc lại tội, mệnh số đã định tôi vui vẻ chịu hình phạt. Mấy ngày trước tôi đã làm hai việc phạm luật pháp, lẽ ra phải chịu tội. Qua đi hai lần nạn ách này, tôi mới có thể tu thành chính đạo". Tư lí Dương Thầm đêm thẩm tra lại án này, Dương Trừu Mã nói : "Hiền thúc có thư đến phải không ? Thực tế đáng tiếc", Thầm không thèm để ý, không ngờ vừa bước ra khỏi cửa liền có người nhà đến báo tin ông chú mất. Qua mấy ngày Dương Trừu Mã lại nói với Dương Thẩm : "Sang năm nhà chú cò việc vui, bốn người có tên là Vọng và chú". Năm thứ hai bốn người anh em của Dương Thầm là Tòng Vọng, Dân Vọng, Tùng Vọng và Thái Vọng dự thi đều trúng tuyển. Dương Thầm có một cô con gái, tuổi khoảng 15, 16 tuổi bỗng nhiên bị bệnh, tìm thuốc chữa trị đều vô hiệu. Dương Trừu Mã thư phù chữa cho nó, đột nhiên khỏi bệnh. Những năm cuối đời Dương Trừu Mã đến cư trú ở Thành Đô, người gõ cửa để xin hỏi đông như chợ. Nhưng có người hỏi về mệnh thì buột miệng trả lời ngay hoặc làm các bài phú, làm thơ, trường ca tùy ý viết nên. Gặp khi có thi cử thì trước tiên làm một bài thơ biểu thị tên người, nhưng lời lẽ không rõ ràng, không thể đoán được. Đến khi yết bảng, thì tên họ của người thủ khoa tất nhiên sẽ quanh co xem ở trong thơ. Có khi đem toàn bộ tên họ trong bảng dự cáo trước đều viết ra và phong kín lại, tên người phần nhiều đều thiếu thiên bàng (tức thiếu một phần chữ Hán về một phía nào đó), không thành toàn chủ, đợi sau khi yết bảng mới biểu thị người, tất cả những người trúng tuyển tên theo thứ tự trước sau không có ai là không hợp. Sách "Di kiên chí" của Hồng Mại quyển Nhâm, điều "Dương Trừu Mã quái ảnh" khi nói đến thuật Quỹ Cách quái ảnh của Dương Trừu Mã đã viết như sau : "Dương Trừu Mã quái tượng nói về sinh tử cát hung của người, sang hèn được xác định thường thường như thần". Theo truyền thuyết Phí Hiếu Tiên đã từng viết sách "Phân định thư" thuật lại thuật Quỹ Cách quái ảnh, con cháu Đại tướng Địch Thanh nhà Tống được sách này, rất giỏi thuật Quỷ Cách quái ảnh, đã từng chiêm bốc ở đô thị. Thuật Quỹ Cách quái ảnh bắt nguồn từ những năm Thời Bắc Tống Nhân tống Chí Hòa, thịnh hành rất nhanh chóng. Cho nên ở Bắc Tống, thuật này được giữ với hình thức sơ khai nhất của nó, tức là Thuật sĩ trước tiên phải căn cứ vào năm tháng ngày giờ sinh của người đến xin xem để suy đoán, sau đó vẽ tranh biểu thị điềm báo và phối hợp thơ để thuyết minh, tranh họa và thơ phối hợp làm ra, người bình thường đều hoàn toàn khó hiểu, phần nhiều là sau sự việc đã qua mới hiểu ra ứng nghiệm của nó. Nhưng đến thời Nam Tống, thuật Quỹ Cách quái ảnh đã biến dạng đi, Dương Trừu Mã quái ảnh dẫn ra ở trên đã gần với Tả đạo Vu thuật, cho nên đương thời đã có người tố cáo Dương Trừu Mã dùng "Tả đạo mê hoặc nhiều nguờì", Dương Trừu Mã vì vậy bị khiển trách. Ngoài ra có một số thuật sĩ giở trò thuật Quỹ Cách quái ảnh, tuy có khác với Dương Trừu Mã, nhưng so với thuật Quỹ Cách quái ảnh của Phí Hiếu Tiên thời Bắc Tống truyền lại lại đi quá xa, khâu quan trọng là vẽ tranh đế biểu thị điềm báo đều đã bỏ, cái giữ lại phần lớn đều chỉ có thơ mà thôi, lời thơ hơi tương tự với thơ sấm. THUẬT SẤM VĨ Thuật Sắm Vĩ có thể phân thành hai loại bằng văn tự và tranh vẽ. Sấm biểu thị bằng tranh vẽ trong sách "Sấm thư" đã từng có ghi chép, còn sấm bằng văn tự, do việc ghi chép và lưu truyền thuận tiện và những, câu chuyện nó hàm chứa quanh co kích động lòng người, nên trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc cổ đại còn ghi lại được rất nhiều. Theo hình thức biểu hiện của nó, loại sấm này lại có thể phân thành thơ sấm và lời sấm. Sấm ngữ (Lời sấm) Theo truyền lại, lời này là do Công Tôn Chi thời Chiến quốc viết. Sách "Triệu thế gia" có ghi "Công Tôn Chi viết và dấu nó đi, Tần sấm do đó xuất hiện". Sau khi Tần Doanh Chính tiêu diệt 6 nước xây dựng nên vương triều nhà Tần, câu sấm ngữ này mới xuất hiện. Năm thứ 7 sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất (tức Tần Thủy Hoàng năm thứ 32) phía đông đến tận Kiệt Thạch, sai Lô Sinh người nước Yên đi tìm thuật trường sinh bắt lão của Tiên nhân. Lô Sinh đã vượt biển đến ba đảo Bồng Lai tìm thuật trường sinh, khi trở về Kinh đã dâng lên tranh vẽ và lời ghi rằng : "Vong Tần giả, Hồ dã". Tần Thủy Hoảng tự cho rằng chữ Hồ nói trong lời sấm là chỉ người Hồ ở phương Bắc, liền sai Đại tướng Mông Điềm xuất 30 vạn quân Bắc phạt Hung Nô để diệt họa diệt Tần, Mông Điềm xua đuổi bọn Hung Nô ở phía Bắc đã thu phục được vùng đất lớn đã mất, dàn binh ở nơi biên, cương hẻo lánh, đồng thời căn cứ mệnh lệnh của Tần Thủy Hoàng xây dựng Trường Thành dùng để ngăn chặn người Hồ tiến về xâm lược phía Nam. Tần Thủy Hoàng bố trí quân lính quan trọng tại phương Bắc hơn 10 năm để phòng họa diệt Tần. Song, ông ta đâu biết được chữ "Hồ” nói trong lời sấm lại là chỉ người khác, có người khiên cưỡng gán ghép là Tần Nhị thế Hồ Hợi, Tan Thủy Hoàng đã dốc hết quốc lực, tài lực, nhân lực phòng bị Hung Nô đã tạo nên cục diện quốc lực trống rỗng, dân oán rầm lên. Khi truyền đến Nhị thế Hồ Hợi, nhân dân không thể chịu đựng nổi được nữa, Trần Thắng và Ngô Quảng trước tiên đã giương cao gậy gộc vùng lên, Lưu Bang và Hạng Võ cùng kế tiếp nhau dấy binh đánh Tần, triều đình nhà Tần đã bị diệt vong từ trông tay của Hồ Hợi. Do sự trùng khớp của sự kiện lịch sử này, nên cấu sấm ngữ "Vong Tần giả, Hồ dã" này đã lưu truyền thiên cổ, đã trở thành lời sấm tương đối sớm trong tài liệu lịch sử cổ đại của Trung Quốc, có thể thấy trong các sử truyện và được thực tế nghiệm chứng. Trong sách "Mặc kí" của Tống Vương có chép một câu chuyện như sau : Tống Triết Tông, Thiệu Thánh năm thứ 2, Trạng nguyên Thời Ngạn cùng với em đi nhận chức Quan phụ trách vận chuyển lương ở Giang Đông. Trên đường đi nhận nhiệm vụ, ngồi thuyền chạy trên sông lớn, gặp gió lớn làm trở ngại, đậu thuyền ở một cảng nhỏ dưới chân núi. Thời Ngạn bỗng bột phát muốn đi dạo chơi, để lại những người tùy tùng ở lại trên thuyền, chỉ cùng với hai ba người là cử nhân lên núi đi dạo. Thế núi rất hiểm và cao, họ phải gạt những bụi gai và cỏ rậm sang hai bên để đi một cách chậm chạp. Khi sang sau núi bỗng nhiên nhìn thấy trên đỉnh núi có một ngôi chùa nhỏ. Một vị lão tăng đang vững bước xuống núi đến đón, gặp Thời Ngạn chào hỏi và nói : "Người đến đây phải chăng là Thời trạng nguyên?“ Thời Ngạn vô cùng kinh ngạc : Tôi rõ ràng không đem bất cứ một người tùy tùng nào, hơn nữa chùa lại không nằm ở vị trí tiếp giáp các nẻo đường, làm sao Lão tăng biết tôi đến đây ? Lão tăng thấy vẻ nghi học liền giải thích lí do : "Trên tường sau điện thờ Phật của chùa có THUẬT SẤM VĨ Thuật Sắm Vĩ có thể phân thành hai loại bằng văn tự và tranh vẽ. Sấm biểu thị bằng tranh vẽ trong sách "Sấm thư" đã từng có ghi chép, còn sấm bằng văn tự, do việc ghi chép và lưu truyền thuận tiện và những, câu chuyện nó hàm chứa quanh co kích động lòng người, nên trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc cổ đại còn ghi lại được rất nhiều. Theo hình thức biểu hiện của nó, loại sấm này lại có thể phân thành thơ sấm và lời sấm. Sấm ngữ (Lời sấm) Theo truyền lại, lời này là do Công Tôn Chi thời Chiến quốc viết. Sách "Triệu thế gia" có ghi "Công Tôn Chi viết và dấu nó đi, Tần sấm do đó xuất hiện". Sau khi Tần Doanh Chính tiêu diệt 6 nước xây dựng nên vương triều nhà Tần, câu sấm ngữ này mới xuất hiện. Năm thứ 7 sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất (tức Tần Thủy Hoàng năm thứ 32) phía đông đến tận Kiệt Thạch, sai Lô Sinh người nước Yên đi tìm thuật trường sinh bắt lão của Tiên nhân. Lô Sinh đã vượt biển đến ba đảo Bồng Lai tìm thuật trường sinh, khi trở về Kinh đã dâng lên tranh vẽ và lời ghi rằng : "Vong Tần giả, Hồ dã". Tần Thủy Hoảng tự cho rằng chữ Hồ nói trong lời sấm là chỉ người Hồ ở phương Bắc, liền sai Đại tướng Mông Điềm xuất 30 vạn quân Bắc phạt Hung Nô để diệt họa diệt Tần, Mông Điềm xua đuổi bọn Hung Nô ở phía Bắc đã thu phục được vùng đất lớn đã mất, dàn binh ở nơi biên, cương hẻo lánh, đồng thời căn cứ mệnh lệnh của Tần Thủy Hoàng xây dựng Trường Thành dùng để ngăn chặn người Hồ tiến về xâm lược phía Nam. Tần Thủy Hoàng bố trí quân lính quan trọng tại phương Bắc hơn 10 năm để phòng họa diệt Tần. Song, ông ta đâu biết được chữ "Hồ” nói trong lời sấm lại là chỉ người khác, có người khiên cưỡng gán ghép là Tần Nhị thế Hồ Hợi, Tan Thủy Hoàng đã dốc hết quốc lực, tài lực, nhân lực phòng bị Hung Nô đã tạo nên cục diện quốc lực trống rỗng, dân oán rầm lên. Khi truyền đến Nhị thế Hồ Hợi, nhân dân không thể chịu đựng nổi được nữa, Trần Thắng và Ngô Quảng trước tiên đã giương cao gậy gộc vùng lên, Lưu Bang và Hạng Võ cùng kế tiếp nhau dấy binh đánh Tần, triều đình nhà Tần đã bị diệt vong từ trông tay của Hồ Hợi. Do sự trùng khớp của sự kiện lịch sử này, nên cấu sấm ngữ "Vong Tần giả, Hồ dã" này đã lưu truyền thiên cổ, đã trở thành lời sấm tương đối sớm trong tài liệu lịch sử cổ đại của Trung Quốc, có thể thấy trong các sử truyện và được thực tế nghiệm chứng. Trong sách "Mặc kí" của Tống Vương có chép một câu chuyện như sau : Tống Triết Tông, Thiệu Thánh năm thứ 2, Trạng nguyên Thời Ngạn cùng với em đi nhận chức Quan phụ trách vận chuyển lương ở Giang Đông. Trên đường đi nhận nhiệm vụ, ngồi thuyền chạy trên sông lớn, gặp gió lớn làm trở ngại, đậu thuyền ở một cảng nhỏ dưới chân núi. Thời Ngạn bỗng bột phát muốn đi dạo chơi, để lại những người tùy tùng ở lại trên thuyền, chỉ cùng với hai ba người là cử nhân lên núi đi dạo. Thế núi rất hiểm và cao, họ phải gạt những bụi gai và cỏ rậm sang hai bên để đi một cách chậm chạp. Khi sang sau núi bỗng nhiên nhìn thấy trên đỉnh núi có một ngôi chùa nhỏ. Một vị lão tăng đang vững bước xuống núi đến đón, gặp Thời Ngạn chào hỏi và nói : "Người đến đây phải chăng là Thời trạng nguyên?“ Thời Ngạn vô cùng kinh ngạc : Tôi rõ ràng không đem bất cứ một người tùy tùng nào, hơn nữa chùa lại không nằm ở vị trí tiếp giáp các nẻo đường, làm sao Lão tăng biết tôi đến đây ? Lão tăng thấy vẻ nghi học liền giải thích lí do : "Trên tường sau điện thờ Phật của chùa có người viết hai hàng chữ nhỏ, nói "ngày tháng năm nào, Thời trạng nguyên sẽ đến chùa". Tôi đã thuộc nó đã từ rất nhiều năm rồi. Hôm nay chính là ngày tháng mà ở trên đó đã ghi, tôi từ sáng sớm đã dậy và đợi đón, đợi Ngài thời gian đã từ rất lâu rồi". Thời Ngạn đành phải nói thật, Nhưng trong lòng vẫn còn không tin lắm. Mọi người đều kéo nhau đến sau điện, quét hết bụi đất bám trên tường, lộ ra hai hàng chữ nhỏ đúng như lời nhà sư nói. Bên cạnh lại còn một hàng chữ nhỏ khác ghi năm tháng trên tường, khi suy đoán lại là những việc lúc Thời Ngạn còn sống. Mọi người tò mò quét sạch hết mọi bụi đất bám trên tường, lại có câu "Từ đây trở đi, 13 năm nữa, chức quan cuối cùng đạt hàm Tứ phẩm". Thời Ngạn ghi chép lại và từ biệt Lão tăng đi về, kể lại mọi việc kì lạ vừa trải qua với mọi người trên thuyền. Tống Huy Tông, Đại Quan năm đầu, Thời Ngạn mất đang ở chức Thượng thư Bộ Lại, chức quan cuối cùng ở hàm Tứ phẩm, cách thời gian xem chữ đề vừa đúng 13 năm. Câu "ngày tháng năm nào, Thời trạng nguyên đến chùa”, và "Từ đây trở đi, 13 năm nữa, chức quan cuối cùng đạt hàm Tứ phẩm" trong câu chuyện đều là lời sấm về Thời Ngạn, câu trước nói thời gian Thời Ngạn đến núi nhở trên đỉnh núi, còn câu sau lại nói vẽ chức quan và năm mất sau khi đến ngôi chùa, về sau đều ứng nghiệm. Nhiều lời sấm đều khắc trong minh văn, đề cập đến nhiều mặt rất rộng, có thể nói việc lớn phải đến long trời lở đất, quốc vận thịnh suy, việc nhỏ thì đến các việc như sinh, lão, bệnh, tử, mộ huyệt cải táng, không có việc gì không có. Theo sách "Tuyên thất chí" của Trương Đọc thời nhà Đường ghi chép : Thời Đường Cao Tông, Thượng Nguyên năm đầu, một người trồng cây thuốc thuộc huyện Cốc thành, Lạc Xuyên lên núi hái thuốc, nhặt được một tấm đã có khắc minh văn liền dâng cho Huyện lệnh là Phàn Văn. Huyện lệnh lại báo lên Quan châu, Quan châu không đám giấu kín lại tâu trình lên Cao Tông, Cao Tông lệnh thu hồi về Nội phủ. Tấm minh văn này vốn là do Quán Thiên sư thời Hậu Ngụy Bắc triều khắc, ông tu luyện đắc đạo, thường thường khắc đá ghi lại. Tấm đá ghi minh văn này, chữ rất nhiều, phần nhiều đều sâu sắc khó giải, người ta chỉ nhận ra một cách mang máng các câu "Mộc tử đương Thiên hạ", "chỉ qua long", "Lí đại đại bất di tông", "Trung đỉnh hiển chân dung", "Cơ thiên vạn tuế". Những câu này đều là lời sấm dự đoán các việc thời Đường, "Mộc tử đương thiên hạ” là nói họ Lí (theo chữ Hán chữ Mộc hợp với chữ Tử thành chữ Lí) thừa mệnh Trời mà chiếm được Thiên hạ ; "Chỉ qua long " là nói họ Võ làm Thiên tử, Chỉ, qua hợp lại là chữ Võ (họ Võ) sẽ làm rạng rỡ họ Lí trong thiên hạ ; "Trung đỉnh hiển chân dung" là nói họ Võ bị diệt và Đăng Vũ của công chúa Thái Bình bị tiễu trừ, Duệ Tông Lí Đán chính thức lên Đế vị (ngôi vua) ; "Cơ thiên vạn tuế" là nói Đường Huyền Tông, Lí Long Cở thời gian trị vì thiên hạ lâu nhất. Những lời minh văn này nói từ khi họ Lí xây dựng triều nhà Đường cho mãi đến Đường Huyền Tông trải qua 8 đời vua tổng cộng 140 năm, từng câu đều ứng nghiệm. Hồi thứ nhất "Hồng Thái úy theo nhầm ma quỷ" trong "Truyện Thủy Hử" đã miêu tả một lời sấm như thế này : Vào năm Tống Nhân Tông, Thái úy Hồng Tín vâng chỉ đi đến núi Long Hổ, Tín châu, Giang Tây mời Trương thiên sư cầu khấn trừ ôn dịch. Thái úy Hồng Tín được trụ trì chân nhân cùng dẫn đi du lãm trên núi, nhìn thấy một điện thờ "trên của dùng một chiếc khóa còng to để khóa, đan chéo nhau ở trên dán hàng chục dải giấy niêm phong, trên các giấy niêm phong lại dùng dấu son xếp chồng chất lên nhau, trước hiên có một chiếc biển màu đỏ son sơn chữ vàng, trên viết 4 chữ "Phục Ma chi điện" (Điện Phục Ma). Hồng Thái úy nhìn lên, không nghe lời khuyên can, khăng khăng muốn mở ra xem một tí. Người trụ trì không biết làm sao được đành phải mở khóa, bên trong điện tối om không nhìn thấy gì cả. Thái uý bèn ra lệnh giơ đuốc, nhìn thấy ở giữa có một bia đá cao đến năm sáu thước, phía dưới là bệ rùa đá, đã lún xuống đất đến quá nửa. Mặt trước của bia chữ như Rồng bay Phượng múa. Kí hiệu của sách Trời, mọi người đều không hiểu ; Mặt sau bia đực bốn chữ lớn viết kiểu chân thư (lối viết chữ chân phương). Hồng Tín xem nó vô cùng mừng rỡ, bèn nói với vị trụ trì : "Các vị ngăn cản tôi, làm sao lại mấy trăm năm trước đã ghi chữ Họ của tôi ở đây ? "Ngộ Hồng nhi khai” (Gặp họ Hồng thì mở), rõ ràng là bảo tôi mở. Xem này sao lại ngại ! Tôi nghĩ. Ma vương này, đều chỉ ở dưới đáy bia. Các vị và tôi gọi thêm máy người đốt lò, đem cuốc xẻng đến đào quật lên. Hồng Tín bất chấp mọi người khuyên can và ra lệnh đem bia rùa đá và tấm đá xanh nằm dưới rùa đá đều quật lên tất cả, bỗng nhiên nghe một tiếng nổ vang, một luồng khí đen từ bên trong phụt ra xông lên trời biến thành trên dưới một trăm tia sáng vàng óng tản ra bốn phía và đi khỏi. Một trăm linh tám ma quân trấn thủ trong Địa phủ vì thế chạy thoát, về sau đều trở thành thủ lình của nghĩa quân Lương sơn. "Ngộ Hồng nhi khai” viết trên bia là câu lời sấm rõ ràng dễ hiểu, dự đoán nói "Điện Phục Ma" khi nào, hoàn cảnh nào được mở ra. Hồng Tín lấy thế lớn át người tùy ý để làm, làm cho lời sấm đó được ứng nghiệm. Giá như Hồng Tín là một người quá cẩn thận, nhát gan ngại việc thì việc này lại sẽ bàn theo hướng khác rồi. Có bốn phương pháp chủ yếu đế biểu hiện lời sấm. Một là phương pháp triết tự "thiên lí thảo, hà thanh thanh, thập nhật bốc, bắt đắc sinh" và "bát mẫu tứ hệ, thập nhị vĩ kì" đều là thế. Hai là phương pháp ẩn ngữ. Gọi là ẩn ngữ chính là không miêu tả trực tiếp ý gốc, mà là mượn các từ ngữ trùng nhau nhưng ý khác để nói. Phương pháp này người xưa gọi la "sưu từ" (từ ẩn). Lời sấm dùng ẩn ngữ để biểu hiện rất nhiều, như "hoàng ngưu bạch phúc, ngũ thù đương phúc” phân biệt dụng "hoàng ngưu", "bạch phúc", "ngũ thù" để ẩn chi Vương Mãng, Công Tôn Thuật và Lưu Hán. "Mã tử nhập thạch thất, tam thiên lục bách nhật” cũng không phải là trực tiếp nói ý gốc mà là dùng "Mã tử nhập thạch thất" để nói Cao Dương sẽ cướp Ngụy lập Tề, dùng "tam thiên lục bách nhật" để chỉ mười năm. Ba là lợi dụng tính đa dạng của phương pháp diễn đạt Hán ngữ và đặc tính dễ sản sinh ý khác để che giấu chân thực và ngụ ý, "Vong Tần giả, Hồ dã" và “Kiên nhập ngũ tướng sơn trường đắc", hai lời sấm này đều là như thế. Câu trước đã lợi dụng tính không xác định của chữ "Hồ” mà thực tế chỉ đưa người ta, bao gồm cả Tần Thủy Hoàng đã làm cho sáu nước phải đến xưng là bầy tôi đều cùng đi tới một nơi sai, đã sai lầm cho rằng người Hồ ở phương Bắc là mối đe dọa lớn nhất của triều Tần, mà đem chữ Hồ thực tế chỉ lại che giấu đi. Còn câu sau lợi dụng đặc điểm hài âm (đọc âm giống nhau) của chữ Hán lấy "cháng" (trường) thay "Cháng" (Trường), nên Phù Kiên và các bề tôi của ông đều không hiểu ý của nó, kết quả là Phù Kiên đã tiến vào núi Ngũ Tướng bị Diêu Trường bắt sống. Bốn là nói (viết) không văn vẻ, ngụ ý phù hợp với ý của mặt chữ. Bốn phương pháp này thường là sau khi nó được ứng nghiệm thì người ta mới nhận biết được hàm nghĩa chân chính của nó, dùng lời sấm của phương pháp sau, thì thường là khi lời sấm sắp ứng nghiệm đến nơi, người ta mới phát hiện ra nó. Xét về trạng thái thời gian thì ba loại trước thuộc thời tương lai, loại sau thuộc thời đang tiếp diễn. Đấy là một phương pháp đơn giản rõ ràng để phân biệt lời sấm thuộc loại nào : Một là người tạo ra lời sấm thì thần bí khôn lường, mà thường thường không biết họ, thậm chí cả tên là ai. Người ta thường khi đã phát hiện ra lời sấm vẫn còn chưa biết lời sấm đó đến từ đâu, lời sấm ghi trên tường ở sau điện thờ Phật trên chùa nhỏ chính là như thế. Có lời sấm tuy biết được từ đâu đến, nhưng không biết người tạo ra ban đầu nhất là ai, nhiều câu dân dao dẫn ra ở trên chính là như vậy. Có một số lời sấm, người ta về sau tuy biết được họ tên người làm ra, nhưng về sự tích của nó lại không được hiểu lắm. Hai là tính bí ẩn của nội dung lời sấm ngụ ý. Có một số câu chữ của lời sấm tuy đã hiện rõ, thậm chí đã lưu truyền, nhưng đương thời người ta không biết nó là lời sấm, đương nhiên cũng sẽ không thể biết tường tận nội dung của nó. Ba là tính bí ẩn lưu truyền lời sấm. Việc lưu truyền lời sấm chủ yếu có hai con đường : minh văn và truyền thuyết. Minh văn phần nhiều là khắc ở trên gạch đá, mà thông thường là chôn ở dưới đất, xây gắn vào vách tường, giấu vào những nơi hẻo lánh, đến lúc lời sấm ứng nghiệm, minh văn sẽ tự nhiên được người ta phát hiện và nhận biết. Truyền thuyết khác với minh văn, nó là một phương thức lưu truyền có tính hiển hiện (rõ ràng), nhưng người ta chỉ biết lời của nó mà không biết nó là do ai truyền, xét từ ý nghĩa này, con đường lưu truyền này cũng có tính bí ẩn như thế, là nguyên nhân không phải dựa vào giấy mực để lưu truyền lời sấm. Thơ sấm Nhà thở thời Đường Lưu Hi Di, tự là Đình Chi, đậu Tiến si vào thời Đường Cao Tông năm đầu tiên, Lưu Hi Di ít có tài văn chương, thích làm thể thơ cung đình, lời lẽ buồn khổ, không được người đương thời coi trọng, giỏi đánh đàn tì bà. Ông sáng tác bài thơ "Đại bi bạch đầu ông" (Ông già buồn) có câu "năm nay hoa tàn màu sắc đổi. Sang năm hoa nở có ai hay”, làm xong ông tự hối nói : "Tôi làm câu này là thơ sấm, cùng với bài thơ "Bạch thủ" (đầu bạc) của Thạch Sùng, xem ra không có gì khác". Do đó lại làm một mạch "Năm năm tháng tháng hoa đều giống. Tháng tháng năm năm người đã khác”. (Niên niên tuế tuế hoa tương tự, Tuế tuế niên niên nhân bắt đồng). Một lát sau, Lưu Hi Di lại than thở : "Câu này hầu như vẫn còn giống thơ sấm, Con người sống chết có số mệnh, chẳng lẽ có thể vì vậy mà thay đổi ư ? bèn đem cả hai câu đều viết vào trong bài thơ. Ai biết được bài thơ này viết xong chưa đầy một năm, Lưu Hi Di lại bị kẻ gian giết chết. Người ta bình luận rằng cái chết của Lưu Hi Di ứng nghiệm sấm của lời thơ "Sang năm hoa nở có ai hay" và "tháng tháng năm năm người đã khác".Nhà viết lời từ nổi tiếng đời Bắc Tống là Tần Quang cùng với Hoàng Đình Kiên, Trương Lỗi và Hoảng Bổ Chi được người đời sau gọi là "bốn học sĩ của Tô môn”. Theo truyền thuyết, Ông đã từng làm bài từ "Hảo sự cận" (Việc tốt đến gần) trong mơ, trong bài từ có câu 'Say nằm dưới bóng song mây" (cây song mây) lại trở thành thơ sấm về cái chết của ông tai Đằng Châu [Chữ đằng là cây song mây cùng trùng với chữ Đằng là Đằng Châu .ND ] Xoay quanh bài từ này của ông, các văn nhân mặc khách đương thời và sau này đã đưa ra nhiều chuyện vui. Lang Anh thời Minh, trong sách "Thất tu loại cảo" quyển 30 đã ghi như sau : Tần Quan, tự là Thiếu Du, hiệu Thái Hư là người Cao Bưu vùng sông Hoài, danh tiếng ngang hàng với Tô, Hoàng. Thưởng thức trong mơ đã làm bài từ "Hảo sự cận” rằng : "Núi gặp sương, mưa lại thêm hoa, hoa phủ núi một màu xuân sắc. Đi tới chỗ khe sâu nho nhỏ, có trăm ngàn hoàng anh ríu rít. Trước mắt mây cuộn thành rồng rắn, thướt tha ôm lấy bầu trời xanh trong. Say nằm dưới bóng song mây, không hề hay biết phương trời Bắc Nam”. Sau đó vì giáng chức bị điều đến Đằng Châu, nên cuối cùng chết ở Đằng Châu. Bài từ này phải chăng là lời sấm ? sống cùng thời với Thiếu Du có Hạ Trù, tự là Phươnng Hồi đã làm một bài từ “Thanh Ngọc án" để điếu ông : "Sóng dâng không vượt khỏi đê ngăn, nhưng cũng quét cả bụi trần, tiếng thơm. Những năm tháng đẹp cùng ai ? Lầu nguyệt vườn hoa rèm the cửa trúc, duy chỉ có mùa xuân biết đó. Mây xanh từ từ giăng bủa chiều hôm, bút hoa để lại vài câu "đoạn trường“. Thử hỏi nhân sầu biết mấy ? Khắp thành gió cuốn, mai vàng thời mưa". Sơn Cốc có mấy vần thơ "Thiếu Du say nằm dưới song mây, giải sầu cùng ai nâng một chén. Xưa nay chỉ có Hạ Phương Hồi, hiểu ra được nỗi đoạn trường Giang Nam", cũng không hơn được cảm khái của nó. Vì nhớ lại hai bài của Hạ và Hoàng, viết nó lại để thấy Thiếu Du vốn lại mất vào năm bị giáng chức. Còn Sơn Cốc gặp nguy chết ở cổng lầu thành, thật hiểm ác thay ! Hỡi ôi ! ngày ngâm vịnh thơ, ai biết được ông lại là người kế sau Thiếu Du ? Tần Quan đậu Tiến sĩ vào năm Tống Thần Tông, Nguyên Phong thứ 8 (Năm 1085), đến năm Tống Triết Tông, Nguyên Hựu năm đầu được Tô Thức tiến cử, được phong Thái học Bác sĩ kiêm chức quan biên tu Viện Quốc sử. Năm đầu Triết Tông Thiệu Thánh, ông bị bài xích của Tân Đảng Chương, Tăng Chư Nhân, liên tiếp bị giáng chức cuối cùng chết ở Đằng Châu. Câu thơ "Say nằm dưới bóng song mây’ trong bài từ "Hảo sự cận", ông làm trong mơ, lại trở thành lời sấm ông chết ở Đằng Châu. Đương thời các nhà thơ Hạ Phương Hồi và Hoàng Đình Kiên đều trong lời điếu của họ đã nói lên ý như thế, Câu "Không ai thức tĩnh mộng Đằng Châu" trong thơ của Lưu Thái đời Minh (tự là Sĩ hanh, hiệu Cúc Trang), cũng điểm tới điểm này ; Lang Anh càng dứt khoát hơn đi thẳng vào đề là "thơ sấm của Tần công". Ông không những cho rằng câu "Say nằm dưới bóng song mây, chẳng hề hay biết phương trời Bắc nam" của Tần Quan là thơ sấm, mà câu "Xưa nay chỉ có Hạ Phương Hồi, hiểu ra được nỗi đoạn truờng Giang Nam" của Hoàng Đình Kiên cũng là thơ sấm. Bởi vì Hoàng Đình Kiên về sau cũng gặp ách vận "chết ở cổng lầu thành" cũng không thể xót thương thêm Tần Quan được nữa. Hai đời Đường, Tống là thời đại cực thịnh của thơ ca Trung Quốc, cũng là thời đại thịnh hành thơ sấm. Theo ghi chép, cháu của Hàn Dụ nhà văn học nổi tiếng Thời Trung Đường là Hàn Tương Tử, tự nhiên phóng khoáng không giàng buộc nổi, trông thấy sách là vứt, thấy rượu là uống đến say, đã say thì lại cất cao giọng hát. Hàn Dụ thấy nó đùa giỡn với đời như thế, đã từng dạy nó : "Chẳng lẽ cháu không biết ta sinh ra đã cô đơn và khổ sở, không có một mảnh ruộng vườn để về ư ? về sau quyết tâm vươn lên để tự cường mới có được quan tước và bổng lộc này, trong nhà mới hơi được đầy đủ. Đến nay vẫn kiên trì đọc sách học tập, để không quên nỗi khổ năm xưa. Cháu đường đường một đấng nam nhi, thân dài bảy thước, một câu trong sách đều không đọc thì tương lai làm sao an thân lập mệnh được ? Cháu cần phải suy nghĩ kĩ càng nhé”. Hàn Tương Tử nói có thể làm thơ, Hàn Dụ bèn lệnh viết thơ để thử xem, ai ngờ Hàn Tương Tử qua loa chẳng suy nghĩ lấy bút để viết, ngoáy một cái đã xong bài thơ đó là : Thanh sơn vân thủy quật, Thử địa thị ngô gia. Hậu dạ lưu quỳnh dịch, Lăng thần tán giáng hà. Cầm đàn bích ngọc điệu, Lô dưỡng bạch chu sa. Giải tạo thoan tuần tửu, Năng khái khoảnh khắc hoa. Hữu nhân năng học ngã, Cộng đồng khán tiên ba. Dịch ý : Núi biếc, mây, nước, động, Nơi ấy là quê tôi. Nửa đêm tuôn nước quỳnh, Sáng sớm tỏa ráng hồng. Tì bà vang khúc ngọc, Lò chứa chu sa trắng. Giải độc khi rượu say, Làm nở hoa tưc khắc. Có người đến học tôi, Cùng xem hoa Tiên nở. Hàn Dụ cho bài thơ này đều là những lời sáo rỗng. Hàn Tương Tử để tỏ sức học của mình đã trổ tài trước mặt mọi người, trong phút chốc nhận được hai đóa hoa đá, hình dáng như hoa mẫu đơn, mọi người thảy đều kinh ngạc. Hàn Dụ xem kỉ hai đóa hoa, thấy ở trên có hai dòng chữ vàng nhỏ : "Vân hoàn Tần lĩn gia hà tại. Tuyết ủng Lam Quan mã bắt tiền" (mây vờn Tần lĩn hỏi nhà đâu, Tuyết hãm Lam quan dừng chân ngựa). Hàn Dụ không giải ý của nó, Hàn Tương Tử nói : Còn lâu mới thấy ứng nghiệm", về sau, Hàn Dụ vì dâng tấu ”Luật Phật cốt biểu” đụng đến cơn giận của Đường Hiến Tông, nên bị giáng chức đi Triều châu. Trên đường đi gặp tuyết rơi, Hàn Tương Tử băng qua tuyết để đến, nói : "Còn nhớ chứ ?". Thế là liền hỏi tên vùng đất này mới biết là Lam Quan, mới tĩnh nhận ra lời thơ đó là sấm của việc bị giáng chức đi Triều Châu, cảm động mới vịnh bài thơ : "Nhất phong triều tấu Cửu trùng thiên, Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên. Bản vi Thánh minh trừ tệ sự, Cảm tương suy phối tích tàn niên. Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền. Tri nhữ viễn lai thâm hữu ý, Hảo thu ngộ cốt chướng giang biên". ("Một tờ tấu đến Cửu trùng, Triều Dương giáng chức, tám ngàn dặm xa. Vốn để Thánh quân trừ tệ hại. Nào hay, bắt đem sức yếu sánh tàn niên. Mây vờn Tầm lĩnh hỏi nhà đâu ? Tuyết hãm Lam Quan dừng chân ngựa. Cháu đến từ xa là có ý, Thu nắm xương tàn chốn giang biên"). Hai người cùng ngủ lại tại một Trạm, bàn luận thâu đêm. Lúc chia tay, quyết định bay lên, xung phá bầu trời thành một điểm xanh và tặng lại câu : "Ông đi không lâu sẽ trở về, chúc cả nhà mạnh khoẻ, nên quay về làm việc ở triều". Hàn Dụ làm Thứ sử ở Triều châu 2 năm, Đường Mục Tông lên ngôi, được triệu về Kinh, nhận chức "Quốc tử tế tửu" quay đi quay lại, lại quay về làm "Binh bộ thị lang", năm sau lại nhận chức "Lại bộ thị lang", quả nhiên ứng nghiệm với lời của Hàn Tương Tử. Sấm thơ còn có một loại nữa, chính là "đồng dao". Hiến đế thời Đông Hán năm đầu đã lưu truyền hai bài "đồng dao" như sau : "Thiên lí thảo, hà thanh thanh, thập nhật bốc, bất đắc sinh" ; "Bát cửu niên gian thủy dục suy, chí thập tam niên vô kiết di". Bài đồng dao đầu biểu hiện nỗi căm phần của dân chúng đương thời đối với tên gian thần Đồng Trác đã gây ra "quốc họa ương dân". Bài đồng đao thứ hai phản ánh tâm tư của người dân Kinh Châu đối với Lưu Biểu đương thời chiếm cứ Kinh châu. Loại lời sấm này vừa không nói đến sự thay đổi các triều đại, cũng không nói đến quốc vận thịnh suy, mà chỉ là dự đoán những điều phúc lộc thọ sinh, tốt xấu lành dữ mà người bình thường quan tâm nhất. Trong thơ sấm, tác phẩm nổi tiếng nhất nên thuộc về "Bài ca bánh nướng" của Lưu Bá Ôn, chúng ta sẽ bàn tới ở một chương riêng trong sách này. Tranh sấm Lô dưỡng bạch chu sa. Giải tạo thoan tuần tửu, Năng khái khoảnh khắc hoa. Hữu nhân năng học ngã, Cộng đồng khán tiên ba. Dịch ý : Núi biếc, mây, nước, động, Nơi ấy là quê tôi. Nửa đêm tuôn nước quỳnh, Sáng sớm tỏa ráng hồng. Tì bà vang khúc ngọc, Lò chứa chu sa trắng. Giải độc khi rượu say, Làm nở hoa tưc khắc. Có người đến học tôi, Cùng xem hoa Tiên nở. Hàn Dụ cho bài thơ này đều là những lời sáo rỗng. Hàn Tương Tử để tỏ sức học của mình đã trổ tài trước mặt mọi người, trong phút chốc nhận được hai đóa hoa đá, hình dáng như hoa mẫu đơn, mọi người thảy đều kinh ngạc. Hàn Dụ xem kỉ hai đóa hoa, thấy ở trên có hai dòng chữ vàng nhỏ : "Vân hoàn Tần lĩn gia hà tại. Tuyết ủng Lam Quan mã bắt tiền" (mây vờn Tần lĩn hỏi nhà đâu, Tuyết hãm Lam quan dừng chân ngựa). Hàn Dụ không giải ý của nó, Hàn Tương Tử nói : Còn lâu mới thấy ứng nghiệm", về sau, Hàn Dụ vì dâng tấu ”Luật Phật cốt biểu” đụng đến cơn giận của Đường Hiến Tông, nên bị giáng chức đi Triều châu. Trên đường đi gặp tuyết rơi, Hàn Tương Tử băng qua tuyết để đến, nói : "Còn nhớ chứ ?". Thế là liền hỏi tên vùng đất này mới biết là Lam Quan, mới tĩnh nhận ra lời thơ đó là sấm của việc bị giáng chức đi Triều Châu, cảm động mới vịnh bài thơ : "Nhất phong triều tấu Cửu trùng thiên, Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên. Bản vi Thánh minh trừ tệ sự, Cảm tương suy phối tích tàn niên. Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền. Tri nhữ viễn lai thâm hữu ý, Hảo thu ngộ cốt chướng giang biên". ("Một tờ tấu đến Cửu trùng, Triều Dương giáng chức, tám ngàn dặm xa. Vốn để Thánh quân trừ tệ hại. Nào hay, bắt đem sức yếu sánh tàn niên. Mây vờn Tầm lĩnh hỏi nhà đâu ? Tuyết hãm Lam Quan dừng chân ngựa. Cháu đến từ xa là có ý, Thu nắm xương tàn chốn giang biên"). Hai người cùng ngủ lại tại một Trạm, bàn luận thâu đêm. Lúc chia tay, quyết định bay lên, xung phá bầu trời thành một điểm xanh và tặng lại câu : "Ông đi không lâu sẽ trở về, chúc cả nhà mạnh khoẻ, nên quay về làm việc ở triều". Hàn Dụ làm Thứ sử ở Triều châu 2 năm, Đường Mục Tông lên ngôi, được triệu về Kinh, nhận chức "Quốc tử tế tửu" quay đi quay lại, lại quay về làm "Binh bộ thị lang", năm sau lại nhận chức "Lại bộ thị lang", quả nhiên ứng nghiệm với lời của Hàn Tương Tử. Sấm thơ còn có một loại nữa, chính là "đồng dao". Hiến đế thời Đông Hán năm đầu đã lưu truyền hai bài "đồng dao" như sau : "Thiên lí thảo, hà thanh thanh, thập nhật bốc, bất đắc sinh" ; "Bát cửu niên gian thủy dục suy, chí thập tam niên vô kiết di". Bài đồng dao đầu biểu hiện nỗi căm phần của dân chúng đương thời đối với tên gian thần Đồng Trác đã gây ra "quốc họa ương dân". Bài đồng đao thứ hai phản ánh tâm tư của người dân Kinh Châu đối với Lưu Biểu đương thời chiếm cứ Kinh châu. Loại lời sấm này vừa không nói đến sự thay đổi các triều đại, cũng không nói đến quốc vận thịnh suy, mà chỉ là dự đoán những điều phúc lộc thọ sinh, tốt xấu lành dữ mà người bình thường quan tâm nhất. Trong thơ sấm, tác phẩm nổi tiếng nhất nên thuộc về "Bài ca bánh nướng" của Lưu Bá Ôn, chúng ta sẽ bàn tới ở một chương riêng trong sách này. Tranh sấm Trong các trước tác điển hình về tranh sấm, đầu tiên nên suy tôn sách "Thôi bổi đồ", nó gồm 60 bước tranh tạo thành, dự đoán vận số các đời và sự kiện lớn từ Đường về sau. Các độc giả có hứng thú đối với những cái đó xin đọc chương "Tiết lộ Thiên cơ : Thiên Thời và quốc vận’’ của sách này. THUẬT BÀNG MÔN TÁ Ba bộ sách "bí tịch" này, lại được gọi là "Bàng môn tá thuật”. Đây là số sánh với các sách kinh điển mà những người hủ Nho học để nói. Nói một cách khách quan, nó là những sách tham khảo giúp cho người ta thành những việc lớn, lập được nghiệp lớn. Thuật kì môn Theo sử liệu ghi chép "Kì Môn độn giáp’’ thành sách vào thời Chu, về sau kinh qua các nhà quân sự, nhà chính trị và các nhân vật lớn của ba đạo : Nho, Đạo, Phật sửa chữa và bổ sung trở thành một học thuyết "đoạt thiên địa tạo hóa". "Đoạt thiên địa tạo hóa" tức là chi đạo người đời nắm vững quy luật tự nhiên, vận dụng các yếu tố thời gian, không gian, làm cho nó phát huy hết sức mạnh vô hình, tạo phúc cho người và cho mình. Sự phát minh "Kì Môn độn giáp", tương truyền là khi Hoàng đế đánh nhau lớn với Si Vưu tại Trác Lộc, không có cách nào để giành thắng được. Một đêm nằm mộng thấy Cửu thiên Huyền nữ giáng xuống, truyền cho ông thuật "Kì Môn độn giáp". Hoàng đế bèn để cho Phong Hậu, người thuộc hạ của mình, chế định ra "Kì Môn độn giáp’’. Sách "Kì Môn độn giáp" của Phong Hậu đặt ra có 4320 cục, mỗi cục lấy một thời thần (giờ) làm đơn vị. Một năm có 365 ngày. Một ngày có 12 giờ, một năm tổng cộng có 4320 giờ, tức 4320 cục. Về sau Phong Hậu lại phân thành hai độn âm dương, tức lấy Đông chỉ là dương sinh, Hạ chỉ là âm sinh, đơn giản hóa thành 1080 cục. Tạo thức dạng thành 3 tầng, để gọi là Tam tài. Tầng trên tượng trưng Trời đế xếp đặt 9 sao : Thiên Bồng, Thiên Nhậm, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Anh, Thiên Nhuế, Thiên Đỗ, Thiên Tâm. Tầng giữa tượng trưng cho Người để mở Bát môn : Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Hưu, Khai. Tầng dưới tượng trưng Đất để phân Bát quái : Cần, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài. Đến Thời Chu, Khương Tử Nha lại đơn giản hóa thêm đối với 1080 cục lần nữa. Đem một năm phân thành 8 tiết, dùng bát quái để đại diện. Mỗi tiết quản 3 khí, mỗi khí phân thành 3 hậu. Như vậy, một năm tính là 72 hậu, lập 72 cục. Thuật Kì Môn độn giáp, chính là dùng 9 Thiên can trong 10 Thiên can để tính toán, mà Thiên can thứ nhất là Giáp thì ẩn đi, cho nên goi là "Độn Giáp". Trong chín Thiên can lại phân "Tam kì” : Ất, Bính, Đinh và "Lục nghi” là Giáp Tí, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần. Tám phương vị phân thành Bát môn (Tám cửa), tức : Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Hưu, Khai. Khi "Tam Kì" gặp được cửa cát trong Bát môn thì gọi là "Kì môn". Thời Minh Kiến Văn đế, Nhạc Trì ở Tứ Xuyên cáo dụ Trình Tế thông hiểu thuật độn giáp, giỏi xem tinh tượng, thấy sao Hỏa thủ tâm, suy biết tháng 7 năm sau ở phương Bắc sẽ có nạn hỏa tai lớn nổi lên xâm phạm Kinh sư, cho rằng vương khí nhìn thấy ở phưưng Sóc (phương Bắc) thì phương Bắc khởi binh sẽ có họa giết vua chiếm ngôi. Năm sau, Yên Vương là Chu Đệ dẫn quân tiến xuống phía Nam, Minh Huệ đế là Chu Doãn Vấn chỉ làm vua được 4 năm, liền bị chú là Chu Đệ chiếm đoạt ngôi Hoàng đế, Kiến Văn đế phải chạy trốn đến Tương Dương, bị phát hiện hành tung, bảo Trình Tế vạch kế đi trốn khỏi thành, Trình Tế nói : "Hôm nay là ngày Giáp Ngọ, ngày mai Ất Mùi, Kì môn đều không lợi. Chỉ đến ngày kia là Bính Thân, môn là Sinh phương, lại đang thuộc "Đinh kì đáo môn", lại gặp Thiên Đức, quý nhân ở phương Tây bảo đảm không có việc gì cả. Trình Tế liền chọn ngày Bính Thân để vạch kế bảo đảm Kiến Văn đế chạy trốn khỏi Tương Dương (theo sách “Tục anh liệt truyện" hồi thứ 6 và hồi thứ 31). Trình Tế dùng thuật độn Giáp suy đoán ngày Bính Thân vừa đúng là ngày "Đinh kì" đến cửa Sinh môn người trốn ớ phía Tây, Tây thuộc Kim, Kim sinh Thủy, cho nên Trình Tế để cho Kiến Văn đế đi chiếc thuyền nhỏ từ cổng thành phía Tây chạy trốn. Do trong truyền thuyết, thuật độn Giáp từ lâu là dùng trong quân sự, cho nên người đời sau trong truyền thuyết, thuật độn Giáp thường thường cũng được dùng trong quân sự. Sự kiện nổi tiếng nhất là "Bát trận đồ" Gia Cát Lượng thời Tam quốc bố trí. Trong sách "Đông Pha chí lâm. Bát trận đồ" của Tô Thức nói : "Gia Cát Lượng bày ra Bát trận đồ trên bãi cát ở bến Ngư Phúc, xếp đá thành tám hàng, cách nhau hai trượng. Hoàn Ôn Chinh từ lau cao ngắm nhìn nó, nói : "Nó giống thế núi liên tục như rắn lượn". Các quan văn võ đều không nhận ra. Ta đã từng ngắm nghĩa nó, từ trên núi nhìn xuống hơn một trăm trượng, tất cả 8 hàng, thành 64 khoanh. Mỗi khoanh là vòng tròn không thấy có chỗ lồi lõm, như là cái nắp che, ta đã trông thấy đều là đá sỏi. Dần dần không thể phân biệt được nữa, thật là rất kì lạ". Đã hơn 800 năm trôi qua, nhưng "Bát trận đồ" vẫn còn, làm cho người ta muốn nhìn thấy cảnh tượng lúc đó. Hồi thứ 84 sách "Tam quốc diễn nghĩa" đã miêu tả tỉ mỉ đối với Bát trận đồ : Lục Tốn dẫn quân thừa thắng đuổi theo quân Thục, bỗng nhiên thấy ở phía trước nổi lên một luồng sát khí ngùn ngụt bốc lên trời, nghi ngờ có quân mai phục, bèn sai người đi dò xét xem sao, khi trở về nói ở bên sông chỉ có tám chín chục đống đá ngổn ngang không hề có người ngựa gì cả. Lục Tồn cho tìm người địa phuơng để hỏi, được trả lời là : "Nơi đây gọi là bến Ngư Phúc. Khi Gia Cát Lượng vào đất Xuyên, dẫn quân đi qua đây lấy đá xếp thành trận thế trên bãi cát. Từ đó thường có sát khí như mây từ trong đó bốc lên". Lục Tốn nhìn thấy bốn mặt tám phương của trận này đều có cửa liền đi thẳng vào bên trong để xem, mải đến chiếu tối mới muốn ra ngoài trận, bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên, làm cho đá bay cát chạy mù mịt phủ kín đầy trời, rồi thấy đá đựng ngược lên lởm chởm như gươm, đất cát chồng chất lên như núi. Lục Tốn không còn lối để ra, hốt hoảng kêu lên : "Ta mắc mưu Gia Cát Lượng rồi !", đang khi sợ hãi bỗng có một cụ già dẫn ông ra khỏi trận đá. Lục Tốn hỏi : "Cụ là người đâu ta ? " Ông cụ đáp : "Lão là Hoàng Cấp Ngạn, bố vợ của Gia Cát Khổng Minh đây. Khi con rể của lão vào Xuyên đã bày ra trận đá ở đây, gọi là "Bát trận đồ”, theo độn giáp gồm 8 cửa : Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai, mỗi ngày, mỗi giờ biến hóa không biết đâu mà lần, có thể sánh với mười vạn tinh binh. Khi sắp đi, đã từng dặn dò lão : "Sau này, có đại tướng Đông Ngô lạc vào đây, thì đừng nên dẫn ông ta ra". Vừa rồi, lão đứng ở trên núi, trông thấy tướng quân đi vào từ ”cửa Tử”, chắc rằng không hiểu trận này, ắt sẽ bị lạc. Xưa nay lão hay làm phúc, không nỡ để tướng quân bị hãm chết ở đây, cho nên đã dẫn ra từ "cửa Sinh". Nhà thơ lớn thời Đường là Đỗ Phủ đã có bài thở vịnh "Bát trận đồ” : Công trùm nước chia ba. Nổi danh "Bát trận đồ". Sông chảy đá chẳng xoay. Đánh Ngô còn ôm hận." "Bát môn trận pháp" cũng là một phép bày trận theo "Bát môn độn giáp", khi Chu Nguyên Chương chinh phạt Trương Sĩ Thành, con Trương Sĩ Thành là Trương Báo đã từng dùng trận pháp này. Doanh trại đóng ở phương chính Đông, quân mã đều dùng cờ xanh, giáp xanh, dàm ngựa xanh, trên theo sao Bắc đẩu Tham Lang trấn trại, ba ngày Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Mậu Ngọ ứng với Hưu môn cần phải xuất quân ra trận. Chính Bắc trên là sao Văn Khúc, chính Nam trên là sao Liêm Trực ứng cứu theo nguyên lí tương sinh. Chính Tây phương, cờ trắng, giáp trắng ngựa trắng, trên theo sao Bắc Đâu Phá quân trấn trại, Quý Mão 3 ngày, Kỉ Mão 3 ngày ứng với Hưu môn, trên phương Đông Bắc sao Cự Môn, trên phương chính Bắc sao Văn Khúc ứng cứu. Phương chính Bắc cờ đen, giáp đen, ngựa đen, trên theo sao Bắc Đẩu Văn Khúc trấn trại, Giáp Tý 3 ngày, Mậu Tý 3 ngày, Nhâm Tý 3 ngày ứng Hưu môn, trên chính Đông phương sao Tham Lang, trên chính Tây phương sao Phá Quân ứng cứu. Chính Nam phương cờ đỏ, giáp đỏ, ngựa đỏ, trên theo sao Bắc Đẩu Liêm Trực trấn trại, Ất Dậu 3 ngày, Kỉ Dậu 3 ngày ứng Hưu môn. Trên hướng Đông Bắc sao Cự Môn, trên chính Đông phương sao Tham Lang ứng cứu. Phương Tây Bắc cờ, giáp và ngựa đều màu đen trắng xen nhau, trên theo sao Bắc Đẩu Vũ Khúc trấn trại, Canh Tí 3 ngày, Bính Tí 3 ngày ứng với Hưu môn. Trên phương Tây Nam sao Lộc Tồn và trên phương Đông Bắc sao Cự Môn ứng cứu. Phương Đông Bắc cờ, giáp và ngựa đều màu đen xanh xen nhau, trên theo sao Bắc Đẩu Cự Môn trấn trại, Bính Ngọ 3 ngày, Nhâm Ngọ 3 ngày ứng với Hưu môn, trên phương Tây Bắc sao Vũ Khúc, trên phương chính Nam sao Liêm Trực ứng cứu. Phương Đông Nam, cờ giáp và ngựa đều là xanh đỏ xen nhau, trên theo hai sao Bắc đẩu Phụ, Bật trấn trại, Quý Dậu 3 ngày, Tân Dậu 3 ngày ứng Hưu môn, trên chính Bắc phương sao Văn Khúc, trên chính Nam sao Liêm Trực ứng cứu. Tây Nam phương cờ, giáp và ngựa đều là màu trắng đỏ xen nhau, trên theo sao Bắc Đẩu Lộc Tồn trấn trại, Tân Mão, Ất Mão, Đinh Mão, 3 ngày ứng Hưu môn. Trên phương Tây Bắc sao Vũ Khúc, trên Đông Bắc sao Cự Môn ứng cứu. Trung ương là chủ soái, cờ giáp và ngựa đều màu vàng, trên theo Bắc cực Tử vi viên trấn Trung cung. Bên ngoài "Bát môn trận’’, phía Đông Nam có một cánh quân đội ngũ đều mang màu đỏ vàng xen nhau, trên theo Thái Vi viên ứng cứu bốn cửa : chính Đông, chính Nam, Đông Nam và Tây Nam. Phía Tây Bắc có một cánh quân đội ngũ đều mang theo màu đen vàng xen nhau, trên theo Thiên Thị viên để ngoại ứng bốn cửa : chính Tây, chính Bắc, Tây - Bắc, Đông - Bắc. Một trận pháp như thế đã làm cho chủ soái của Chu Nguyên Chương là Từ Đạt phải đau đầu nhức óc, đêm nằm mơ gặp Thành Hoàng Cô Tô nói : ”Trận này tuy là có lí, chẳng qua là dùng Bắc đẩu cửu tinh và tám phương sinh khắc kết hợp với độn giáp của Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai mà thôi. Nguyên soái chỉ cần từ ngnyên li khắc chế, chia quân ra làm tám cánh tiến vào đánh, ông ta tất nhiên ứng cứu không kịp, nguyên soái nên dùng nguyên lí Thái cực Lưỡng nghi để kiềm chế nó”. Tử Đạt đã làm theo kế đó, quả nhiên vừa đánh đã thắng (xem kĩ trong sách "Anh liệt truyện"). "Bát môn trận pháp" tuy là huyền bí, nhưng chi cần tình thông nguyên lí độn Giáp, phân biệt tướng âm dương ngũ hành thì vẫn phá nó không có gì khó cả. Từ đó ta thấy "Kì Môn độn giáp" là phương pháp sáng tạo thời cơ có lợi, khống chế phương vị có lợi, để đạt đến mục đích thành công. Thời xưa, "Kì Môn độn giáp" chủ yếu ứng dụng vào việc đánh trận và bố trí trận (giàn trận). Bởi vì vận dụng thuật Kì Môn độn giáp có thể dự đoán, tính toán được "khắc ứng” và thời gian tác chiến. Theo truyền thuyết, Trương Lương thời Hán rất tinh thông ”Kì Môn độn giáp”. Gia Cát Lượng và Lưu Bá Ôn cũng không ai không như vậy. Cho nên, Kì Môn độn giáp từ trước đến nay đều được xem là thuật phò tá quân vương, có liên quan đến an nguy của quốc gia và thái bình của thiên hạ. Do đó nên gọi là "học thuyết của đế vương". Trong xã hội hiện đại, "Kì Môn độn giáp” cũng có thể dùng vào các mặt. Xã hội đương đại tức đã trở thành nơi để các ngành, các nhân sĩ các hãng cạnh tranh. Ngoài việc dựa vào thực lực bản thân, nhân tố của thiên thời cũng vô cùng quan trọng. So sánh với "Kinh Dịch", việc tìm tòi của "Kì Môn độn giáp" đối với thiên thời càng trực tiếp rõ ràng, đồng thời còn biểu hiện một tư thái tích cực tiến thủ. Trên thực tế, tất cả mọi cái đều đang trong biến đổi, cũng có nghĩa là đang tranh thủ. Không ngừng tranh thủ, tức không thể vứt bở thời cơ có lợi. Người xưa nói : "Cơ hội không thể mất, thời gian không thể quay trở lại". Sự cố gắng, của thuật Kì Môn độn giáp, tức ở chỗ không làm cho cơ hội bị mất. Hàng ngàn năm nay, thuật Kì môn độn giáp luôn luôn lưu truyền mà không dứt, đang biểu hiện khát vọng của con người đối với thành công, mong đợi đối với thiên thời. Thuật Lục Nhâm Thuật Lục Nhâm xuất hiện là một loại thuật chiêm bốc theo tương truyền bắt đầu từ Hoàng đế, nhưng các thời ghi chép không thống nhất. Sách "Quý tị loại cảo" quyển 10 của Du Chính Nhiếp đời Thanh có đoạn văn "Lục Nhâm cổ thức khảo" đã khảo cứu tỉ mỉ Lục Nhâm dạng cổ qua các thời đại, viết : Việc khởi đầu của thuật Lục Nhâm theo sách ”Đạo tàng” nói từ Hoàng đế, có tên là Lục Nhâm, chế thắng như thần. Sách "Thái dương âm kinh” nói : Dạng theo Huyền Nữ có tên là "Lục Nhâm thức". Huyền Nữ tạo ra chủ yếu bắt đầu từ vạn vật ở phuơng Bắc, vì Nhâm là chủ Giáp nên gọi là Lục Nhâm. Sách "Vũ Kinh tổng yếu" nói : Thuyết Lục Nhâm, sách "Đại diễn số" gọi Thiên Nhất sinh Thủy, bắt đầu ở phương Bắc. Sách "Thuyết văn" của Hứa Thận nói là Thủy, cũng đúng. Số sinh là một, nhưng số tạo thành là năm, lấy số của Thủy phối hợp với nó trở thành Lục Nhâm. Người thời Đường, Tống có hai thuyết. "Lục Nhâm đại chiêm" của Chúc Tiết nói : Sách phương thuật của Chu Quan Thệ biên tập tức Nhâm bàn. Theo văn kiện hiện nay Nhâm bàn không có 28 số. Thuyết của Chúc Tiết át hẳn sự quanh co. Thuật Lục Nhâm chủ Bắc phương là âm. Sách "Bạch Hổ thông" nói : Hợi, bắt đầu của âm. Thêm nữa, vị trí của Hợi là Càn của "Kinh Dịch", là cửa của Trời. Nhâm gửi ở Hợi nên gọi là Lục Nhâm cũng phải. Phương pháp tính là lấy phương mà giờ của ngày tính rơi vào đó để tính. Du Chính Nhiếp đã dày công khảo cứu, nhưng thường không được sử dụng vì quá phức tạp. Nhưng đoạn văn này đối với chúng ta tìm hiểu dạng Lục Nhâm cổ lại có ích rất lớn. Từ trong đoạn văn này ta có thể nhìn thấy, thuật Lục Nhâm bắt nguồn từ rất sớm, tuy nhiên việc bắt nguồn từ Hoàng Đế thì không thật tin lắm, nhưng nó cách thời kì dùng can chi thì không xa lắm. Hơn nữa vì thuật Lục Nhâm có phần kiêm cả quẻ "Dịch” và thuật Ngũ hành, do đó đại thể có thể đoán định thuật Lục Nhâm có thể xuất hiện vào thời Đông Hán. Thuật Lục Nhâm kiêm cả quẻ "Dịch" và nguyên lí sinh khắc của ngũ hành, đồng thời khi xuất hiện không lâu đã dùng Thiên bàn và Địa bàn đế chiêm bốc cát hung của nhân sự dựa theo "Lấy phương mà giờ của ngày tính sẽ rơi vào đó để tính toán". Thuật Lục Nhâm cũng ứng với số của Địa chi lập ra 12 thần, theo số của địa chi ứng với Ngũ hành để suy đoán cát hung của nó. Mười hai thần mà Lục Nhâm sừ dụng theo thứ tự là Thần Hậu, Đại Cát, Công Tào, Thái Xung, Thiên Cương, Thái Nhất, Thắng Tiên, Tiểu Cát, Truyền Tống, Tòng Khôi, Hà Khôi, Chinh Minh (Còn gọi là Đăng Minh, Vi Minh), các thuật sĩ Thời Minh Thanh hoặc gọi 12 thần là 12 tướng. Du Chính Nhiếp cho rằng ”lấy tên của Hà Khôi, Tòng Khôi, Thái Nhất, Thiên Cương và Thái Xung để dưỡng hóa hoàn nguyên phản ứng nó, biết 12 thần lấy sao gọi tên không lấy tiết khí trung khí gọi tên". Mười hai thần phân chủ thiên can, "Thiên Nhất ở tại Giáp, Mậu, Canh vào buổi sớm là Đại Cát, vào chiều hôm là Tiếu Cát; Ất, Tị ban ngày là Thần Hậu, ban đêm Truyền Tống ; Bính Đinh buổi sáng sớm Đăng Minh, chiều tối Tòng Khôi ; Lục Tân ban ngày Thắng Tiên, ban đêm Công Tào ; Nhâm, Quý ban ngày Thái Nhất, ban đêm Thái Xung". Thiên Nhất tức Thái Tuế, lấy ngày Thái Tuế đóng phân đặt 12 thần, Giáp, Mậu, Canh 3 ngày ban ngày là Đại Cát làm chủ, buổi chiều tối là Tiểu Cát làm chủ, ban đêm là Truyền Tống làm chủ, số còn lại cứ thế suy ra. Ở đây, "Thái Nhất đóng", nhưng nói buổi sáng, buổi chiều tối rơi vào đêm mà không gọi âm dương, rõ ràng là muốn có chỗ phân biệt với thuật Ngũ hành. Mặc dù có một số người muốn đem thuật Lục Nhâm phân biệt với thuật Ngũ hành, nhưng ảnh hưởng của thuật Ngũ hành đối với thuật Lục Nhâm lại ngày càng lớn. Sách "Ngũ hành đại nghĩa" của Tiêu Cát thi trực tiếp đem thuật Lục Nhâm liên hệ lại với thuyết Ngũ hành : "Mười hai tướng thì Thiên Nhất là Thổ tướng, số 1 trước là Đằng Xà là Hỏa tướng, số 2 trước là Chu Tước, Hỏa tướng, số 3 trước là Lục Hợp, Mộc tướng, số 4 trước là Câu Trần, Thổ tướng, số 5 trước là Thanh Long, Mộc tướng, số 1 sau là Thiên Hậu, Thổ tướng, số 2 sau là Thái âm, Kim tướng, số 3 sau là Huyền Vũ, Thủy tướng ; số 4 sau là Thái Thường, Thổ tướng, số 5 sau là Bạch Hổ, Kim tướng, số 6 sau là Thiên không, Thổ tướng" ("Ngũ hành đại nghĩa luận chủ thần”). Trong Lục Nhâm 12 tướng có Kim, Mộc, Thủy, Hỏa mỗi loại có hai, Thổ tướng có 4, so với 12 địa chi phối hợp số ngũ hành vừa vặn giống nhau. Các nhà Ngũ hành cho rằng, trong 12 địa chi, Dần Mão là Mộc, Tị Ngọ là Hỏa, Thân Dậu là Kim, Hợi Tí là Thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi là Thổ. Mặc dù tên gọi của 12 tướng khác vơi Địa chi, nhưng dựa vào sự xếp sắp Địa chi của nó lại là dễ nhận ra. Lục Hợp trong 12 tướng đã biểu hiện rõ ràng hiện tượng này. Người xưa xem chọn ngày, mục đích chẳng qua chỉ là theo tốt tránh xấu, theo tốt chính là chọn được ngày tốt giờ đẹp. Vậy như thế nào là ngày tốt giờ đẹp ? Theo thuyết Lục Hợp nói, nguyệt kiến (tháng) hợp với ngày giờ, phù hợp nguyên lí sinh khắc chế hóa, chính là ngày tốt giờ đẹp. Lục Hợp chính là 6 hình thức xác đinh ngày tốt giờ đẹp, tức Tí hợp với Sửu. Dần hợp với Hợi. Mão hợp với Tuất, Thìn hợp với Dậu, Tị hợp với Thân, Ngọ hợp với Mùi. Ví như nguyệt kiến là Dần, ngày giờ là Hợi, Dần Mộc Hợi Thủy, Mộc được thủy sinh cho nên là nyày tốt. Ví như nguyệt (tháng) kiến là Thìn, ngày giờ là Dậu, Thìn là Thổ, Dậu là Kim, trong Thổ sinh Kim, cũng là ngày tốt. Ví như nguyệt kiến là Tí, ngày giờ là Sửu, Tí là Thủy, Sửu là Thổ, Thổ có khả năng làm âm thủy mà không thịnh cũng có thể phá thổ, cho nên là ngày tốt, còn lại cứ thế suy ra. Thuật Lục Nhâm vừa mang Ngũ hành, thì quan hệ Lục hợp trong 12 tướng với thuyết Ngũ hành tự nhiên có thể biết được. Các thuật Lục Nhâm tuy không hoàn toàn giống hệt nhau, hoặc dựa vào quẻ "Dịch", hoặc phù hợp tinh tượng, hoặc dựa thuyết Ngũ hành, nhưng dù biến đổi đến đâu cũng không tách rời với gốc của nó, đều là dùng 12 thần (tướng) phối hợp với Thiên can, Địa chi để chọn ngày tốt, bàn cát hung. Sách "Khách song nhàn thoại” của Ngô Xí Xương đời Thanh, có chép một chuyện của người thợ thêu là Trương Quân dùng thuật Lục Nhâm để chiêm bốc cát hung cho người khác. Câu chuyện đó đại để như sau : Trương Quân từ lúc nhỏ có nhiều bệnh tật, rất ít đọc sách, nhưng anh rất thông minh, đầu óc thông tuệ có thể hiểu được và lĩnh hội được sách vở. Khi lớn lên cảm thấy bấm tính yếu đuối không muốn lấy vợ. Một hôm, nhận được từ nhà một người bạn một quyển sách "Đại Lục Nhâm thư" đem về nhà đọc và nghiên cứu, say mê đến nỗi không để sách rời tay bao giờ. Trương Quân còn đến phưòng in sách đế sưu tầm các sách quý hiếm về thuật Lục Nhâm, không sợ giá đắt, không ngại đường xa, theo đuổi thu thập kì bằng được. Sau mười năm nghiên cứu kĩ lưỡng bỗng nhiên hiểu ra nói : "Đạo lí vốn không cách xa người, không phải sách là có thể thấu suốt tất cả !" liền bỏ sách xuống không xem nữa, cũng không muốn quyết đoán việc cho người khác nữa. Ngẫu nhiên tự lộ ra điều cơ mật của nó, không có điều gì không cảm thấy kì lạ ở trong. Bỗng có một hôm, bảo chị dâu dọn nhà đến một nhà bà con thân thích, nhưng bà chị dâu cố ý không muốn làm, lại khổ não van xin với mẹ nói : "Mười ngày nửa không dọn nhà thì con là người bất hiếu lớn, chỉ đành trách trời mà chịu tai họa thôi !" Người mẹ thấy thương con bèn sai người con trưởng dọn nhà đi. Đến ngày thứ 9, bà mẹ vẫn còn đang đôn đốc ở trong nhà củ, Trương Quân đột nhiên quay về, liền cõng mẹ chạy ngay, chưa đầy một chốc lát, có người báo tin nhà hàng xóm bên trái đã bị cháy, ngôi nhà cũ cũng trong chốc lát bị cháy trụi hết. Một hôm Trương Quân đến nhà người anh họ là Vương Sinh chúc mừng nói : "Con trai că của ông anh năm nay đi thi sẽ đậu Hiếu liêm, chẳng phải là việc vui lớn còn gì ?" Hai người đi đến chợ để ăn uống, trên đường đi gặp một người bạn, Vương Sinh cùng mời đi luôn. Đến quán ăn, Vương Sinh gọi ba bát miến, Trương Quân nói, chỉ hai bát là đủ. Vương Sinh nói : "Sao ba người lại có 2 bát miến, ăn bằng cách nào ?" cứ gọi ba bát. Lúc đó, người nhà của người bạn đến báo mẹ anh ta ở nhà đột nhiên phát bệnh, vô cùng nguy hiểm. Người bạn ấy bỏ đũa xuống và đi. Vương Sinh vô cùng kinh ngạc, khen nói : "Em không phải là Tiên chứ ?" rồi bảo Trương Quân ăn nhanh, sau đó đi đến nhà người bạn để hỏi thăm. Trương Quân nói : "Không sao dâu, mẹ anh ay bị trúng cảm, một lát sẽ khỏi thôi". Hai người đến nhà người bạn, quả nhiên mẹ anh ta bị trúng cảm, phưng đã sống lại. Năm đó, con trai người anh họ của Trương Quân đi thí quả nhiên trúng tuyển, thứ hạng so với lời Trương Quân nói không có gì sai khác, về sau, Trương Quân mắc bệnh, bệnh tình xem ra ngày càng nặng, người bà con tên là Lô Ông đến thăm nói : "Em bẩm sinh có tài trí, không học mà thành chính nghiệp, dốc hết tâm sức vào những việc không có ích, nên hao tổn tinh lực trở thành bệnh hiểm nghèo, cũng có hối hận chứ ? Trương Quân cười, nói : Mệnh dài ngắn là do Trời. Biết số cũng phải chết, không biết cũng chết. Mơ màng với nó, sao gọi là biết rõ ràng?". Vì thế viết một là thư, dán kín lại dặn ông sau khi về đến nhà hãy bóc ra xem. Khi Lô Ông về đến nhà, bóc thư của Trương Quân ra xem lại vừa đúng là số tiền thu chi buôn bán ngày hôm đó của ông, sau khi kiểm lại sổ sách ghi chép chẳng sai chút nào. Lô Ông vô cùng thán phục lại đến thăm Trương Quân lần nữa, cho ông ta là thần tiên. Trương Quân nói : "Tiên thì không thể được, nhưng lục chí thần thông thì tôi mới có được hai, đáng tiếc là tôi biết nó hơi muộn, mà lại có phần cố chấp với khả năng của mình không được tinh tiến hơn để có thể kết thành nội đan. Hỡi ông Trời ! Giá như tôi mấy năm thì thành đạo được, như là tận số vào ngày tháng nào đó, từ đó phải vĩnh biệt mãi mãi thì cũng không đau lòng !" Trương Sinh quả nhiên đến ngày tháng đó thì mất. Trương Sinh nghiên cứu tinh thông thuật Lục Nhâm, không có thầy dạy mà thông hiểu có thể đoán cát hung phúc họa, nhân sự. Mặc dù vậy, dùng lời của Trương Quân nói là "lục thông chi mới có được hai". Lục thông chính là theo Phật giáo là thần cảnh thông, thiên nhân thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc trú thông, lậu tận tông đó là 6 loại "thần thông lực” hay còn gọi là "lục chí thần thông". Đây là một loại giới hạn mà việc "tu thân trì tính" của nhà Phật phải đạt được, đạt đến giới hạn này thì người không phải là Phật thì cũng là Tiên. Trương Quân học thuật Lục Nhâm lại tự xưng là "lục thông mình mới đạt được hai", xem ra thì thuật Lục Nhâm đồng thời dựa vào thuyết Ngũ hành, "Dịch" lí, Tinh lịch, còn dựa thêm Phật giáo. Một loại thuật số lắt léo như vậy, mức độ phức tạp của nó không phải là chỉ năm câu ba chữ đã có thể nói được thật rõ ràng. Thư tịch có ghi chép thuật Lục Nhâm, trong sử không thiếu. Sách "Hán thư. Nghệ văn chí" có ghi là "Chuyển vị thập nhị thần", 25 quyển”. Thuật Lục Nhâm có 12 thần, khi xem chuyển động Thiên bàn, 12 thần cũng chuyển động tương đối theo phát sinh di chuyển vị trí, chỉ xét từ tên sách "Chuyển vị thập nhị thần” có thể chính là trước tác sớm nhất ghi chép thuật Lục Nhâm. Ngoài ra, trong các sách "Ngô Việt xuân thu", "Việt tuyệt thư” xuất hiện từ tay người Đông Hán, đều có ghi chép phép ”Lục Nhâm thức". Sách "Nhan thị gia huấn. Tạp nghệ thiên" của Nhan Chi Thôi, Bắc Tề viết : Tôi học "Lục Nhâm thức", cũng có giá trị như một người thợ giỏi trong thế gian, tập hợp được khoảng hàng chục loại sách "Long thủ”, "Kim quỹ ngọc luận", "Ngũ biến”, "Ngọc lịch". Sách "Long thủ" tức là "Hoàng đế kinh long thủ kinh" tương truyền là sách Lục Nhâm. Sách "Tùy thư. Kinh tịch chí" có "Hoàng đế long thủ kinh" hai quyển, "Huyền nữ thức kinh yếu pháp" một quyển. Các trước tác của đời sau có quan hệ với thuật Lục Nhâm phần lớn đều có liên quan kế thừa với hai sách này. Thời Tùy Đường, thuật Lục Nhâm tương đối lưu hành trong các văn nhân và đại sĩ phu, Nhan Chi Thôi nói "Tôi học Lục Nhâm thức”, nhà thơ Vương Kiến thời Đường có câu thơ "Gần đây người không khoẻ, đôi lúc xem Lục Nhâm" (trong bài thơ "Bần cư" của Vương Kiến). Nhan Chi Thôi là nhà đại học vấn Thời Bắc Tề, sách "Nhan thị gia huấn” của ông đã từng sản sinh ảnh hưởng to lớn đối với nền văn hóa Trung Quốc Thời Tùy Đường về sau. Vương Kiến là nhà thơ nổi tiếng thời Đường. Họ đối với thuật Lục Nhâm nhiệt tình như thế, thì các văn nhân đại sĩ phu khác cũng có thể xem như là một đốm sáng. Đến thời Minh, Quách Tải tập hợp tất cả sách Lục Nhâm các đời lại và biên soạn "Lục Nhâm đại toàn” tất cả gồm 12 quyển, trở thành sách thông dụng của các thuật sĩ thời Minh Thanh. Sách "Minh sử. Nghệ văn chí" ghi chép sách "Lục Nhâm đại toàn" của Viên Tường, gồm 33 quyển. Song, đúng như Du Chính Nhiếp đã nói : "Nay Lục Nhâm cũng có tên gọi Là ”đại toàn”, làm cho bạn đọc không biết nguồn gốc bắt đầu của thuật này" ("Quý Tị loại cảo. Lục Nhâm thư bạt"). Các thuật sĩ không quan tâm đến những điều này, cái mà họ say sưa là làm thế nào dùng thuật Lục Nhâm để lừa gạt người khác làm sao được lừa người vào chỗ chết, hãm hại người vào chỗ chết để họ được vui cười, để họ được cảm kích đến rơi nước mắt. Thuật Thái Ất Thần Thái Nhất đã là Thiên đế, thế thì quyền thống trị và quyền chi phối của nó đối với thế gian cũng sẽ không còn nghi ngờ gì nữa. Dựa trên nhận thức này, người xưa đã đem Thái Ất liên hệ lại với Cửu cung. "Dịch vĩ. Càn tạc độ" nói "Nhất âm nhất dương, hợp nhi vi thập ngũ chi vị đạo. Dương biến thất chi cửu tức dã, âm biến bát chi lục tiêu dã, hợp vu thập ngũ, cố Thái Nhất thủ kì số dĩ hành cửu cung". (Một âm một dương gộp lại là mười lăm gọi là đạo, dương biến bảy đến chín thì thôi, còn âm thì biến tám đến sáu bỏ, cộng gộp lại là mười lăm, do đó Thái Nhất chọn số của nó để làm Cửu cung). Cửu cũng là một phép tính toán thời xưa, chọn 1 đến 9 gồm chín số để tạo thành "phương trận", số 2 và 4 đặt ở vai, số 6 và 8 đạt ở dưới chân, số 3 ở phía trái còn số 7 đặt ở phía phải, trên đội số 9, bụng ở dưới đặt số 1, ở giữa đặt số 5. Hình vẽ của phương trận như sau : 4 9 2 3 5 7 8 1 6
Sự sắp xếp các số của Cửu cung, không phải là đơn giản chọn số tổng là 15 của nó mà là phải phù hợp với biến hóa của thông tin âm dương, dựa vào nguyên lí Ngũ hành sinh khắc, căn cứ vào hiện tượng biến đổi của tinh tú. Vì thế Thái Ất cửu cung trên phù hợp với tinh tượng, dưới ứng với âm dương kín đáo phù hợp với Ngũ hành. Sách "ngũ hành đại nghĩa. Luận cửu cung số" nói : "Cửu thiên cũng thuộc số của Bắc đẩu cửu tinh, cho nên ở dưới đối ứng với Cửu châu. Viêm thiên số 9 thuộc Khu tinh số 1 của Bắc đẩu ứng với cung Ly, tương ứng với Dương châu. Biến thiên số 8, thuộc toàn tinh số 2 của Bắc đẩu ứng với cung cấn, tương ứng với Duyễn Châu. Hiệu thiên số 7 thuộc Cơ tinh số 3 của Bắc đẩu, ứng với cung Đoài, tương ứng với Lương Châu. U Thiên số 6 thuộc Quyền tinh số 4 của Bắc đẩu ứng với cung Càn, tương ứng với Lĩnh Châu. Quân thiên số 5 thuộc Hành tinh số 5 của Bắc đẩu, ứng với trung cung, tương ứng với Dự châu. Dương thiên số 4, thuộc Khai dương tinh số 6 của Bắc đẩu, ứng với Tốn cung, tương ứng với Từ Châu. Thương thiên số 3 thuộc Giao quang tinh số 7 của Bắc Đẩu, ứng với cung Chấn, tương ứng với Thanh Châu. Chu thiên số 2 thuộc sao số 8 của Bắc đẩu, ứng với cung Khôn, tương ứng với Kinh Châu. Trá hung thiên số 1 thuộc sao số 9 của Bắc đầu, ứng với cung Khảm, tương ứng với Kí châu, hai sao số 8 và số 9 thuộc Bắc đẩu là âm mà không thấy, dùng chúng đối ứng với cung âm vậy. Sao Bắc đẩu vốn có bảy sao, vì để làm cho nó nhận số của 9 cung tăng thêm hai sao ứng với số của cung âm Khôn và Khảm là hai sao số 8 và số 9. ở đây, Cửu cung (chín cung) cũng có liên hệ với âm dương bát quái, bát quái ứng với tám cung, Trung ương ứng với trung cung cộng lại là cửu cung. Bát quái phối hợp với Ngũ hành, thuộc Thiên can đối với tám phương, do đó có Chấn ở phương Đông, Giáp Ất Mộc, Li ở Nam Bính Đinh Hỏa, Đoài ở Tây Canh Tân Kim, Khảm ở Bắc Nhâm Quý Thủy, Trung ương Mậu Kỉ Thổ, v.v... Do Thái Ất cửu cung bắt nguồn từ tinh tượng, "Dịch" lí và Ngũ hành nên rất phức tạp, những người mạo xưng là thuật sĩ thường thường nhìn ngó một chút rồi bỏ đi, không dám tự khoe khoang sở trường của mình. Đồng thời cũng chính là do nó vô cùng phức tạp, người ta mới cảm thấy nó rất thần bí, do đó mà càng thêm tin mê hơn. Là một thuật chiêm bốc, Thái Ất cửu cung dùng thứ tự hàng của Thái Ất để xem cát hung nhân sự. Hàng của Thái Ất bắt đầu ở cung Khảm, mỗi tuổi chuyển một cung, từ Khảm ở cung 1 đến Li ở 9. Tiêu Cát trong "Ngũ hành đại nghĩa" dẫn "Cửu cung kinh” nói : "Hàng của Thiên Nhất bắt đầu ở cung Li, hàng của Thái Nhất bắt đầu ở cung Khảm, Thiên Nhất là chủ cây cối hoa màu tốt tươi, Thái Nhất chủ nước hạn, bình đao đói kém, hợp mười hai thần du hành cửu cung 12 vị trí từ ít đến nhiều". Các thuật sĩ căn cứ vào cung vị mà Thái Nhất đóng theo Thiên can Địa chi, căn cứ "Dịch” lí, ngũ hành để tuyển chọn ngày tốt giờ đẹp, dự đoán cát hung phúc họa. Các thuật sĩ còn nắm tâm lí sùng bái quỷ thần của người ta bày đặt ra cửu cung quỷ thần chủ quản cát hung lành dữ, Bắc là Thái Nhất, Tây Nam Nhiếp đề, chính Đông Hiên Viên, Đông Nam Chiêu giao, trung ương Thiên phù, Tây Bắc Thanh giai, Chính Tây là Hàm trì, Đông Bắc Thái Âm, chính Nam Thiên Nhất (xem sách "Mộng lương lục" của Ngô Tự Mục, thời Tống). Cửu cung thần thống nhất với bát quái, vận dụng ngũ hành, sao Thiên Bồng, Thái Nhất tại Khảm, Thủy, màu trắng; sao Thiên Nhuế, Nhiếp đề tại Khôn, Thổ, màu đen ; sao Thiên Xung Hiên Viên, tại cung Chấn, Mộc màu xanh biếc ; sao Thiên phụ Chiếu giao tại Tốn, Mộc, xanh ; sao Thiên cầm, Thiên phù đóng trung ương. Thổ màu vàng ; sao Thiên Tâm Thanh Long tại cung Càn Kim, màu trắng ; sao Thiên trụ Hàm trì đóng tại Đoài Kim, màu đỏ, sao Thiên Nhậm Thái âm đóng tại Cấn, Thổ trắng ; sao Thiên Anh Thiên Nhất đóng tại cung Li, Hỏa, màu tím, có thuyết gọi là "thống lĩnh bát quái, vận hành theo ngũ hành, thổ (đất) bay vào giữa, số chuyển đến cực”. Như thế Thái Ất cửu cung và Lục Nhâm thần khóa sẽ càng có xu thế thống nhất lại với nhau. Thái Ất cửu cưng trong dân gian và trong các bậc Đại sĩ phu đều lưu hành rất rộng rãi, trong sách "Dã thiêm tải" của Trương Loan, thời Đường có một câu chuyện như sau : Thời Đường Huyền Tông Khai Nguyên năm thứ hai (tức năm 714), đạo sĩ Lương châu là Lương Hư Châu dùng Thái Ất cửu cung đoán cho Trương Loan gặp năm Ngũ quỷ, Thiên cương lâm mệnh là tai ách lớn của một đời người. Lại dùng sách "Chu dịch” để xem gặp quẻ Hoán chủ kinh khủng, sau "phong hành thủy thượng", việc sẽ tan. Năm đó, Trương Loan quả nhiên bị Ngự sử Lí Toàn Giao vạch tội ra lệnh xử tử, được Thượng Thư bộ Hình Lí Nhật Chi ra sức che chở mới thoát chết, bị đày đi Lĩnh Nam. ”Ngũ quỷ gia niên và Thiên cương lâm mệnh'' mà Lương Hư Châu nói là những thuật ngữ của các thuật sĩ thường dùng. Ngũ quỷ tức là : trí cùng, học cùng, văn cùng, mệnh cùng, giao cùng (ý trí tuệ, học nghiệp văn nghiệp đều đã đến bước đường cừng, mệnh đã hết và kết giao bạn bè đến đó cũng hết). Hàn Dụ trong sách "Tống cùng văn" gọi là Ngũ cùng quỷ hoặc Ngũ quỷ. Các thuật sĩ nói một người nào đó "Ngũ quỷ gia niên" là nói gặp năm đó thì trăm việc đều bất lợi. Ngoài việc dùng để chiêm bốc nhân sự cát hung, Thái Ất cửu cung còn có ứng dụng khác có giá trị, điều mà nhiều người đều biết rộng rãi là trong chiến tranh thời cổ đại thường xuất hiện "cửu cung bát quái trận". Cửu cung bát quái trận là tuân theo phương vị của cửu cung bát quái, dựa vào nguyên lí ngũ hành sinh khắc để bố trí nên. Hồi thứ 76 sách "Truyện Thủy hử" đã miêu tả tỉ mỉ đối với trận pháp "Ngô Gia Lượng bày tứ đẩu và cờ Ngũ phương, Tống Minh Tông dàn Cửu tinh bát quái trận như sau : Phương chính Nam bố trí đại tướng tiên phong ”Lửa sét" Tần Minh dẫn đội quân mang cờ đỏ, giáp đỏ áo đỏ, ngựa đỏ đeo dây tua màu đỏ son, mọi thứ đều là số của phương Nam, cung Li, Bính Đinh Hỏa, màu đỏ. Trên cờ đỏ của tướng thêu sáu sao Nam đẩu bằng kim tuyến dưới thêu hình Chu tước (chim sẻ) ; Phương chính Đông là Tả quân đại tướng, đại đao Quan Thắng dẫn đội quân toàn là cờ xanh, giáp xanh áo xanh, ngựa đeo tua xanh, phù hợp với số của phương Đông, cung Chấn, Giáp Ất Mộc, màu xanh, trên cờ xanh dẫn quân thêu bốn sao Đông đẩu bằng kim tuyến dưới thêu hình Thanh long (Rồng xanh) ; Phương chính Tây là Hữu quân đại tướng đầu báo Lâm Xung tất thảy mọi khí giới đều màu trắng, tương ứng với số của phương Tây, cung Đoài, Canh Tân Kim, màu trắng, trên cờ trắng dẫn quân thêu năm sao Tây đẩu bàng kim tuyến, dưới thêu hình Bạch Hổ (Hổ trắng) ; Hậu quân là Hợp hậu đại tướng roi đôi Hô Diên Chước dẫn đội quân tất cả mọi khí giới đều là màu đen, tương ứng với số của phương Bắc, cung Khảm, Nhâm Quý Thủy, màu đen, trên cờ đen dẫn quân thêu bảy sao Bắc đẩu bằng kim tuyến dưới thêu hình Huyền Vũ. Cánh quân phía Đông Nam, cờ xanh giáp đỏ, trên cờ dẫn quân thêu quẻ Tốn, dưới thêu Rồng bay. Cánh quân phía Đông Bắc cờ đen giáp xanh, trên cờ dẫn quân thêu quẻ Cấn, dưới thêu báo bay ; Cánh quân phía Tây Bắc cờ trắng giáp đen, trên cờ dẫn quân thêu quẻ Càn, dưới thêu hổ bay, cánh quân phía Tây Nam cờ đỏ giáp trắng, trên cờ dẫn quân thêu quẻ Khôn, dưới thêu Gấu bay. Ớ trung ương của Bát trận là Tống Giang, Ngô Dụng đôn đốc quân sĩ, tất cả đều là màu vàng, phù hợp với số của trung ương Mậu Kỉ Thổ, màu vàng, trên cờ ở trung quân thêu 64 quẻ bằng kim tuyến, có lời văn ca ngợi "cửu cung bát trận" này : "Rõ ràng phân theo bát quái, nhưng ngầm hợp cửu cung. Xem cơ mật của trời đất, nắm khí tượng của gió mây. Trước sau bày hình rùa rắn, trái phải phân dáng rồng hổ. Xuất quân mà kì lạ đều dựa theo tạo hóa của âm dương. Bính Đinh tiến lên như hàng vạn ngọn núi lửa bừng bừng đốt cháy. Nhâm Quý theo sau như một mảng mây đen bao trừm lên mặt đất. Phía trái lượn vòng xuống như luồng khí xanh, phía phải xuống như xuyên một luồng sáng trắng. Ráng vàng phủ kín trung ương (ở giữa), cả một vùng màu vàng toàn dựa theo Mậu Ki. Tây Đông có thứ tự Năm Bắc có nhiều phương. Bốn bên đều phân thành Nhị thập bát tú, vòng về có biến đổi theo 64 quẻ". Trận thế sắp đặt theo phương vị cửu cung, dễ thủ dễ công, cùng xuất ứng, thuận tiện việc điều độ chỉ huy. Trong chiến tranh thời xưa lấy gươm đao thương kích làm vũ khí chủ yếu, loại trận thế này thường là trận thế được chọn trước để giữ thế của hai bên. TÍNH CÁCH KHÓ THAY ĐỔI THUYẾT TÍNH CÁCH THEO NGŨ HÀNH Đấy là hai quả trứng gà không bình thường. Chúng được sinh ra vào lúc trước giờ Ngọ ngày 18 tháng 3 năm 1988. Đúng lúc này, cũng là lúc xuất hiện nhật thực riêng phần. Quả thứ nhất là do một con gà mái vàng của một em học sinh Tiểu học tỉnh Giang Tô nuôi đẻ ra. Kích thước và hình dáng của quả trứng cũng giống như các quả trứng khác, nhưng trên vỏ trứng lại trải đầy những đốm trắng hơi nhô lên, chúng tạo thành một số hình vẽ các chòm sao trong thiên thể. Trong đó, một số đốm trắng tương ứng với các chòm sao như chòm Mục phu với Đại Giốc, chòm Thất nữ với sao Giốc 1, chòm Sư tử với sao Hiên Viên 14, chòm Orion với sao Sâm 4, phân biệt rất rõ ràng. Một quả trứng khác phát hiện ở tĩnh Tứ Xuyên. Trên mặt vỏ của quả trứng này có 7 đám đốm nổi lên tạo thành hình vẽ chòm sao Thất tinh Bắc đẩu tương đối có quy tắc. Con gà đẻ ra quả trứng này, trước 3 ngày xuất hiện Nhật thực riêng phần, đã đột nhiên thôi đẻ trứng, có biểu hiện rất không yên ổn. Các nhà khoa học đã tỏ ra rất hào hứng đối với hai quả trứng này, họ gọi nó là "Trứng thiên văn". Theo tài liệu ghi chép trên thế giới đã từng có mấy quả "trứng thiên văn". Vào các năm 1682, 1758, 1834, 1910 và 1986 Trứng thiên văn đã làm cho các nhà khoa học thêm tin tưởng rằng giữa các thiên thể trong vũ trụ và sinh vật trên mặt đất khẳng định có mối quan hệ nhân quả nào đó. Mối quan hệ này đối với loài người sẽ có ý nghĩa ra sao, đã làm các nhà khoa học rất chú ý tới. Kết luận này của các nhà khoa học, thật không bàn mà rất hợp với "thiên nhân hợp nhất" của các nhà hiền triết Trung Quốc. Việc nghiên cứu thiên văn cũng như nghiên cứu cá tính của con người, các nhà hiền triết Trung Quốc hầu như đã đi theo một con đường tìm tòi hoàn toàn khác các học giả phương Tây. Cá tính không những được biểu hiện bằng nghệ thuật trong một số tác phẩm văn học thiên tái như 108 vị anh hùng trong truyện "Thủy Hử", các hình tượng điển hình trong "Tam quốc diễn nghĩa". Mà nhiều nhà triết học, nhà Tinh tướng học, nhà chiêm bốc học, nhà quân sự nổi tiếng đều đã từng tiến hành hàng loạt quan sát và nghiên cứu đối với cá tính con người, đã nêu lên nhiều lí thuyết cá tính hết sức mới mẻ và cực kì cao sâu. Theo cách nói của các nhà Tinh Mệnh học Trung Quốc thì sự bắt đầu của Tinh Mệnh học phải kể từ khi họ Hiên Viên tạo ra can chi, dùng 10 can để tượng trưng cho Trời, 12 chi tượng trưng cho đất. Họ Đại Nhiêu dựa theo tượng của nhật nguyệt tinh tú ghi trên Hà đồ, tìm tòi ý nghĩa của Ngũ hành xem các chỉ dẫn đã sắp đặt, đặt ra quy định lấy tháng Dần làm tháng Giêng, diễn biến thành Lục thập hoa Giáp Tí. Về sau họ Dung Thành lại chế ra máy định vị thiên thể, tượng trưng hình dáng của vòng trời, phân biệt khí của ngũ hành, làm sáng tỏ nhiều bí ẩn của "dương sinh âm tử", phân tích sự phân định Xuân Hạ Thu Đông tạo nên lịch ghi năm theo Giáp Tí, ghi ngày theo Giáp Tí luân chuyển nhau, dần dần đã mở ra khởi nguồn của mệnh lí. Từ đó ta thấy, thuyết Tinh Mệnh bắt nguồn từ nhận thức của con người đối với vũ trụ. Thông qua sự quan sát lâu dài, các nhà hiền triết Trung Quốc đã phát hiện ra các yếu tố chủ yếu tạo nên ngày đêm dài ngắn, khí hậu nóng lạnh ở các nơi trên quả đất, là kết quả của tác dụng biến đổi có tính chu kì của mặt trời và mặt trăng. Do đó, người ta gọi lúc mặt trời xuất hiện là ban ngày, lúc mặt trăng xuất hiện là ban đêm. Một ngày một đêm hợp lại mới gọi là một ngày hoàn chỉnh. Sự biến đổi của Mặt trời tạo thành vòng chu kì khí hậu quả đất là nóng, ấm, lạnh, mát từ đó sinh ra 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông, bốn mùa tạo thành 1 năm. Cứ mười năm là một chu kì, mỗi năm lại dùng mười thiên can để ghi. Đó là : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Người xưa lại còn phát hiện thêm : trong một năm, Mặt trăng xuất hiện 12 lần tròn, khuyết, nên đã lấy một lần tròn và một lần khuyết làm một tháng, dùng 12 địa chi để ghi, tức là : Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất Hợi. Từ thực tiễn, các nhà hiền triết Trung Quốc đã nhận thức được rằng sự tồn tại và phát triển tự thân có quan hệ chặt chẽ với trời đất. Con người cũng giống như các sinh vật khác chịu ảnh hưởng khí của trời đất, vì vận mệnh của con người và thế khí trời đất liên quan chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất này giữa trời đất con người đã làm cho các nhà hiền triết Trung Quốc xây dựng dựng nên mô thức vũ trụ giữa trời với người của mình. Còn thuyết về cá tính chính lại được xây dựng trên cơ sở triết học cao sâu khôn lường này. Nhận thức của các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đối với Mặt trăng đã được khoa học hiện đại chứng thực. Tiến sĩ, kĩ sư hàng không vũ trụ cơ quan Hàng không vũ trụ Mĩ Xêru Pilxon đã phát biểu một bài luận văn cho rằng ảnh hưởng của Mặt trăng sinh ra đối với quả đất so với Mặt trời còn lớn hơn rất nhiều. Nếu như không có Mặt trăng về cơ bản có thể không có sinh vật tồn tại trên quả đất. Vị kĩ sư hàng không vũ trụ Mĩ này đã chỉ ra rằng, lúc mới đầu hình thành hệ Mặt trời, Mặt trăng đã chịu sức hút của Trái đất, đã trở thành vệ tinh của nó. Trong quá trình Mặt trăng bị kéo gần về quả đất, Mặt trăng đã từng phát sinh ảnh hưởng cực lớn đối với Quả đất. Khi Mặt trăng càng đến gần, biển trên mặt quả đất xuất hiện sóng thủy triều nhấp nhô càng mãnh liệt. Sự nhắp nhô đó đã gây nên lực ma sát rất lớn, làm cho nhiệt độ của quả đất tăng lên cực lớn, kết quả dẫn đến lòng quả đất bị nóng chảy. Nham thạch nóng chảy trong lòng quả đất, trong trạng thái nhiệt độ cao và lực hút cực lớn sẽ xuất hiện hiện tượng lăn kiểu quay dẫn đến tạo ra từ trường. Pilxon còn giải thích, do tình trạng kể trên và mọi ảnh hưởng của Mặt trăng đối với quả đất sẽ thúc đẩy quả đất thai nghén sinh mệnh, mấu chốt là ở chỗ này. Từ trường "siêu mạnh" đó đã hình thành một ”cái dù bảo hộ" của thiên nhiên đối với quả đất, giảm bớt những tia bức xạ từ vũ trụ chiếu tới. Mọi sinh vật trên quả đất được tồn tại và sinh trưởng hoàn toàn dựa vào tác dụng bảo hộ của từ trường này. Lý thuyết mới nhất này đã đánh vào ”ý thức tôn sùng mặt trời" đã hình thành hàng mấy ngàn năm nay. Lí thuyết khoa học này của phương Tây lại rất gần gũi vớn nhận thức của các nhà hiền triết cổ Trung Quốc. Các nhà hiền triết cho rằng : "Phàm hữu huyết khí giả, vô bất hàm nguyên giáp dĩ vi chất, âm dương chi lập tính, thể ngũ hành nhi trước hình". (Phàm những vật có khí huyết, không có vật nào không chứa nguyên khí làm bản chất, dùng âm dương phân lập giới tính, thể hiện ngũ hành để tạo hình). Đến đây, trên cơ sở nhận thức này, các nhà hiền triết Trung Quốc đã xây dựng nên hệ thống lí thuyết về con người của chính họ. Các nhà hiền triết đã dùng thiên can phối hợp với địa chi biểu thị từng năm một. Như vậy, sẽ tạo thành 60 năm. Các nhà tinh mệnh học gọi nó là Lục thập hoa Giáp Tí. Cổ nhân cho rằng : Thiên can xem như cái thân của cây, còn địa chi thì như các cành cây. Có thân cây mới có thể sinh cành, có cành thì mới có lá, có lá mới lại có quả. Sự ra đời và trưởng thành của một con người phải trên hợp với thiên thời, dưới thích nghi với địa vận. Trời phải kiệt, địa phải linh sau đó mới có con người. Do đó sự phối hợp thiên can địa chi khác nhau sẽ sinh ra con người chẳng ai giống ai. Sự quan sát này của các nhà hiền triết Trung Quốc, hiện tại chúng ta cũng chưa có cách nào để làm sáng tỏ hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận sự quan sát cá tính này và việc phân loại rất đặc biệt có một không hai này. Có lẽ, chính đây là một trong những nguyên nhân mà cho đến ngày nay người ta không thể hiểu và tiếp thu những lí thuyết này. Nguyên nhân thứ hai là những thuyết về cá tính này, phần nhiều đều nằm lẫn trong các sách về mệnh lí, tinh tướng học và chiêm bốc. Do đó cũng làm cho những lí thuyết này mang màu sắc thần bí, tôn giáo và mệnh học, đến mức làm cho những lí thuyết này cho đến nay vẫn còn nhiều nhà học giả Trung Quốc chính thống cũng không thèm nhòm ngó tới. Dưới con mắt họ nhìn những lí thuyết này là những thứ mê tín phong kiến là những thuật giang hồ lừa gạt không đáng bàn tới. Điều đáng nói là cho đến ngày nay những người làm công tác khoa học của Trung Quốc vẫn chưa chỉ rõ được tính chất giả dối của những thuyết này có thể làm cho người ta tin tưởng được ; đương nhiên cũng chưa có ai dám dũng cảm chứng minh tính chất hợp lí của nó. Điều đó đã nêu lên cho các học giả Trung Quốc và Phương Tây đương đại một sự thách thức vô cùng gay gắt. Mà việc giám định, quy nạp và nghiên cứu đối với các lí thuyết này lại trở thành một công việc rất có ý nghĩa. Có lẽ đây sẽ là một cống hiến mới của Trung Quốc cũng giống như Trung y và khí công đối với loài người. Những suy nghĩ về Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Năm loại nguyên tố này đã tạo nên cả thế giới. Nói một cách khác, vạn vật vạn sự trên thế giới đều có thể quy về một nguyên tố bắt kì trong 5 loại nguyên tố này. Mà 5 loại nguyên tố này đều là vật tự nhiên tồn tại trước loài người, không phải là loài người có thể tạo ra, do đó các nhà hiền triết gọi nó là Ngũ hành. Khái niệm Ngũ hành bắt nguồn từ rất sớm. Sách "Hồng Phạm. Cửu trừ" thời giữa hai nhà Ân Chu đã nêu lên rõ ràng quy định của ”Ngũ hành". "Một Thủy, hai Hỏa, ba Mộc, bốn Kim, năm Thổ. Thủy nhuận hạ, Hỏa viêm thượng, Mộc khúc trực, Kim tòng cách, Thổ giá sắc. Nhuận hạ tạo kiềm (mặn), Viêm thượng tạo khổ (đắng), tòng cách tạo tân (đắng), giá sắc tạo cam (ngọt)". Trải qua thực tiễn lâu dài, các nhà hiền triết xưa đã khái quát tính năng của 5 loại vật chất này. Mục đích của việc làm trừu tượng này ở chỗ dùng nó để thuyết minh cả thế giới. Nghĩa là đem đủ loại kinh nghiệm có thể tiếp xúc được và quan sát được mở rộng ra lên trên các đối tượng không thể tiếp xúc được và quan sát được. Tiếp đến là phải rút ra những hiểu biết và cơ sở chắc chắn của lí thuyết và toán học đối với vũ trụ và sinh mệnh, xã hội và cá nhân, lí tưởng và hiện thực, hỗn loạn và trật tự v.v... Thuyết Ngũ hành chính đã được sản sinh ra từ động cơ và những cố gắng như vậy. Thuyết Ngũ hành đã thông qua quy định của số để tổ chức chỉnh lí và từ đó giải thích vũ trụ, đây là hiện tượng tư tưởng phát triển đến giai đoạn nhất định tự nhiên xuất hiện. Trong đó cũng tràn ngập chủ nghĩa Thần bí, đồng thời cũng có tư tưởng khoa học đáng tôn trọng. Trên thực tế, mô thức vũ trụ ngũ hành các nhà hiền triết Trung Quốc xây dựng nên, bản thân bao hàm nội dung 2 mặt lí tính và phi lí tính, nó vừa nhấn mạnh vận chuyển khách quan của hệ thống, vừa nhấn mạnh hiệu ứng giữa trời và người thần bí. Chỉ vẻn vẹn tư tưởng hệ thống của nó đã được chứng minh và khẳng định của các học giả đương đại. Việc ra đời của thuyết hệ thống của thế kỉ này đã đem lại cho cả loài người một lần đột phá tư tưởng mới mẻ. Con người hiện đại hầu như không có ai không biết đến thuyết hệ thống, nhưng biết về thuyết Ngũ hành thì lại rất ít. Trong đất nước đã sinh ra thuyết Ngũ hành, nhưng thuyết Ngũ hành vẫn bị lãng quên trong góc xó của lịch sử. Nhiều học giả say sưa bàn về thuyết hệ thống, nhưng cũng không dám nhắc đến thuyết Ngũ hành, càng không dám đi sâu nghiên cứu. Trên thực tế, các thuyết về Trung y học, võ thuật, khí công đã từng làm cho người phương Tây kinh ngạc và ngưỡng mộ, đều lấy thuyết Ngũ hành làm cơ sở lí luận. Mặc dù có được những thành công rực rỡ này, nhưng vẫn chưa có thể làm cho nhiều người khẳng định thuyết Ngữ hành có thể ứng dụng vào các lĩnh vực khác. Có lẽ, những phát hiện khoa học của tương lai sẽ chứng minh : đây lại là một sai sót nữa của chiến lược khoa học Trung Quốc? Nguyên nhân sinh ra sự đình trệ này, đương nhiên không chỉ là một, mà là nhiều nguyên nhân. Một trong những nhân tố quan trọng trong đó, chính là do nội dung phi lí tính của thuyết Ngũ hành, tức là hiệu ứng thiên nhân. Nếu khoa học đã từng giành được những thành quả tuyệt vời, đương nhiên không thể tha thứ sự tồn tại vốn có tính phi lí. Bất cứ giả thuyết và lí thuyết không có căn cứ sự thực nào, cũng đều bị đẩy ra khỏi lâu đài khoa học hết. Cho nên chưa có ai có dũng khí, có năng lực nâng thuyết Ngũ hành lên lâu đài khoa học. Ở đây, chúng ta nêu lên hai phát hiện khoa học đáng làm cho người ta suy nghĩ, bởi vì chúng cũng rất gần gũi và có lợi cho việc hiểu thuyết "Cảm ứng thiên nhân" của các nhà hiền triết Trung Quốc. Phát hiện thứ nhất là sinh vật và địa từ. Mười mấy năm trước, các nhà khoa học đã làm thí nghiệm như sau : đem 2 "gia đình" nhà chuột lần lượt đặt tại nơi có địa từ trường bình thường và nơi có mỗi trường đặc biệt là không có tác dụng của địa từ trường. Các điều kiện sinh hoạt khác của 2 ”gia đình" này hoàn toàn giống nhau, như : nhiệt độ, ăn uống, độ ẩm. Kết quả là sau khi đã quan sát 6 đời phát hiện thấy : "gia đình“ chuột sống ở nơi có địa từ trường thì sinh trưởng và phát dục đều bình thường, trong "gia tộc’ này con cháu 6 đời đều không xuất hiện những điều khác thường. Còn "gia đình" khác thì lại gặp tại nạn. Đời thứ nhất không có biến đổi gì rõ rệt, những con chuột sinh ra vẫn còn khoẻ mạnh. Nhưng bắt đầu từ đời thứ 2, thứ 3 thì chuột phát dục quá sớm, ủ rủ không hăng hái, không thích hoạt động, mà lại còn tham ăn, ăn xong nằm ngửa mặt lên cả một thời gian dài, chuột cái còn bị đẻ non. Những con chuột này, rất ít con có thể sống quá 6 tháng. Khi giải phẫu những con chuột chết đã phát hiện chúng bị bệnh u ác tính và nhiều bệnh nghiêm trọng khác ở các khí quan bên trong. Gia tộc chuột này từ đời thứ ba đã bắt đầu không còn con cháu nữa. Các nhà khoa học cũng phát hiện, trông không gian vũ trụ cách xa quả đất, các sinh vật cũng có những biểu hiện giống như trên. Gần mười mấy năm nghiên cứu đã đưa ra kết luận : đối với mọi sinh vật không kể lớn nhỏ, cách li địa từ trường lâu dài sẽ phát sinh hàng loạt những biến đổi. Các côn trùng, cá, chim sẽ mất đi khả năng định hướng, trong quần thể sinh vật suất đột biến tự nhiên sẽ nâng cao. Từ đó ta thấy : địa từ là bộ phận cấu thành quan trọng của tầng sinh vật trên mặt quả đất, là điều kiện vật chất cần thiết của sinh vật sinh trưởng và phát dục. Sự phát hiện mới này của địa từ có những chỗ rắt giống với nhận thức của các nhà hiền triết cổ Trung Quốc đối với "Địa khí". Quan hệ có liên quan giữa sinh vật với địa từ và sự vạch ra thực chất tác dụng địa từ trường đối với sự sinh trưởng và phát dục của sinh vật, không chỉ mang lại cho việc nghiên cứu sinh vật học những cải cách to lớn, mà cũng có mang lại những chứng cứ rất có ích và sự đột phá nghiên cứu đối với việc nghiên cứu hiệu ứng thiên nhân của Trung quốc. Phát hiện thứ hai là nguồn gốc của sinh mệnh. Sinh mệnh trên quả đất là từ đâu tới, đây là một vấn đề vừa làm cho con người say mê mà lại vừa huyền diệu. Các nhà khoa học, các nhà triết học Trung Quốc và nước ngoài từ xưa đến nay đã phải lao tâm khổ tứ đối với nó. Có người cho rằng sinh mệnh trên quả đất là do đất sinh ra, có người lại cho là từ trên trời rơi xuống. Cái trước được gọi là thuyết tự sinh, còn cái sau được gọi là thuyết thiên giáng (còn có tên là Vũ trụ phôi chủng luận). Do có thực nghiệm khoa học làm cơ sở làm cho con người hiện đại phổ biến đều cho rằng sinh mệnh là vật chất trên mặt quả đất, trong hoàn cảnh đặc định này của quả đất trải qua diễn biến lâu dài sinh ra. Song, hơn bốn mươi năm gần đây theo các tài liệu quan trắc thiên văn ngày càng phong phú, nhất là những năm 60 trở lại đây, các chất hữu cơ giữa các vì sao đã phát hiện được không ngừng, nên vũ trụ phôi chủng luận lại được người ta coi trọng trở lại. Lí thuyết này cho rằng trong vũ trụ bao la, hạt giống sinh mệnh - phôi chủng du đãng đi khắp nơi. Sau khi ngẫu nhiên chúng rơi đến một hành tinh thích hợp với điều kiện sinh tồn thì chúng sẽ nảy mầm, lớn lên và trở thành sinh mệnh ban đầu trên hành tinh này. Lí thuyết này đã từng lưu hành một thời ở thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, nhưng về sau bị xem là một thuyết hoang đường nên bị vứt bỏ. Đến nay, nó lại với tư cách mới buộc con người ta xem xét lại một vấn đề cổ xưa này tức cội nguồn của sinh mệnh. Nếu xem xét từ phương diện triết học, chỉ cần có điều kiện tất yếu hình thành sinh mệnh thì sinh mệnh sẽ có khả năng xuất hiện trông không gian giữa các vì sao. Vì thế, cùng với quá trình cùng loại hình thành sinh mệnh trên quả đất, thì trên một số thiên thế trông không gian vũ trụ cũng có thể tiến hành. Huống chi, sự xuất hiện và phát triển của sinh mệnh không những chỉ hạn chế ở hình thức cũng giống với sinh mệnh trên quả đất. Do đó mà có người cho rằng do sinh mệnh quá phức tạp, nên nó cần phải sử dụng các loại tài nguyên trong phạm vi rộng lớn hơn quả đất để tiến hành tác dụng tổng hợp mới có khả năng sản sinh ra. Thực nghiệm khoa học đã chứng tỏ trong vũ trụ tồn tại vật chất tiền sinh mệnh, những loại vật chất này có khả năng chịu tác dụng của tia tử ngoại và sóng điện từ sẽ hình thành vật có sinh mệnh. Chúng ta có thể suy nghĩ mạnh dạn rằng : Nếu sau khi tìm thấy câu trả lời cho câu đố về sinh mệnh, thì chúng ta sẽ rất dễ hiểu lí thuyết "hiệu ứng thiên nhân”. Chỉ có tiếp thu và hiểu được lí thuyết "hiệu ứng thiên nhân", mới có thể tiếp thu và hiểu được thuyết cá tính theo ngũ hành, thuyết cầm tinh (con vật) và những cái khác bị ngộ nhận là mê tín. Đặc trưng cá tính theo ngũ hành Ở trên, chúng ta đã nói : Trung y, khí công, võ thuật đều lấy ngũ hành làm tư tưởng chủ đạo. Trên thực tế việc ứng dụng tương tự cũng tương đối rộng rãi như trong quân sự, kiến trúc, tướng mạo, đoán mệnh v.v... Thuyết cá tính ngũ hành là học thuyết lí luận độc đắc đưa ngũ hành ứng dụng vào con người quy kết nên. Trên thực tế, nó tồn tại trong thuyết Tinh Mệnh của Trung Quốc. Chúng ta rút nó ra, không chỉ là vì nhu cầu nghiên cứu cá tính, mà còn vì nó dễ được người ta tiếp thu. Một điều rất thích thú là, hiện nay trên thế giới cũng đang dùng phổ biến là căn cứ vào thái độ và phẩm chất tâm lí cá thể trong quan hệ giữa người với người đã phân tính cách thành 5 loại : A, B, C, D, E. Điều này không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên về con số, mà còn ở mọi đặc trưng cá tính lại cơ bản giống nhau, nên tất nhiên phía sau sự trùng hợp ngẫu nhiên đó nhất định có tính tất yếu của nó, nếu không thì không ai có cách nào để giải thích một cách rõ ràng được. Dưới đây, chúng tôi sẽ thuyết minh cụ thể các đặc trưng cá tính theo ngũ hành của các nhà hiền triết Trung Quốc quy định như sau : * Hành Kim Nói như thế không tránh khỏi làm cho người ta bị thất vọng, mà là để hiểu thực sự con nguời theo thuyết cá tính theo ngũ hành sẽ được tìm thấy. Người xưa đã dạy chúng, ta những bí quyết làm thế nào để tự hoàn thiện mình và cải thiện mối quan hệ giữa người với nhau. Bước 1. Đầu tiên hãy tìm Thiên can năm sinh của bạn. Nói chung có thể tra tìm ở quyển lịch Vạn niên. Nhưng nếu không có lịch Vạn niên thì có thể dựa vào Thiên can của năm hiện tại và suy ngược lại, nếu cách mấy năm thì suy ngược lại mấy ngôi, cần chú ý là, phải lấy Xuân tiết để tính. Trước Xuân tiết là thuộc về năm trước, sau Xuân tiết là thuộc năm sau. Ví dụ Xuân tiết (Tết) năm Mậu Thìn là ngày 7 tháng 2 năm 1988 dương lịch. Vì vậy, trước ngày 7 tháng 2 đến ngày 1 tháng 1 là thuộc năm Đinh Măo, không được tính vào năm Mậu Thìn. Bước 2. Xác định ngũ hành của Thiên can. Theo quy định của người xưa : Giáp Ất Mộc, Bính Đinh Hỏa, Mậu Kỉ Thổ, Canh Tân Kim, Nhâm Quý Thủy. Nếu Thiên can là Giáp hoặc Ất thì phối hợp với Mộc ; thiên can là Canh hoặc Tân thì phối với Kim. Như vậy Mộc vừa là đặc trưng cá tính của người sinh năm Giáp hoặc Ất, Kim vừa là đặc trưng cá tính của người sinh năm Canh hoặc năm Tân. Bước 3. Nắm vững quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Thuyết ngũ hành chủ yếu là dùng tương sinh, tương khắc để thuyết minh mối quan hệ giữa các sự vật. Trên cơ sở sinh khắc lại dùng chế hóa, tương thừa, tương hối để thuyết minh thêm sự biến hóa phức tạp của sự vật. Trước tiên ở đây chúng ta cần phải làm rõ ý nghĩa của tương sinh, tương khắc. Tương sinh là một hành này đối với một hành khác trong ngũ hành có tác dụng xúc tiến tư sinh ; còn tương khắc là một hành này đối với một hành khác trong ngũ hành có tác dụng kìm hãm khắc chế. Thứ tự của tương sinh như sau : Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Thứ tự của tương khắc như sau : Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. ImageĐể thuận tiện cho việc dễ nhớ, chúng ta dùng hình vẽ sau để biểu diễn : Ghi chú : Đường chấm chấm biểu thị tương sinh. Đường liền biểu thị tương khắc. Bước 4. Tìm hành có quan hệ tương sinh, tương khắc với mình. Nếu Thiên can của bạn thuộc Mộc, thì sinh Mộc là Thủy, khắc Mộc là Kim. Bạn nên học tập người thuộc hành Thủy những đức tính linh hoạt, khiêm tốn, nên học tập người hành Kim phẩm chất quả đoán và kiên định. Bởi vì những cái đó là chỗ mạnh của người khác, nhưng lại là cái bạn thiếu. ĐỊA CHI VỚI DUYÊN PHẬN CON NGƯỜI Có 3 cách nói về lí do phối hợp này. Cách nói thứ nhất là để phân biệt âm đương. Trong sách "Tố vấn. Âm dương ứng tượng đại luận" nói : "Âm dương là dạo của Trời Đất, là kỉ cương của vạn vật, là phụ mẫu của biến hóa, là gốc khởi đầu của sinh sát, là phủ đuờng của thần minh". Âm dương được dùng làm tư tưởng triết học, là nhận thức và khái quát của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với tất cả sự vật trong cả không gian vũ trụ, nó thử dùng hai phạm trù cơ bản âm dương để thuyết minh tính chất và quy luật của vũ trụ. Vì vậy, không những chỉ phân âm dương trong 10 Thiên can, mà trong 12 địa chi cũng tiến hành kiểu phân biệt âm dương này, để mong đạt được cơ sở chắc chắn hoàn chỉnh của triết học. Người xưa cho rằng : 4 móng là âm, 5 móng là dương, tròn là dương, vuông là âm. Vì chuột có chân trước 4 móng, chân sau 5 móng, do đó mà nó kiêm cả âm dương lưỡng tính, cho nên dùng Chuột để phối cho Tí, đứng đầu 12 tính thuộc, Trâu móng vuông tượng trưng âm đế phối Sửu, Hổ có 5 móng tượng trưng dương để phối Dần ; Thỏ (Mèo) có 4 móng tượng trưng âm để phối Mão ; Rồng 5 móng tượng trưng dương để phối Thìn ; Rắn không có mông chọn lưỡi của nó tượng trưng âm để phối Tị ; Ngụa có móng tròn tượng trưng dương để phối Ngọ ; Dê móng vuông tượng trưng âm để phối Mùi ; Khỉ 5 móng tượng trưng dương để phối Thân ; Gà có 4 móng tượng trưng âm để phối Dậu ; Chó có 5 móng tượng trưng dương để phối Tuất ; Lợn có 4 móng tượng trưng âm để phối Hợi. Cách nói thứ 2 là dùng 12 cầm tinh để phối với các động vật chọn nghĩa không đầy đủ như hổ không gáy, rồng không tai, rắn không chân, chuột không mật, chó không dạ dày. Cách nói thứ 3 là mỗi một cầm tinh có thuộc tính chính là thuộc tính của mỗi một năm. Lí luận này được suy diễn cho người, tức là người sinh vào năm nào thì mang thuộc tính của cầm tinh năm đó. Ví dụ người sinh vào năm Dần sẽ có thuộc tính của hổ như quả đoán và dũng cảm. Đối với cách nói thứ 1, hầu như về mặt lôgic có quy luật có thể theo được, thành phần đáng tin cũng tương đối đẩy đủ. Còn cách nói thứ 2 thì không tránh khỏi gượng gạo, không đủ sức để bàn luận. Cách nói thứ ba thì trái lại rất đáng bàn, bởi vì cách nói này ờ Trung Quốc hầu như đã truyền di hàng mấy ngàn năm rồi, có nhiều người Trung Quốc đã từng tiếp thụ. Cách nói thứ nhất rất có thể sản sinh ở thời đại nồng nghiệp, do sự phát triển của ngành chăn nuôi người ta đã tích luỹ được khá nhiều kiến thức về gia súc và động vật, do đó mà suy diễn cho người, nên có thuyết cá tính cầm tinh con vật. Chỉ tính riêng việc nghiên cứu của các nhà sinh vật đối với động thực vật đã phát hiện : nhiều loại động vật cao cấp đều có dạng nhóm máu. Không chỉ chó, mèo có mà ngay cả ếch và rùa biển cũng có. Các nhà sinh vật học thậm chí cũng đã tìm thấy dạng máu từ các vi trùng như vi trùng lao, vi trùng lị và cả trong mấy chục loại thực vật nữa. Kiến thức sinh vật học đã chỉ cho ta biết rằng dạng máu không những chỉ là loại hình của dung dịch máu, mà còn là loại hình vật liệu cấu tạo nên tế bào của sinh vật, hiểu được điều này thì ta sẽ dễ dàng hiểu được đối với thực vật và động vật cũng đều có dạng máu (huyết hình). Thuyết cá tính của các nhà hiền triết Trung Quốc có phải là đã xây dựng trên cơ sở quan sát dạng máu hay không, hiện nay chúng ta cũng không có cách nào để làm rõ ràng được, nhưng việc tổng kết này lại rất có giá trị. Đặc trưng tính cách theo cầm tinh 12 con vật Tiêu chuẩn phân biệt tính tốt, tính không tốt đối với từng đặc trưng cá tính thường thường theo sự phát triển lịch sử của thời đại, sự đổi mới của quan niệm mà có sự biến đổi. Ví dụ : dám bất chấp nguy hiểm, trước đây có thể cho là khuyết điểm, còn hiện nay nhiều người cho nó là yếu tố thành công để làm việc lớn. Chúng ta tạm thời không đòi hỏi quá khắt khe tính hợp lí của cách phân chia này để trình bày ra kết quả quy nạp của người xưa đối với cá tính.
Tuổi chuột ( Tí ) Năm 1912 -1924 – 1936 – 1948 – 1960 – 1972 – 1984 – 1996
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Khát vọng cầu trí thức. 1. Tầm nhìn thiển cận g sự nghiệp 1. Khát vọng cầu trí thức. 1. Tầm nhìn thiển cận Tu duỡng đức hạnh 1. Tự khổ tự ái, có thể tự ràng buộc. 1. Trước một sự việc, thường nghĩ cho mình trước. Năng lực sẵn có 1. Giỏi kết giao với đủ loại bạn bè. 1. Nhát gan sợ việc. Tính tình, tính cách 1. Mềm mỏng dịu dàng. 1. Hơi nóng tính. Phương pháp tư tưởng 1. Cẩn thận tỉ mỉ. 1. Dựa trực giác để đi đến kết luận.
Tuổi Trâu (Sửu) Năm 1913 – 1925 – 1937 – 1949 – 1961 – 1973 – 1985 – 1997
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Cố gắng, chuyên cần. 1. Đôi khi có khuynh hướng tự ti. Tu duỡng đức hạnh 1. Thành thực, đáng tin cậy, thân thiết. 1. Quyết giữ ý kiến của mình, không thu nhận những lời nhã nhặn, Năng lực sẵn có 1. Thiết thực, cụ thể. 1. Không thích xã giao. Tính tình, tính cách 1. Tương đối thận trọng vững vàng. 1. Một khi đã cáu, rất thô bạo. Phương pháp tư tưởng 1. Khách quan. 1. Ngoan cố Tuổi Hổ (Dần) Sinh năm: 1914 – 1926 – 1938 – 1950 – 1962 – 1974 – 1986 – 1998
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Có hoài bão lớn.
Tu duỡng đức hạnh 1. Có lòng bác ái và chính nghĩa mạnh mẽ. 1. Tự kiêu, không khiêm tốn. Năng lực sẵn có 1. Dũng mãnh, quả đoán. 1. Khó bị ràng buộc. Tính tình, tính cách 1. Nhiệt tình. 1. Dễ động lòng. Phương pháp tư tưởng 1. Ham thích sự việc mới mẻ. 1. Đại khái qua loa.
Tuổi Mèo ( Mão) Năm 1915 – 1927 – 1939 – 1951 – 1963 – 1975 – 1987 – 1999
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Lạc quan. 1. Không có chí lớn.
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Lạc quan. 1. Không có chí lớn. Tu duỡng đức hạnh 1. Hoà nhã. 1. Lòng hám hư vinh nặng nè. Năng lực sẵn có 1. Linh hoạt, dễ thích ứng hoàn cảnh. 1. Không thật thích ứng với hiện thực. Tính tình, tính cách 1. Hay nhường nhịn, không thích tranh giành với người khác. 1. Tính tình không ổn định. Phương pháp tư tưởng 1. Giàu trí tưởng tượng. 1. Có khuynh hướng chủ nghĩa quan liêu.
Tuổi Rồng ( Thìn ) Sinh năm: 1916 – 1928 – 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Làm việc với tinh thần dũng câm xông lên phía trước. 1. Có thói xấu giữa đường bỏ dở. Tu duỡng đức hạnh 1. Có niềm tin cao thượng. 1. Có thói "cả vú lấp miệng em". Năng lực sẵn có 1. Quả đoán. 1. Thiếu tính linh hoạt. Tính tình, tính cách 1. Tính cách hướng ngoại. 1. Ngoan cố. Phương pháp tư tưởng 1. Một lòng một dạ. 1. Chủ quan.
Tuổi Rắn ( Tị ) Sinh năm: 1917 – 1929 - 1941 – 1953 – 1965 – 1977 – 1989 – 2001
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Một lòng một dạ. 1. Đôi lúc dao động không ổn định. Tu duỡng đức hạnh 1. Ôn hòa (dịu dàng). 1. Tính toán cho mình. Năng lực sẵn có 1. Nhạy bén. 1. Đôi khi hay lẩn tránh. Tính tình, tính cách 1. Tính tình tương đối ổn định. 1. Lòng dạ hẹp hòi. Phương pháp tư tưởng 1. Suy sâu nghĩ kĩ. 1. Đứng trước sự việc lớn thường do dự thiếu quyết đoán.
Tuổi Ngựa ( Ngọ) Sinh năm: 1918 – 1930 – 1942 – 1954 – 1966 – 1978 – 1990 - 2002
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Có chí tiến thủ. 1. Thiếu nghị lực, đứng núi này trông núi nọ. Tu duỡng đức hạnh 1. Chân thành, đáng tin cậy. 1. Ham thích chơi bời. Năng lực sẵn có 1. Tri lực nhạy bén. 1. Có lúc nói suông. Tính tình, tính cách 1. Cởi mở, dí dỏm lí thú. 1. Tình cảm dễ bị kích động. Phương pháp tư tưởng 1. Có khả năng tiếp thụ những sự việc mới. 1. Chủ quan. Tuổi Dê ( Mùi) Sinh năm: 1919 – 1931 – 1943 – 1955 – 1967 – 1979 – 1991 – 2003
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Có chí nghiên cứu dồi dào. 1. Bi quan. Tu duỡng đức hạnh 1. Ngoan dịu, hiền lầnh. 1. Cho mình quan trọng hơn người khác. Năng lực sẵn có 1. Yêu thích nghệ thuật. 1. Đôi khi lẻ loi cô đơn. Tính tình, tính cách 1. Nho nhã, thích hài hòa hoàn cảnh. 1. Tự tha thứ mình. Phương pháp tư tưởng 1. Nói năng làm việc vững vàng. 1. Không chú trọng thực tế.
Tuổi Khỉ ( Thân) Sinh năm: 1920 – 1932 – 1944 – 1956 – 1968 – 1980 – 1992 - 2004
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Có chí tiến thủ mạnh mẽ. 1. Đối với bất cứ việc gì không thể nghiên cứu sâu lâu dài. Tu duỡng đức hạnh 1. Thân thiết, có thể sống hòa hợp với người khác. 1. Ích kỉ. Năng lực sẵn có 1. Nhiều tài nghệ. 1. Làm cho nguời ta có ấn tượng mình khéo xoay xở che chở. Tính tình, tính cách 1. Rộng rãi thoáng đãng. 1. Hay đắc ý vênh váo. Phương pháp tư tưởng 1. Nhanh nhẹn. 1. Đôi lúc xảo quyệt
Tuổi Gà ( Dậu) Sinh năm: 1921 – 1933 – 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 1983 – 2005
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Làm việc dũng cảm xông lên phía trước. 1. Thích hư vinh. Tu duỡng đức hạnh 1. Tư tưởng kiên định. 1. Đôi khi có dự định xấu. h 1. Tư tưởng kiên định. 1. Đôi khi có dự định xấu. Năng lực sẵn có 1. Giỏi nói. 1. Đểi khi đặt ra mục tiêu thực tế thường khó đạt. Tính tình, tính cách 1. Vững vàng. 1. Có khuynh hướng tự tha thứ mình. Phương pháp tư tưởng 1. Thích điều tra nghiên cứu. 1. Quyết giữ ý kiến của mình.
Tuổi Chó ( Tuất ) Sinh năm: 1922 – 1934 – 1946 – 1958 – 1970 – 1982 – 1994 – 2006
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Một khi đã nhận đúng mục tiêu sẽ dũng cảm xông thẳng về phía trước. 1. Có khuynh hướng mù quáng. Tu duỡng đức hạnh 1. Trung thành. 1. Thường xuyên cảm thấy cô đơn, buồn tẻ. Năng lực sẵn có 1. Thông minh. 1. Sức biểu đạt kém. Tính tình, tính cách 1. Một lòng một dạ 1. Không dễ lay động tình cảm Phương pháp tư tưởng 1. Có lí lẽ đầu đuôi. 1. Bảo thủ.
Tuổi Lợn ( Hợi ) Sinh năm: 1923 – 1935 – 1947 – 1959 – 1971 – 1983 – 1995 – 2007
Tính tốt Tính không tốt Chí hướng sự nghiệp 1. Một lòng một dạ. 1. Không kiên định. Tu duỡng đức hạnh 1. Thành thực, chân thành. 1. Dễ lay động tình cảm. Năng lực sẵn có 1. Thích xã giao. 1. Thiếu khả năng phân rõ những lời nói dối trá. Tính tình, tính cách 1. Tâm tình vui vẻ. 1. Uể oải, mệt mỏi. Phương pháp tư tưởng 1. Trực quan. 1. Trực quan. 2. Thiếu tính linh hoạt. Phương pháp tìm duyên phận Tam hợp: Lời ghi nhớ: Thân Tý Thìn tương hợp Thủy cục Hợi Mão Mùi tương hợp Mộc cục Dần Ngọ Tuất tương hợp Hỏa cục Tý Dậu Sửu tương hợp Kim cục Thìn Tuất Sửu Mùi tương hợp Thổ cục Lục hợp: Lời ghi nhớ: Tý Sửu tương hợp Thổ Dần Hợi tương hợp Mộc Mão Tuất tương hợp Hỏa Thìn Dậu tương hợp Kim Tỵ thân tương hợp Thủy Ngọ Mùi tương hợp Thái dương Thái âm. Tương hình vô lễ độ: Lời ghi nhớ: Tý hình Mão, Mão hình Tý. Tương hình vô ân Lời ghi nhớ: Sửu hìnhTuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu. Tương hình trì thế: Lời ghi nhớ: Dần hình Tỵ Ty hình Thân Thân hình Dần. Tương hình tự ngã: Lời ghi nhớ : Tý Dậu tương phá Mão Ngọ tương phá Sửu thìn tương phá Tỵ thân tương phá Dần Hợi tương phá Tuất Mùi tương phá Tương phá: Tương hại: Lời ghi nhớ: Tý hại Mùi Sửu hại Ngọ Dần hại Tỵ Mão hại Thìn Thân hại Hợi Dậu hại Tuất Tương xung: Lời ghi nhớ: Tý Ngọ tương xung Sửu Mùi tương xung Dần Thân tương xung Mão Dậu tương xung Thìn Tuất tương xung Tỵ Hợi tương xung.
BẢNG DUYÊN PHẬN 12 CẦM TINH Đối phương
Tí Chuột Sửu Trâu Dần Hổ Mão Mèo Thìn Rồng Tị Ngọ Ngựa Mùi Dê Thân Khỉ Dậu Gà Tuất Chó Hợi Lợn Bản thân mình
Ghi chú : a -Tam hợp b- Lục hợp c - Tương hình vô lễ độ d - Tương hình vô ân c - Tương hình trì thế f - Tương hình tự ngã g - Tương phá h - Tương hại i - Tương xung. PHÂN LOẠI TÍNH CÁCH BẨM SINH Sự so sánh Tây y với Trung y càng nói rõ hiện tượng khác nhau này. Trong con mắt người phương Tây, con người là do các bộ phận bằng xương bằng thịt tạo thành. Họ nghiên cứu từng hiện tượng và tính chất cục bộ xây dựng nên hệ thống chữa bệnh đồ sộ. Còn con người trong con mắt của các các nhà hiền triết Trung Quốc, trái lại là một chỉnh thể biến đổi hữu cơ. Họ coi trọng công năng và sự liên hệ của chỉnh thể, thông qua cơ sở quan hệ công năng để điều hòa nhịp nhàng công năng của chỉnh thể. Đặc điểm tư duy bắt đầu từ vi mô và cơ sở vĩ mô này cũng được thể hiện trong nghiên cứu cá tính con người. Các học giả phương Tây phần nhiều đều từ các hiện tượng của con người quy nạp thành các tri thức có tính kết luận, ví như thông qua dạng máu, dung mạo, trắc nghiệm tâm lí. Trên cơ sở hàng loạt các tài liệu cảm tính để tiến hành phân môn, phân loại nghiên cứu. Còn các học giả cổ Trung Quốc lại dựa vào lí tính để diễn dịch thành kinh nghiêm. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ở Trung Quốc không xuất hiện và sản sinh khoa tâm lí học và khoa cá tính học mang ý nghĩa khoa học chân chính. Song, điều này không nói lên người Trung Quốc đối với tâm lí học và khoa cá tính học không hề biết tí gì. Hoàn toàn ngược lại, các nhà hiền triết Trung Quốc thông qua sự quan sát độc đáo và suy ngẫm của mình, đã xây dựng nên học thuyết lí luận cá tính có tính chất miêu tả lí luận cá tính cầm tinh theo ngũ hành. Ở phần trước chúng tôi đã nêu, con người trong con mắt của các nhà hiền triết Trung Quốc là sản phẩm của trời đất. Chuyện thần thoại bà Nữ Oa tạo người biểu đạt tốt nhất nhận thức tư tưởng này. Nước mưa trên trời và đất vàng ở dưới đất đã đúc nặn nên sinh mệnh của con người. Nhận thức này được các nhà tinh mệnh học Trung Quốc ứng dụng vào nhận thức đối với con người, nghĩa là đem vận mệnh của con người và cá tính quy kết thành tạo hóa của trời đất. Các nhà hiền triết xưa cho rằng ngũ hành là yếu tố ảnh hưởng cá tính, còn 12 cầm tinh lại là loại hình của cá tính. Chỉ có đem ngũ hành kết hợp hữu cơ với cầm tinh mỗi cá thể có được cá tính hoàn chỉnh đối với con người này. Đây chính là nội dung cơ bản của lí thuyết cá tính cầm tinh theo ngũ hành. Xét bản thân sự kết hợp của nó, hầu như không ai nêu lên nhiều dị nghị, vấn đề là ở chỗ tại sao kết hợp như vậy, nói cách khác căn cứ kết hợp là gì ? Đương nhiên, bản thân các nhà hiền triết Trung Quốc đã từng giải thích kiểu vo tròn cho kín kẽ về cách làm của mình, đó lại là lí luận "thiên nhân hợp nhất". Lúc mới đầu đề cập đến vấn đề này, chúng tôi cũng đã nói vắt tắt điểm này. Nhưng lí luận này đối với nhiều học giả thời nay vẫn không có sức thuyết phục. Nhiều học giả phương Tây thời nay rất tôn sùng lí luận cá tính của các nhà hiền triết Trung Quốc. Họ cho rằng lí luận này có khía cạnh độc đáo và trí tuệ của người phương Đông. Người phương Tây không phải là người ngu dốt, họ tin các nhà hiền triết Trung Quốc cũng không phải là người ngu dốt. Họ rất muốn biết các nhà hiền triết Trung Quốc làm thế nào để đạt được lí luận đã trải qua thời gian lâu dài như thế vẫn không hề suy giảm. Bởi vì một lí luận nó có thể lưu truyền hàng ngàn năm, nhất định phải có tính hợp lí của chính nó. Chúng ta không nên phủ nhận và cười chê giả thiết và sự cố gắng này của các nhà tinh mệnh học Trung Quốc, huống hồ chúng ta cũng không nêu lên được căn cứ phủ định đầy đủ. Nếu chúng ta thật sự yêu khoa học, thì nên dùng thái độ khoa học, thực sự cầu thị để đối xử với lí luận này. Tổ hợp tính cách mới Dựa vào sự sắp đặt tổ hợp của Thiên can Địa chi, sẽ có thể được 60 tổ hợp khác nhau, các nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng 60 tổ hợp này có thể dùng để thuyết minh kết cấu tính cách có thời gian sinh ra khác nhau. Vì thế không kể người sinh ra vào thời gian nào, đều có thể từ trên bảng chu kì cầm tinh theo ngũ hành tìm được loại hình tính cách vốn có của từng người. Sự tổ hợp ngũ hành với cầm tinh, tức biểu thị tác dụng giữa trời và đất, tác đụng này chủ yếu có 3 hình thức : Loại thứ nhất : cùng bổ sung nhau. Từ ý nghĩa về từ của nó ta thấy mỗi yếu tố của ngũ hành và mỗi thuộc tính của cầm tinh có đặc điểm khác nhau. Nhưng đặc điểm này kết hợp lại, giữa chúng với nhau không phát sinh xung đột, đồng thời lại có thể bổ xung cho nhau. Đây chính là cùng bổ xung nhau. Ví dụ bản thân Hổ có đặc điểm là bác ái, chân thành, nhưng không có lòng nhẩn nại, làm việc dễ nóng nảy, qua loa. Nhưng sau khi kết hợp với Mộc, Mộc Hổ sẽ có đặc trưng tính cách mới, vừa bác ái chân thành lại vừa làm việc chăm chỉ. Lại như Mèo không có tài lãnh đạo, nếu kết hợp với Hỏa, Hỏa Mèo sẽ trở thành người có tài lãnh đạo. Loại thứ hai : Cường hóa Sau khi ngũ hành kết hợp với cầm tinh, trên một điểm nào đó khớp nhau, có thể sinh ra cường hóa. Ví dụ : khuyết điểm của Hổ là nóng nảy, hấp tấp. Hổ kết hợp với Hỏa thì sự hiếu động, thiếu sự bền bỉ của Hỏa sẽ phù hợp với đặc điểm này của Hổ, kết quả sẽ làm tăng đặc tính này. Loại thứ ba : Thỏa hiệp. Ví dụ, tính cố chấp của Trâu sau khi kết hợp với Thủy có tính thỏa hiệp thì người tuổi Trâu mệnh Thủy sẽ trở thành không cố chấp, nhưng không quật cường lắm. Họ có thể có lúc không cố chấp, có lúc quật cường. BẢNG THIÊN CAN ĐỊA CHI NGŨ HÀNH CẦM TINH Mộc Chuột Mộc Chó Mộc Khỉ Mộc Ngựa Mộc Rồng Mộc Hổ Mộc Trâu Mộc Lợn Mộc Gà Mộc Dê Mộc Rắn Mộc Mèo Hỏa Hổ Hỏa Chuột Hỏa Chó Hỏa Khỉ Hỏa Ngựa Hỏa Rồng Hỏa Mèo Hỏa Trâu Hỏa Lợn Hỏa Gà Hỏa Dê Hỏa Rắn Thổ Rồng Thổ Hổ Thổ Chuột Thổ Chó Thổ Khỉ Thổ Ngựa
Mộc Chó Mộc Khỉ Mộc Ngựa Mộc Rồng Mộc Hổ Mộc Trâu Mộc Lợn Mộc Gà Mộc Dê Mộc Rắn Mộc Mèo Hỏa Hổ Hỏa Chuột Hỏa Chó Hỏa Khỉ Hỏa Ngựa Hỏa Rồng Hỏa Mèo Hỏa Trâu Hỏa Lợn Hỏa Gà Hỏa Dê Hỏa Rắn Thổ Rồng Thổ Hổ Thổ Chuột Thổ Chó Thổ Khỉ Thổ Ngựa Thổ Rắn Thổ Mèo Thổ Trâu Thổ Lợn Thổ Gà Thổ Dê Kim Ngựa Kim Rồng Kim Hổ Kim Chuột Kim Chó Kim Khỉ Kim Dê Kim Rắn Kim Mèo Kim Trâu Kim Lợn Kim Gà Thủy Khỉ Thủ Ngựa Thủy Rồng Thủy Hổ Thủy Chuột Thủy Chó Thủy Gà Thủy Dê Thủy Rắn Thủy Mèo Thủy Trâu Thủy Lợn
Ghi chú : 1. Lấy năm sinh làm chuẩn 2. Lấy âm lịch làm chuẩn Tính cách của bạn Bạn là người có khuôn mặt dịu dàng, thường hay làm một số việc có ích cho bạn bè. Mỗi khi nhận được sự cảm kích của người khác, trong lòng vô cùng khoái trá, có lẽ đây là một cách thoả mãn lòng chuộng hư vinh của bạn Bạn bè đều rất thích bạn, bởi vì bạn có nhiều sự linh hoạt thích nghi môi trường đã giữ được sức hấp dẫn của bạn đối với họ. Họ tin tưởng bạn là người sáng suốt đáng tin cậy, đôi khi nhờ bạn giúp họ vạch ra một số việc tử nhỏ đến lớn. Bạn là một người khẳng khái, có thể chịu hi sinh vì bạn bè, nhưng khi liên quan tới những cái thích nhất của mình thì bạn có thể sẽ nuối tiếc không nỡ rời bỏ, nhưng cuối cùng có thể vì sợ mất thể diện liên lại tỏ vẻ anh hùng. Có khả năng hiểu biết tương đối khá đối với các sự vật, có thể suy nghĩ tỉ mỉ và chu đáo, nhưng đôi khi bạn thiếu tầm nhìn xa, nên đã làm cho mình trở thành bảo thủ. Tuổi trâu, hành Mộc. Năm Ất Sửu. Bạn là một người bằng lòng giúp đỡ người khác có lòng nghĩa hiệp. Trong đa số trường hợp bạn là người có thể hợp tác với người khác. Những khi (thần kinh) xung đột thì bạn đã biến thành một con người khác, ngoan cố cực kì, đối với những lời nói tốt đẹp của người khác cũng không thèm nghe. Trước khi sự việc chưa thành công, bạn sẽ chịu đựng được tất cả gian khổ. Trong khoảng thời gian này nếu bạn nhận được sự giúp đỡ của người khác thì sẽ làm tăng nhanh cảm tình của bạn, vấn đề là bạn đối với người mạnh hơn bạn, cần phải loại bỏ lòng tự ti của mình. Còn đối với người không bằng bạn, thì cần phải vứt bỏ lòng tự tôn quá mức của mình. Đôi khi bạn quá cẩn thận, làm cái gi cũng đều làm dần dần từng bước, trên thực tế đôi khi muốn dựng nghiệp cũng cần phải mạo hiểm một chút. Tuổi hổ, hành Hỏa. Năm Bính Dần Đối với sự nghiệp và công tác, bạn tràn ngập nhiệt tình có hoài bão lớn hừng hực. Ham thích khai thác, có tinh thần cải cách đổi mới, cho nên trong nhiều mặt biểu hiện tài năng lành đạo. Nhưng, ý thức độc lập mạnh mẽ này của bạn có thể làm cho cấp trên của bạn sẽ cảm thấy đau đầu ; bạn là người rất khó quản lí. Bạn làm việc thường hay quá cuống quít, thậm chí sẽ đi thẳng vào dẫn tới nguy hiểm, dễ cả tin người khác, nên đôi khi bị mắc lừa. Cho nên cần phải ghi nhớ là phải đề phòng kiêu ngạo và nóng vội thì đối với cả đời bạn sẽ có ích. Bạn có tinh lực dồi dào, đối với cuộc sống tràn ngập niềm tin. Bạn lúc nào cũng muốn dùng sự cố gắng của mình để làm thay đổi cảnh ngộ của bạn. Mặc dù vậy, khi ngần người lặng lẽ bạn vẫn còn cảm thấy trong trải. Tuổi Mèo, hành Hỏa. Năm Đinh Mão Tính cách của bạn đôi khi rất mâu thuẫn, ví dụ, vừa muốn đi làm một sự nghiệp nào đó, lại vừa sợ tủi thân mình, mất đi tự do tự tại. Có lẽ khi bạn gặp phải cản trở nào đó, bạn sẽ đi làm ngay không chút do dự, để tỏ rõ chí cương cường và tài năng của mình. Nói chung, bạn là một người rất có nhiệt tình, lương thiện, tha thứ người khác. Tuổi Rồng, hành Thổ. Năm Mậu Thìn Bạn đối vớí cái gì cũng đều rất muốn chân thực, bạn rất chán ghét những việc không hợp với lẽ phải, tỏ ra cứng nhắc và giáo điều. Cuộc sống của bạn thiếu hẳn hứng thú, vì bản thân bạn xử lý công việc không linh hoạt, nói chuyện cũng thiếu hàm xúc và đầy đủ trọn vẹn. Cho nên, bạn không còn cách nào để làm cho phạm vi cuộc sống của bạn được mở rộng. Bạn có một sức nhẫn nại rất tốt, có thể chịu đựng rất nhiều lao khổ và lời oán trách. Có lúc, bạn muốn làm thay đổi cảnh ngộ của mình, có thể vừa nghĩ đến việc làm như vậy của mình thì đã cho là thỏa đáng, kết quả lại vẫn tiếp tục khư khư làm theo nếp cũ. Tuổi Rắn, hành Thổ. Năm Kỉ Tị Tính bạn hay tự ái, đánh giá người khác thì rất hay để ý, đứng trước mặt người khác bạn không muốn bộc lộ điểm yếu của mình. Nếu là phạm phải sai lầm thì bạn sẽ tỏ ra tâm thân không yên. Bạn không thích làm những việc mình đã từng làm. Vì bạn cho rằng làm như vậy sẽ mất hết hứng thú, cũng là lãng phí. Bạn có tính thờ ơ không muốn biểu hiện nỗi vui buồn, giận dữ lên trên nét mặt, bạn cho rằng như vậy là không thành thực và hổ thẹn. Khi gặp khó khăn bạn không muốn nhờ người khác giúp đỡ, mà dựa vào chính mình để làm, cho nên bạn là người tinh nhanh năng nổ lại vừa có năng lực. Tuổi Ngựa, hành Kim. Năm Canh Ngọ Là người thẳng thắn, nhanh mồm, nhanh miệng, nhưng bạn có thể giữ được lời hứa đối với người khác và giữ kín được những điều bí mật. Khi nói chuyện, thường không lường đến hậu quả, không kể là chuyện hay chuyện dở trong chốc lát đều muốn nói ra hết. Bạn luôn luôn là người thích làm việc một cách thoải mái, đối với người khác và kỉ luật thường không quan tâm gì đến, rất khó đạt được sự tín nhiệm lãnh đạo. Nhưng bạn bè của bạn vẫn thích bạn, bởi vì bạn rất thân thiết lại còn ngây thơ nữa. Bạn không thể vì công việc của tương lai mà buồn phiền không yên, vẫn là tâm thần bất định lại thích cảnh nào nhiệt. Tuổi Dê, hành Kim, Năm Tăn Mùi. Bạn có năng lực làm việc độc lập, những công việc người khác giao cho bạn, bạn đều có thể nhanh chóng hoàn thành nghiêm túc, thường có thể được lành đạo tín nhiệm. Bạn rất chính trực, liêm khiết vô tư, không thể tha thứ những khuyết điểm và cách làm của người khác. Tất cả những cái không vừa ý này đã chất đầy trong lòng, nên luôn cảm thấy bị dồn nén, dẫn đến có vẻ có tố chất thân kinh (hơi tâm thân). Tuổi Khỉ, hành Thủy. Năm Nhâm Thân Bạn thích giúp đỡ người, đối với bắt kì sự nhờ vả nào cũng đều đáp ứng cả, nhưng khi phát hiện năng lực của bạn không với tới thì bạn sẽ buông tay mặc kệ, kết quả có người cho bạn là người không giữ chữ tín. Trên thực tế bạn là người hay giữ sĩ diện. Đầu óc bạn rất linh hoạt, nhưng dễ bị những hiện tượng giả tạo lừa mình, vì thế thường dẫn đến thất bại. Tốt nhất, bạn nên xác định cho mình một mục tiêu để không ngừng cố gắng phấn đấu. Không nên lúc nào cũng tỏ ra mình mạnh, cái gì cũng muốn làm thử. Đôi khi bạn hay đắc ý, chịu không nổi sự ton hót của người khác, điều quan trọng nhất là không nên hám hư vinh. Tuổi Gà, hành Thủy. Năm Quý Dậu Đối với mình, bạn tương đối tự tin. Làm bất cứ việc gì cũng đều ít xảy ra sai sót, vì thế đôi khi bạn cũng tỏ ra rất đắc ý. Quá lạc quan đối với kết quả cuối cùng đã làm cho bạn quên đi là cần phải cố gắng làm triệt đế đến cùng, kết quả là đôi khi đã đánh mất những thành quả đáng lẽ phải thuộc về mình. Bạn thường chú ý đến cách nhìn của người khác đối với mình. Trong những lúc đông người bạn thường tỏ ra là một người nói hăng, cái gì cũng biết. Đối với những việc mình không hiểu, tuyệt nhiên bạn không hề hé miệng để xin lời chỉ bảo, bởi vì bạn cho rằng làm như vậy sẽ làm cho người khác xem thường mình. Bạn tuy khiêm tốn, nhưng lại không dám bộc lộ nhược điểm cho người khác biết. Tuổi Chó, hành Mộc. Năm Giáp Tuất Bạn là một người bạn và thuộc hạ đáng tin. Có thể chịu khổ, một khi đã nhận rõ mục tiêu sẽ hăng hái tiến lên không sợ khó khăn, nhưng sẽ không hối cải. Bởi vì bạn có một năng lực hiểu biết rất tốt, cho nên đối với mọi công việc xung quanh bạn có thể rất sáng suốt, không dẫn tới bị đổ vỡ. Bạn là một người không ưa tĩnh lặng, thường cảm thấy cô đơn, bởi vì thiếu khả năng biểu hiện, do đó bạn thường chỉ nhận được sự phong phú từ trong sự khẳng khái của mình. Nếu không, bạn sẽ chỉ cảm thấy mình cô đơn lạnh lẽo. Tuổi Lợn, hành Mộc. Năm Ất Hợi Bạn có thể một lòng một dạ làm việc, nhưng có lúc bạn cũng muốn "đánh trống bãi chầu" (nửa đường bỏ cuộc), nhất là khi gặp trở ngại tỏ ra không kiên định. Trong cuộc sống bạn có một số mệt mỏi không phấn chấn, nhiệt tình với người, ngây thơ tự nhiên, nhưng đối với những lời đồn đại, tin vịt thiếu sự phán đoán nhất định, kết quả đôi khi dễ bị mắc lừa. Bạn có tài năng quản lý kinh tế, giỏi về tích lũy của cải, nhưng lại không làm được việc buôn bán, vì thiếu tính linh hoạt cần thiết. Tuổi Chuột, hành Hỏa. Năm Bính Tí. Bạn có nhiều bạn bè, bạn thường tổ chức họ lại đế làm một số cuộc nhóm họp hoặc làm công việc khác. Mọi người đều tỏ ra tin cậy vào khả năng và việc làm vì người khác của bạn. Bạn có một nhược điểm ghê gớm, đó là thiếu lòng kiên nhẫn, đôi khi bạn cuống đến mức cứ rối tinh rối mù lên. Cách làm này của bạn sẽ tổn thất đến hình tượng của bạn. Vì vậy bạn phải nên tập bình tĩnh một chút. Bạn có khả năng nắm bắt được những thông tin có giá trị mới mẻ nhất, đồng thời dám thực hiện một cách kiên định. Nếu như làm không xong thì bạn lại có thể trở nên nhát gan sợ việc, đến mức bạn không muốn nhắc đến việc đó nữa. Tuổi trâu, hành Hỏa. Năm Đinh Sửu. Bạn có thể trở thành một người lãnh đạo hợp tiêu chuẩn, bạn có nguyện vọng về mặt này, lại có tài về mặt này và bạn cũng tràn ngập niềm tin đối với việc đó. Bạn đối với người, thành thực, ngay thẳng, làm cho bạn có nhiều bạn bè và người ủng hộ. Những người này đều có thể làm những người đi theo bạn. Vì vậy bạn phải nên học được khả năng giao tiếp cần thiết để đoàn kết họ lại. Thiếu chí bền bỉ đó là nhược điểm nguy hiểm nhất của bạn. Nó sẽ dẫn bạn đến chỗ làm những việc quá khích và tính tình nóng nảy hấp tấp. Bạn có tinh lực dồi dào. Tuổi Hổ, hành Thổ. Năm Mậu Dần Chính nghĩa, bác ái, tự tôn. Đó là điều bạn cho rằng cần phải giữ gìn đế rèn luyện con người. Bất cứ làm việc gì bạn cũng đều yêu cầu mình làm như vậy, đôi lúc cũng vì nó bạn cảm thấy tự hào và tự an ủi. Bạn có năng lực tổ chức, sẽ liên hợp nhiều người lại để làm công việc, đôi khi bạn làm việc với khí thế sục sôi ngất trời mà quên mất cả dáng vẻ tư thế của mình. Bạn là người có tính cách hai mặt. Vừa có ý thức độc lập, lại vừa có ý nguyện phục tùng. Đối với nhiều sự việc bạn thiếu hẳn nhận thức cần có, làm cho mình lạc hậu với hiện thực. Tuổi Mèo, hành Thổ: Năm Kỉ Mão Bạn cho rằng cuộc sống chỉ là một bảo đảm về mặt sinh hoạt, còn giá trị chân chính của đời người lại là ở chỗ hưởng thụ của sự hứng thú. Loại người này vừa linh hoạt khéo léo lại vừa có tính bền bỉ, cho nên phần lớn đều có kĩ năng bán chuyên nghiệp về phương diện thích thú. Bạn là một con người lãng mạn, đa tài đa nghệ (nhiều tài nghệ) thích một mình hưởng thụ niềm vui của cuộc sống một cách êm ả trong thế giới tưởng tượng. Tuổi Rồng, hành Kim. Năm Canh Thìn Bạn rất thông minh lại có tinh thần cải cách, vì thế đối với nhiều sự việc đều có cách kiến giải độc đáo của mình. Đối với kế hoạch của mình thì bạn tràn đầy hứng thú, tuyên truyền rùm beng lên, nhưng khi thực hiện thì nhiệt tình của bạn đã không còn nữa. Vì vậy, bạn thường thường lưỡng lự giữa lí tưởng và hiện thực, không biết nên chọn hay bỏ. Tình cảm của bạn không ổn định, lên xuống quá mạnh mẽ. Khi sự việc thuận lợi thì vui vẻ thoải mái, nhưng gặp thất bại thì nản lòng thoái chí. Tuổi Rắn, Hành Kim. Năm Tân Tị Bạn là người thông minh lanh lợi hơn người, nhưng cũng vì thế mà không muốn đem toàn bộ tinh lực của mình tập trung vào một việc, mà muốn đồng thời tiến hành mấy việc luôn một lúc, cho nên bạn là người nhiều tài nghệ, thích tao nhã nhưng rộng rãi. Ý chí của bạn rất kiên cường, không thích hợp tác với người khác lắm, bề ngoài trông rất chất phác nhưng trong lòng rất phong phú, có ý thức mĩ cảm mãnh liệt. Bạn thích thưởng thức những cái đẹp, nhưng trái lại có cách nhìn độc đáo, mà không phải là thấy người ta nói sao mình nói vậy. Bạn tỏ ra rất đầy đủ, nhưng đôi khi hay nôn nóng hấp tấp. Tuổi Ngựa, Hành Thủy. Năm Nhâm Ngọ Bạn có hai tính cách bề ngoài hoàn toàn tương phản, ở những nơi công cộng bạn là một người khiêm tốn, cẩn thận nhưng khi ở một mình, lại thích tự đo tự tại, thậm chí còn làm những việc tùy tiện. Bạn quá ham nói, ở cơ quan đơn vị bạn có thể giữ mồm giữ miệng, nhưng ở nhà thì thao thao bất tuyệt nói những chuyện không đâu. Có lẽ vì bạn muốn đem những chuyện bất mãn tích lại ở cơ quan thổ lộ với người thân và bạn bè. Bạn có thể dựa vào hiện trạng để làm thay đổi mình. Nhưng bạn lại không chịu nổi đã kích, cả một thời gian dài cũng không có cách khôi phục lại bình thường. Bạn biết được những nhược điểm của mình, cho nên nói chung bạn không muốn mạo hiểm, làm bất cứ việc gì cũng đều không bị hỏng việc. Tuổi Dê, hành Thủy. Năm Quý Mùi Bạn giàu lòng đồng tình lương thiện, đối với khó khăn của người khác có thể sẽ rơi nuớc mắt. Ở cơ quan đơn vị, bạn có thể có mối quan hệ quan chúng tốt, bạn cũng rất trân trọng vinh dự của bạn trong tập thể, bạn sợ mình bị lẻ loi. Khi bạn cảm thấy thích thú với một việc gì đó, thì đầu óc nghiên cứu của bạn đã làm bạn biến thành một người khác, bạn sẽ hành động mạnh dạn hơn. Bạn là người vững vàng chắc chắn, rất có cách nhìn thẩm mĩ, đôi lúc cũng có pha chút tâm thần. Tuổi Khỉ, hành Mộc. Năm Giáp Thân Bạn có năng lực giao tiếp rất tốt, vui vẻ thoải mái, có thể cùng sống hòa hợp với đủ các loại người. Trong bạn bè với nhau bạn thường biểu hiện sự khẳng khái của mình, cho nên làm cho người ta cố ấn tượng chẳng mất lòng ai. Ban thích hiếu động, đối với cái gì cùng hào hứng đều muốn tự tay mình làm thử. Vì thế bạn không thể nghiên cứu sâu bất cứ việc gì được lâu dài, vốn là chỉ lớt phớt qua bề ngoài cho xong. Bởi vì bạn thiếu hẳn chí hướng làm việc lớn. Bạn cảm thấy rằng chỉ có việc gì khó không quật ngã bạn mới chính là việc ghê gớm mà thôi, không cần phải vì nó mà chịu khó nhọc. Tuổi Gà, hành Mộc. Năm Ất Dậu. Bạn đối với người khác thân thiết nhã nhặn, tình cảm phong phú, vì thế dễ bị người khác giới cám dỗ. Do đôi khi bạn định ra cho mình mục tiêu không dễ thực hiện, rất có thể làm cho bạn trên những vấn đề lớn như yêu đương bị cản trở, thất bại. Lúc này, tốt nhất bạn không nên quá giữ ý kiến của mình. Chỉ cần bạn dùng thái độ khoan dung đối với mình và đối với người, thì có thể xử lí tốt một cách cẩn thận. Bởi vì bạn có năng lực và dũng khí về mặt này. Tuổi chó, hành Hỏa. Năm Bính Tuất. Bạn thiếu mất sự dí dỏm lí thú, đôi khi muốn thả mình đế hưởng thụ hết mức, nhưng lại băn khoăn quá nhiều. Bạn thường xuyên phát sinh sự đấu tranh trong tâm linh giữa cái bảo thủ và đổi mới, cho nên tính tình bạn không thật ổn định. Bạn có thể chịu được gian lao vất vả, ý chí kiên định, vì thế không phụ lòng mong đợi của người khác, có thể tạo ra những thành quả làm người ta vừa lòng. Bạn có tài lãnh đạo, làm việc quả đoán, là một người bề trên được người ta tôn kính. Tuổi Lợn, hành Hỏa. Năm Đinh Hợi. Bạn là người thẳng thắn, thành thực, không biết vòng vo quanh co, thiếu tính linh hoạt, cho nên gặp phải không ít phiền phức. Nhưng bạn rất tự tin, ngay thẳng, do đó có thể được người khác giúp đỡ. Bạn là người rất rộng rãi, lạc quan, đối với việc vụn vặt không hề tính toán thiệt hơn, có thể sống với mọi người với tâm tình thoải mái. Đối với sự bất hạnh của người khác, bạn có thể giúp đỡ chân thành, cho nên tình người trong bạn rất tốt. Nhưng bạn còn cần phải học hỏi cách xử thế linh hoạt, như vậy mới có thể tránh được nhiều phiền phức. Tuổi Chuột, hành Thổ. Năm Mậu Tí. Bạn có một đức tính tự tu dưỡng rất tốt, có niềm tin kiên trinh và trung thành đối với mình, đồng thời cố gắng làm cho hành động của mình phù hợp với những quy định. Bạn là người cần kiệm vun đắp gia đình, có phong cách của một "tao nhân mặc khách”. Trong việc giao tiếp, bạn có sự chọn lọc, không muốn kết giao với những người mình cảm thấy không chấm được, sợ rằng do điều này làm cho danh dự và nhân cách của mình bị tổn hại. Bạn là một người rất bảo thủ, xưa nay vốn không muốn tin vào những việc từng nghe, cũng cho rằng không cần có cái này cũng xong. Trên thực tế bản thân bạn cũng không có cách nào tưởng tượng ra được, cho nên bạn đành lòng tin tưởng vào cảm giác của mình. Tuổi Trâu, hành Thổ. Năm Kỉ Sửu Bạn có sự rèn luyện rất tốt, đối với tình yêu trưng trinh hết mực, thành thực đáng tin cậy, ngay thẳng thân thiết. Là nguời có lí trí rất mạnh mẽ, làm việc hết sức cẩn thận. Nhưng lại rất cứng nhắc, mọi việc đều làm theo quy định, vì thế bạn thường ít quan hệ qua lại với người khác, chỉ sống một cuộc sống đơn điệu trong vòng cuộc sống của mình. Cứ như thế mãi bạn có thể sẽ trở nên tự ti và trên đầu lưỡi lại không muốn thoả hiệp. Đồng thời bạn còn là một người thuộc phái bảo thủ ngoan cố. Trong lòng bạn chỉ có mục tiêu của mình, rất ít suy nghĩ đến những cái khác. Đó là vì bạn là người chỉ biết thiết thực, nhưng nếu quá mức thì hình ảnh của bạn sẽ bị bôi lên rặt một màu xám xịt. Tuổi Hổ, Hành Kim, Năm Canh Dần. Bạn là người có tính nôn nóng, dám nghĩ dám làm, tình cảm biểu lộ ra ngoài, mà lại không khôn khéo, bằng lòng giúp đỡ người khác. Những người xung quanh bạn, mặc dù không thích cách làm biểu hiện anh hùng của bạn, nhưng đôi khi vẫn xem bạn là anh hùng, họ cho rằng bạn là một nguời bạn nghĩa hiệp, thẳng thắn của họ. Nếu bạn có thể khắc phục được tính nóng vội, rất có thể làm nên sự nghiệp. Đương nhiên ở cơ quan đơn vị bạn còn được một người cấp trên ủng hộ và hiểu bạn. Cá tính của bạn có nhiều người lãnh đạo không thích. Tuổi Mèo, hành Kim. Năm Tân Mão. Bạn có tình cảm tế nhị, nhưng rất sâu kín không biểu lộ ra ngoài. Nhưng kết quả này rất có thể dẫn đến tâm lí bạn không cân bằng và tính tình không ổn định. Vì vậy, bạn làm bất cứ việc gì đều không có cách nào giữ được lâu dài, thường thường giữa đường vứt bỏ. Bạn vốn là người rất có lí trí, nhưng đôi khi bạn chỉ dựa vào trực quan để quyết định và kết luận, làm cho bạn khi đã đi vào sai lầm, thì mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác, lúc này nhất thiết bạn cần phải bỏ hẳn tính nôn nóng và hấp tấp. Tuổi Rồng, hành Thủy. Năm Nhâm Thìn. Bề ngoài bạn không hay tranh chấp với người khác, nhưng trái lại đều mang trong lòng mình nỗi bất phục dai dẳng, nên làm việc rất không thuận lợi. Mặc dù năng lực của bạn được cấp trên tín nhiệm, nhưng bạn đồng nghiệp khác lại cho rằng bạn là người rất khó tiếp xúc. Lòng kiên nhẫn của bạn rất có hạn, không giữ được nhiệt tình lâu dài, dễ dàng gặp trắc trở, thất bại. Một đời nổi trôi tương đối ghê gớm, bạn nên tìm những người tốt giúp đỡ, biện pháp tốt nhất là bạn cần phải tìm hiểu cách suy nghĩ của người khác. Tuổi Rắn, hành Thủy. Năm Quý Tị. Khi gặp phiền phức, bề ngoài bạn làm ra vẻ dường như không có việc gì. Không muốn để người khác khám phá ra. Làm bất cứ việc gì, bạn đều thận trọng, coi trọng kế hoạch. Một khi quyết định làm việc gì, không qua loa đại khái, tùy cơ ứng biến. Bạn thích bắt óc suy nghĩ vấn đề, sau khi suy nghĩ chín chắn kĩ càng mới đi đến kết luận. Bạn không muốn làm những công việc mà mình không thành thạo, vì bạn cho rằng đó là mạo hiểm, cuối cùng có thể là uổng công. Cách làm này của bạn để làm cho cơ hội bị tuột khỏi, cho nên không nên quá do dự, thiếu quyết đoán. Tuổi Ngựa hành Mộc, Năm Giáp Ngọ. Bạn là người nhanh nhạy dễ thích nghi hoàn cảnh, giỏi nói, tinh lực cũng khá. Sự trong sáng và khẳng khái của bạn đã trở thành hình tượng rất đáng chú ý trong bạn bè. Nhưng bạn hơi tỏ vẻ thích chơi trội, như trong sinh hoạt, bạn có phần lãng phí, xa xỉ và chịu chơi, nhằm mục đích để cho người ta đều biết đến bạn và ngưỡng mộ bạn. Bạn có tấm lòng rộng mở, đối với sự việc cũng có cách kiến giải của mình, còn có lòng chính nghĩa. Nhưng bạn cũng có tính buông thả. Tuổi Dê, hành Mộc. Năm Ất Mùi. Bạn hào hoa lịch sự, hiền lành, nhưng ngược lại trong lòng rất kiên cường. Bạn cho rằng mình quan trọng hơn người khác, cho nên khi bạn không vừa ý, thì bạn lại cảm thấy cô đơn. Đối với những kẻ đụng vào cuộc sống của bạn thì bạn sẽ phản kích lại một cách không thương tiếc. Nói chung, bạn có sức chịu đựng tương đối khá, thích sống trong một hoàn cảnh hài hòa, khẳng khái đem tất cả sức lực tài năng của mình cống hiến cho tổ chức và bạn về mình thấy tâm đắc. Đương nhiên, bạn cũng thèm khát nhận được vinh dự lớn ở trong họ. Khi nguyện vọng này không được thoả mãn, bạn sẽ quay đi một cách bi quan. Tuổi Khỉ, hành Hỏa. Năm Bính Thân. Nhưng bạn lại là một người không chịu nổi sự nịnh hót, vì thế bạn lại càng liều mạng để làm, cho nên có khi gặp phải sự đã kích Bạn dễ dàng đắc ý vênh váo, bị những sự việc trước mắt mê hoặc, kết quả sự trổ tài của bạn đôi khi trở nên rẻ rúng. Một khi sự việc thất bại bị quở trách, thì tâm tư và hứng thú của bạn bị sa sút ghê gớm, không dễ dàng khôi phục lại được ngay. Tốt nhất bạn nên bồi dưỡng cho mình thói quen và lòng nhẫn nại đối với sự vật một cách khách quan hơn. Tuổi Gà, hành Hỏa. Năm Đinh Dậu. Bạn có lòng hám hư vinh, hi vọng mình trở thành nhân vật chính trong con mắt của mọi người. Nhưng thời gian càng lâu, mọi người sẽ cho bạn là người không thực tế, mà chẳng qua chỉ nói trên cửa miệng mà thôi. Vì điều đó, bạn thường giận cháy ruột, thậm chí còn làm một số điều rắp tâm nho nhỏ để trả thù người khác. Bạn quá yêu bản thân mình, nhưng vì bạn có một số điều không thực tế, sẽ làm cho bạn bỏ lỡ nhiều cơ hội trước mắt. Tuổi Chó, hành Thổ. Năm Mậu Tuất. Bạn rất chán ghét những việc không hợp lí, chú ý tự mình tu dưỡng, khắt khe với bản thân, cho nên đã cho người khác một ấn tượng nghiêm túc và đứng đắn, thiếu tính hóm hỉnh. Cá nhân bạn không có quá nhiều tham vọng. Nhưng bạn đối với lập trường của mình rất kiên định, không cho phép người khác xâm phạm. Bạn rất có lòng đồng tình, đối với người hèn kém bạn sẽ chăm sóc, chiếu cố rất tốt. Chỉ cần bạn chú ý bồi dưỡng chí quyết đoán của mình, thì bạn sẽ nắm được nhiêu cơ hội tốt, dũng cảm đón nhận thách thức. Tuổi Lợn, hành Thổ. Năm Kỉ Hợi. Bạn là người nhiệt tình lạc quan, thích giao tiếp nhưng đôi khi vừa nghĩ đến việc giao tiếp có thể sẽ đem lại kết quả không tốt, bạn liền cảm thấy không biết làm như thế nào. Bạn có cách nghĩ lãng mạn, nhưng lại không thích mình quá theo đuổi, do đó hàng ngày thường làm lặp đi lặp lại những việc giống nhau, nên ngày lại ngày đã tích đầy những tâm tư tình cảm bất mãn trong lòng. Bạn có tính trực quan tương đối tốt, kiến giải hơi nông cạn, thiếu trí tưởng tượng, do đó làm việc thường thường bảo thủ ý kiến của mình. Bạn có vận mệnh tương đối tốt, trái lại không dễ vượt qua đuợc sóng gió (biến động xã hội), nên điều quan trọng là phải giữ được bình tĩnh. Tuổi Chuột, hành Kim. Năm Canh Tí. Bạn yêu cầu đối với mình rất nghiêm ngặt, thậm chí quá cứng nhắc. Bạn cũng tuyệt đối không cho bất cứ ai xâm phạm lòng tự tôn và lợi ích của bạn. Bạn đối mọi người hiền lành, nhưng lại không hề nói với ai những chuyện tâm tình. Bạn có khả năng làm việc, có độ thích nghi rất tốt, giỏi kết giao với các loại bạn bè, cho nên hi vọng thành công của bạn rất lớn. Khi bạn phát hiện mình sắp sửa bị mất đi cái gì, thì bạn sẽ vì thế mà lo lắng đến phát sốt lên. Bạn thích dựa vào trực giác của mình để phán đoán, không muốn nghe ý kiến của người khác. Tuổi Trâu, hành Kim. Năm Tân Sửu. Bạn có một nhược điểm rất lớn là từ chối một cách ngoan cố những lời khuyên trung thực của người khác, cho dù bạn rất thành thực và khiêm tốn, cần phải hiểu rõ điều đó không phải là lòng tự tôn và tự tin. Bạn là một người rất nôn nóng, muốn làm thì làm ngay, đã làm là muốn ra thành quả. Cũng giống như nhược điểm của bạn, nguồn gốc của nó là ở chỗ bạn luôn lấy mình làm trung tâm. Tuổi Hổ, hành Thủy. Năm Nhâm Dần. Trong thực tế bạn không muốn nói chuyện nhiều với người không ăn ý. Đối với bạn bè, bạn tỏ ra khẳng khái rộng rãi và khiêm tốn. Bạn có tính ỷ lại đối với bạn bè và người thân, không muốn mất họ, cũng rất chú ý đến cách nhìn của họ đối với bạn. Để giành được tình cảm tốt đẹp của họ, bạn thường phải thỏa hiệp, vì vậy bạn có mặt thuần phục (hiền lành). Bạn cần phải chú ý tính tự ti của bạn, vì nó có thể làm cho bạn trở thành một người lẻ loi. Tuổi Mèo, hành Thủy. Năm Quý Mão. Nhưng bạn là người lương thiện, có thể lượng thứ người khác, cho nên mọi người đều nói bạn là người tốt. Bạn không thích tranh giành với người khác, mà có thể nhường nhịn, có thể chơi rất thân với đủ mọi loại người. Tinh tình thì lúc tốt lúc xấu, khi bầu nhiệt huyết trào dâng thì có thể làm tốt hơn người, nhưng khi tính tình giảm xuống thì đã sai là không sửa, cứ theo đường sai mà trượt luôn. (Đã sai cứ để sai luôn) Loại người này đều có bản năng phòng vệ, khi bị phê bình thì sẽ lập tức sửa chữa khuyết điểm của mình luôn. Kết quả làm cho mình trở thành nhạy cảm, nhưng thường về sau này lại làm thương hại người khác. Cho nên bạn không thích hợp làm các công việc như đàm phán với người khác, hòa giải. Bạn có con mắt nhìn nhận, nhưng thiếu ý chí kiên cường, bỏ lỡ nhiều thời cơ cực tốt. Tuổi Rồng, hành Mộc. Năm Giáp Thìn. Đối với công việc của mình, bạn rất thành thạo vạch ra kế hoạch, không thích làm việc lúng túng như thợ vụng mất kim. Bởi vi bạn vẫn thường đứng trên lập trường của người lãnh đạo. Khi kế hoạch đã định rồi, bạn sẽ đích thân bắt tay làm. Bạn là người tình cảm hướng ngoại, rất hiếu động. Mặc dù bạn thích sai khiến người khác, nhưng quan hệ quần chúng vẫn rất tốt, cho nên người ta cũng vui vẻ hợp tác với bạn. Nhược điểm của bạn là tính tự kiềm chế kém, làm việc có tập quán xấu là "giữa đường vứt bỏ", hay thay đổi mục tiêu của mình. Tuổi Rắn, hành Mộc. Năm Ất Tị. Bạn tính nết ôn hòa, thanh thoát thoải mái có độ lượng lớn, nhưng đôi khi không tránh khỏi đa nghi. Bạn không thích người khác nhìn thấy toàn bộ nội tâm của bạn. Bạn thường hay thay đổi cách sống của mình, tránh sự chú ý của người khác. Bản năng phòng vệ này khi bạn không vừa ý thì càng lộ ra rất rõ ràng. Đây là mặt lòng dạ bạn không rộng rãi. Làm bất cứ việc gì bạn đều suy nghĩ rất chu đáo, âm thầm hoạch định tốt kế hoạch, đồng thời không biết làm dự định tột cùng. Phương pháp suy nghĩ của bạn thường giàu tính mềm dẻo, bởi vì bạn luôn luôn có một hiệu quả nghệ thuật, làm cho sự việc từng tí một bước lên đỉnh cao. Bạn xem cách làm này như là một lạc thú của cuộc sống. Tuổi Ngựa, hành Hỏa. Năm Bính Ngọ. Bạn là người nhiệt tình sôi nổi, dí dỏm, thoải mái, rất có uy tín trong bạn bè. Bạn ham thích sự vật đẹp đẽ, về dáng vẻ bề ngoài và cách ăn mặc luôn luôn kén chọn một số kiểu dáng mới mẻ làm cho người ta chú ý, vừa đuổi kịp thời đại vừa không rơi vào tầm thường. Bạn luôn luôn nghĩ để cho mình thành tự nhiên thoải mái, có cá tính. Nhược điểm của bạn là trải qua nhiều lần thất bại, cũng không dám kiểm tra lại sai lầm của mình, mà vẫn cứ tôi làm theo cách của tôi, cho nên người ta thường xem bạn là một con người kì quặc. Tuổi Dê, hành Hỏa. Năm Đinh Mùi. Bạn thích nghiên cứu và đổi mới lại có lòng kiên nhẫn tương đối tốt, cho nên bạn làm vlộc rất thiết thực sẽ vững vàng tiến lên phía trước. Bạn có năng lực giám định và thưởng thức nghệ thuật tương đối khá, mà lại thích cuộc sống có mang màu sắc lãng mạn. Bạn làm như vậy là muốn bổ xung thêm cho mình để tránh những lức cô đơn, lẻ loi. Nhưng một khi gặp phải tranh chấp thì bạn lại bộc lộ ra lúng túng không biết xử lí ra sao. Bạn thiếu hẳn khả năng phối hợp nhịp nhàng cần thiết trong quan hệ giữa người với người. Tuổi Khỉ, hành Thổ. Năm Mậu Thân Bạn là người làm việc vững vàng, hiệu suất làm việc cao, lại không xuất hiện sai sót. Bạn có đầu óc phán đoán rất khá, làm việc giàu tính mềm dẻo, đối với bất cứ việc gì đều có thể tùy cơ ứng biến. Mặc dù năng lực làm việc của bạn rất khá, nhưng rất dễ sinh ra buồn chán, bởi vì bạn đối với bất cứ việc gì đều thiếu tính kiên nhẫn, Bạn nhanh nhảu, nhưng dễ qua loa đại khái, suy nghĩ chưa chín muồi đã bắt tay làm, cho nên chất lượng công tác của bạn không thật lí tưởng. Bạn là người rộng rãi thoáng đãng và dí dỏm, khả năng giao tiếp tốt, lão luyện khôn khéo, thường mọi việc đều suôn sẻ. Nhưng khi tâm tư không tốt, lại bị lột mặt nạ, thì bạn sẽ trút tất cả trách nhiệm và bực tức lên đầu người khác, kết quả làm mất đi sự tin cậy của một sồ bạn bè. Bạn sành sỏi lợi dụng cơ hội, nếu bạn có thêm một chút tinh thần làm thực sự thì nhất định có thể thành công. Tuổi Gà, hành Thổ. Năm Kỉ Dậu. Bạn có phẩm chất tốt, tư tưởng kiên định, là người có đức tín kiên định. Làm bất cứ việc gì đều không muốn dựa vào người khác. Đôi khi những hành vi của bạn có mang chút tự tư tự lợi. Bạn thích điều tra nghiên cứu, thích chính xác, kết quả là đôi lúc lại cố tin những lời đồn đại, vô tình lại có thể đem bí mật của người khác tiết lộ ra cho nên bạn cần phải thật sự giữ mồm giữ miệng, để tránh vì nhiều lời mà chuốc lấy phiền hà. * Tuổi Chó, hành Kim. Năm Canh Tuất. Bạn đối với những cái không thuận lợi của mình thật ra không để ý lắm. Nguyên tắc sống của bạn là giữ niềm tin của mình, dù có thất bại cũng sẽ không thay đổi. Bởi vì bạn chính là bạn, bạn là độc lập, khác với mọi người. Kết quả là đôi khi bạn đã để lỡ những cơ hội ngay trước mắt. Cho dù bạn luôn bám giữ cái của mình một cách ngoan cố, nhưng bạn vẫn là người có lòng chính nghĩa rất mạnh mẽ, bạn không bao giờ làm những việc "ích kỉ hại nhân". Tuổi Lợn, hành Kim. Năm Tân Hợi. Tính nết của bạn cởi mở, tràn ngập tình người, thường rất khẳng khái giúp người khác. Bạn có ý chí kiên cường, chỉ cần định ra mục tiêu thì sẽ không ngại khó khăn, hăng hái tiến lên, một lòng một dạ làm đến cùng. Nhưng đôi khi tỏ ra nôn nóng dẫn đến thất bại. Trước khi hành động, bạn thường không suy nghĩ thật kĩ càng nhiều, nhưng sự ngoan cường của bạn có thể làm cho bạn giành được một số thành công. Bạn thích tự lực cánh sinh, nhưng lại thiếu tính ỉinh hoạt, trở nên cứng nhắc. Tuổi Chuột, hành Thủỵ. Năm Nhâm Tí. Bạn là người tu dưỡng rất sâu sắc, đối với người rất hòa nhã, từ trước đến nay không hề lãng phí tiền của, nhưng với lời khuyên và xúi bẩy của người khác, cũng có thể bỏ tiền ra mua một số đồ dùng xa xỉ. Trong bạn bè, bạn có mối quan hệ rất tốt, thường hay hòa giải các tranh chấp trong bạn bè. Điều đó không chỉ là do bạn giỏi thuyết phục người khác, mà còn là từ trong lòng, bạn không muốn để mất họ. Người thân và bạn bè chiếm một vị trí nhất định trong cuộc sống của bạn. Bạn là một người có lòng đồng tình khá mạnh. Sự đau khổ của người khác có thể làm cho tâm tư của bạn hàng mấy ngày không yên. Bạn rất cả gan, khi cảm thấy nguy hiểm đến, bạn sẽ tâm thần bất định, đôi khi cảm giác của bạn đã lừa dối bạn làm cho bạn khiếp sợ. Bạn thường nhắc nhở đề phòng bao giờ cũng tốt hơn không đề phòng. Một khi sự việc đã xảy ra thật sự thì chân tay bạn sẽ bắt đầu lóng ngóng. Cuối cùng chịu khuất phục sức ép đó. Tuổi Trâu, hành Thủy. Năm Quý Sửu. Sự thành công về sự nghiệp của bạn, ngoài việc bạn làm việc thực sự ra, còn có một nguyên nhân nữa là bạn có con mắt giỏi phân biệt sự vật, nói cách khác là bạn không đến nỗi mắc sai lầm về đường lối. Bạn là người không muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt mình. Nhưng đôi khi bạn lại có thể nói ra nhiều đạo lí để thuyết phục người khác rất khách quan. Những người xung quanh đều có lời bình luận tốt về bạn, có không ít người muốn đem những chuyện trong lòng họ để nói với bạn. Khi bạn nghe được nỗi bất hạnh của người khác thì bạn sẽ giúp họ một cách chân thành. Tuổi Hổ, hành Mộc. Năm Giáp Dần. Bạn không phải là loại người tự cao tự đại, lúc bình thường đối đãi với người khác rất ôn hòa. Đối với người hèn kém sẵn sàng giúp đỡ, khi cần thiết có thể làm những việc to tát, vì thế bạn là người khẳng khái. Nhưng khi gặp người làm thương tổn lòng tự tôn của bạn, thì bạn có thể tỏ ra rất ngạo mạn. Trước khi đi đến kết luận, bạn sẽ suy nghĩ rất chu đáo, cho nên kết luận thường rất chính xác, giành được sự tin cậy của người khác. Bạn rất lạc quan, nhưng đôi khi lại tỏ ra cô đơn, lẻ loi. Khi cảm thấy ý đồ to lớn khó triển khai, để thoát khỏi cảnh bế tắc, bạn sẽ đi tìm một sự việc mới mẻ. Chỉ cần bạn biết nhẫn nại, bạn sẽ giành được thành công mĩ mãn. Tuổi Mèo hành Mộc. Năm Ất Mão. Bạn là một người làm cho người ta thích, không lo không buồn, từ chỗ không cãi nhau với người khác đến có thể cùng sống thân mật với bất cứ ai. Nhưng bạn là người không thích ứng với hiện thực lắm. Đôi khi bạn trốn tránh hiện thực, nhát gan. Nhưng đôi khi bạn cũng có thể dám làm việc to lớn trở thành hồi kí vô cùng khoái trá của bạn. Bạn có óc tưởng tượng phong phú, tình cảm tế nhị. Thường thường bạn có thể đưa ra những phát minh nhỏ, vật phẩm nhỏ để tỏ ra sự thông minh khéo tay của bạn. Nhưng bạn không chịu khắc khổ nghiên cứu sâu, thường là được chăng hay chớ, bởi vì bạn thích tự do tự tại. Tuổi Rồng, hành Hỏa. Năm Bính Thìn. Khi tâm tình bạn thoải mái, bạn có thể đi thực hiện kế hoạch của bạn, trái lại thì bạn tỏ ra như người giận dữ. Khi bạn nghĩ ra kế hoạch thì bạn tỏ ra tinh lưc dồi dào và nhiệt tình đầy đủ. Nhưng khi gặp cản trở, thất bại thì tinh thần hăng hái xông lên phía trước ấy đã tiêu tan đi không đế lại một chút bóng hình, toàn bộ kế hoạch đã bị giữa đường vứt bỏ và kết thúc. Lúc đó bạn lại chuyển điểm nóng sang kế hoạch khác, lại một lần nữa triển khai ý tưởng tràn đầy hoài bão lớn. Có điều là bạn phải cẩn thận, làm như vậy sẽ làm cho người ta cảm thấy bạn chỉ là người nói suông, người hay khoác lác, cho nên bạn cần phải sửa chữa nhược điểm này. Tuổi Rắn, hành Hỏa. Năm Đinh Tị. Bạn mong muốn mình có tinh thần khiêu chiến, trong mạo hiểm thu được mùi vị hạnh phúc vui vẻ. Nhưng một khi gặp được giờ phút này, khả năng phòng vệ của bạn lại làm cho bạn tránh một cách thận trọng. Kết quả là trong bất cứ việc gì bạn đều không gặp phải những đả kích quá lớn, hầu như bạn bẩm sinh chính là người may mắn. Trong con mắt người khác, cuộc sống của bạn làm cho một số người thèm muốn, nhưng bản thân bạn thường không cảm thấy thoả mãn. Chí tiến thủ của bạn luôn luôn dắt dẫn bạn từ hiện trạng tách ra, sau khi cách một khoảng cách thì bạn lại tự động co cụm lại. Nhưng khi bạn có đầy tinh lực làm việc, thì bạn lại mới thật sự hiểu hết niềm vui này, mới nhìn thấy được tài năng của bạn. Do đó bạn cảm thấy đây là cuộc sống vui vẻ nhất của bạn, nhưng mong bạn không nên xem nó chỉ là hồi ức đẹp đẽ, mà nên xem là sự bắt đầu tốt đẹp. Tuổi Ngựa, hành Thổ. Năm Mậu Ngọ. Bạn yêu thích tự do, có tu dưỡng tương đối tốt. Chân thành đáng tin cậy, vững chắc ngay thẳng. Nhưng bạn rất thích người khác đều chú ý đến bạn, ngược lại bạn không dám chịu đựng gian lao và làm việc cần thiết. Bạn luôn luôn đợi chờ có vận may đến với chính mình. Đặc biệt bạn chán ghét những sự việc nhàm chán, không muốn làm những công việc có tính trùng lặp. Một khi bạn ý thức được mình bị ràng buộc thì sẽ tìm mọi cách để vùng ra khỏi, cho nên bạn thường xuyên thay đổi công tác của mình. Tuổi Dê, hành Thổ. Năm Kỉ Mùi. Bạn không có tài hoa đáng làm cho người khác hâm mộ, lúc bình thường bạn tỏ ra do dự không quyết đoán, hơi có tính khí của đàn bà, thường thường nghe theo người khác, nhưng đo phải là luc bạn bằng lòng. Bạn không có những dục vọng quá cao, không biết hợp ý với xung quanh, mà lại thiếu hẳn lòng kiên nhẫn cần thiết. Bạn thà đi tìm sự bình an thuận lợi, chứ không muốn xông vào việc thị phi, cho nên không có cách nào tạo ra được thành tích lớn, chiu đựng nhiều gian nan vất vả. Giá mà bạn có thể có một chút dã tâm, thì sẽ nắm được cơ hội thành công. Tuổi Khỉ, hành Kìm. Năm Canh Thân. Ý thức tự ngã của bạn rất mạnh, thậm chí đôi lúc có chút tự tư tự lợi làm những việc xảo trá một cách không tự giác. Cá tính này của bạn lại làm cho bạn không muốn hợp tác với người khác, hòng chỉ dựa vào một cá nhân mình để hoàn thành những việc lớn lao, đối với việc đó bạn rất tự tin. Bạn dễ sinh ra tâm tư buồn chán, hàng ngày chỉ làm lặp đi lặp lại những việc giống nhau, bạn không chịu nổi, Đây là nhược điểm lớn nhất của bạn, nếu như thực sự nhận rõ, chăm chỉ cố gắng thì bạn có thể trở thành người tài cao. Tuổi Gà, hành Kim. Năm Tân Dậu, Bạn làm bất cứ việc gì đều xuất phát từ khía cạnh cá nhân mình, ví dụ như khi hòa giải sự tranh chấp của người khác, bạn thường hay nói : Tôi mong các bạn như thế này, như thế này vô hình chung bạn đã để lộ ra tính cách ưu việt của chính mình. Bạn tin tưởng mình là người không có việc gì không làm được, ngay cả khi thất bại, bạn cũng không muốn thừa nhận. Cái ý thức này về phương diện giao tiếp cũng sẽ mang lại cho bạn ảnh hưởng không tốt. Bạn bè của bạn sẽ cho bạn quá kiêu căng, mà không thể tha thứ cho bạn được, kết quả là bạn sẽ mất mặt mà đau đầu. Cho nên, bạn không còn cách nào khác chung sống tốt với người khác được. Tuổi Chó, hành Thủy. Năm Nhâm Tuất Bạn rất ghét những sự việc không hợp lí, tinh thần trách nhiệm và lòng chính nghĩa mãnh liệt làm cho bạn có một nhiệt tình và lòng hăng hái tràn trề đối với công việc mình muốn làm. Nhưng khi cấp trên của bạn cần bạn đi làm một sự việc không được quang minh chính đại lắm, bạn sẽ do dự, giữa lương tâm và nghĩa vụ không biết nên như thế nào. Cho nên, lòng trung thành của bạn thường bị lợi dụng, bởi vì đôi lúc bạn quá thuần phục một người nào đó. Sau khi bạn phát giác người nào đó đã lợi dụng bạn, thì bạn lại rất đau lòng, nỗi bi thương và lẻ loi cô độc đã giày vò bạn, làm cho bạn cảm thấy buồn tẻ. Bạn có thể chịu đựng được gian nan vất vả, nhưng lại thiếu năng lực đặt ra được mục tiêu. Sau khi mục tiêu được xác định, tài năng của bạn mới được phát huy. Tuổi Lợn, hành Thủy. Năm Quý Hợi. Bạn có lòng đồng tình mạnh mẽ, nhiệt tình đối với người khác, thích giao thiệp. Nhưng bạn quá dễ dàng bị rung động tình cảm, đôi khi tỏ ra rất ngây thơ lãng mạn. Bạn phải bồi dưỡng mình trở thành một con người tinh anh, biết vận dụng tốt những kinh nghiệm đã qua của chính mình. Đây sẽ là điểm mấu chốt làm bạn thành công. Đương nhiên bạn phải vứt bỏ tính ỷ lại của bạn, không nên lúc nào cũng luôn luôn bị động. THIÊN CƠ TIẾT LỘ : “THÔI BỐI ĐỒ” Theo truyền thuyết, quyển sách này là tập lời dự đoán chuyên bàn đến sự thay đổi các triều đại ở Trung Quốc và ghi chép những sự kiện lớn trong các thời kì đó. Quyển sách này bị các triều đại đế vương Trung Quốc cấm. Sợ có người đọc hiểu, tiết lộ thiên cơ, chiếm ngai vàng của họ. Từ đó có thể hiểu, bộ sách này số lượng lưu truyền ở trên đời cực ít. Những người các thời đại muốn làm những việc lớn đều lấy việc được nhìn thấy và đọc hiểu quyển sách này là phúc trời ban cho. Vì thế, sách "Thôi bối đồ" đã trở thành sách bí mật của đế vương, xứng đáng với danh tiếng của nó đúng với thực tế. Về việc sản sinh bộ sách này có nhiều loại giải thích, trong đó có một cách giải thích tương đối phổ biến là quyển sách này tập hợp thành sách vào thời triều Minh, tác giả là hai học trò của Lưu Bá Ôn. Truyền thuyết nói, năm ấy khi Lưu Bá Ôn đi lánh nạn, thu nạp được hai học trò giỏi, đã dạy thuật "Kì Môn độn giáp" khác với các thuật khác. Một hôm, Lưu Bá Ôn đi chơi ở nơi khác. Hai người học trò này đã bí mật bàn kế với nhau, muốn đến kinh thành để tỏ tài học của mình. Họ đã đến thành Bắc kinh đương thời lấy danh nghĩa chiêm bốc, tự xưng là mình có thể dự đoán được quá khứ và tương lai. Thế là, liền có cơ hội đối đáp ở Điện Kim Loan. Hai người trước mặt Hoàng đế và các quan, cùng ngồi quay lưng vào nhau. Một người dùng Thiên can suy diễn, còn người kia dùng Địa chi suy diễn, Một người dùng tranh để biểu thị, còn người kia dùng lời thơ để thuyết minh. Khi đang suy đoán, trên suy đến 500 năm, dưới suy đến 300 năm, thì thầy học của họ cũng vừa tới. Do đó, màn trò diễn này liền bị cắt đứt. Còn một truyền thuyết khác lại cho rằng tác giả của sách ”Thôi bối đồ” là do hai học sĩ nổi tiếng của triều Đường là Lí Thuần Phong và Viên Thiên Cuơng hợp tác làm thành. Truyền thuyết nói Lí Thuần Phong đã từng viết lời sấm "Thôi bối đồ" dự đoán vận số các đời sau Đường, các sự kiện quan trọng và biến đổi nhân sự. Lang Anh thời Minh đã từng lập ra một mục trong sách "Thất tu loại cảo" để nói về việc này, đoạn văn không dài, tiện đây chép ra như sau : "Thôi bối đồ", theo truyền thuyết là do Lí Thuần Phong, thời Đường làm. Tôi đã từng nhìn thấy nó tại nhà Vạn đô hiến Ngủ Khê, nó sâu xa khó mà biết được sự linh nghiệm rõ ràng ngay, vì thế nói rằng : "Tôi nhớ là nhà Tống cấm sách Sấm, người bị phạm ngày càng nhiều, Nghệ Tổ (tức Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận) đã phải đặc biệt làm lăn lộn thứ tự của sách này tạo thành sách khác lộn xộn hơn, đem truyền lần vào trong dân gian đến hàng trăm quyển, đế làm cho những người truyền cho nhau lơ mơ không rõ trước sau của nó, không thấy nghiệm trở lại, dần dần sẽ vứt bỏ. Việc đó đúng không ?” Ngũ Khê nói : "Phải, có thể bảo với mọi người không xem cũng được". Đoạn văn này ghi chép không giống với sách “Trình sử” quyển một của Tống Binh Kha mục "Nghệ Tổ cấm sấm thư" nói về "Thôi bối đồ". Theo “Trình sử” ghi chép Lí Thuần Phong và Viên Thiên Cương thời Đường cùng vẽ tranh sấm, dự đoán các sự việc biến đổi ở các thời đại, vẽ đến bức tranh thứ 60, thì Viên Thiên Cương đẩy vào lưng Lí Thuần Phong thôi không vẽ nữa, cho nên có tên tranh sấm là "Thôi bối đồ" (nghĩa đen là tranh vẽ khi đẩy vào lưng). Tống Thái Tổ sau khi lên ngôi liền hạ lệnh cấm sách sấm, nhưng vì sách này đã lưu truyền mấy trăm năm rồi, trong dân gian có nhiều quyển cất giấu khó có thể cấm hẳn được. Thế là ra lệnh lấy sách cũ đem làm đảo lộn thứ tự viết lại lộn xộn hơn. "Tống sử. Nghệ văn chí" có một quyển "Thôi bối đồ". Rất dễ nhận ra rằng sách "Thôi bối đồ" trong dân gian thời Tống lưu truyền rất rộng. Tống Thái Tổ biết rất rõ khó mà có thể cấm hẳn đuợc, cho nên đã cố ý sai người làm hỗn loạn thứ tự của nó để người ta khó phân rõ được chân tướng của nó. Nhưng cuối cùng trong dân gian có nhiều quyển được lưu truyền, như thế trong dân gian đã xuất hiện hai bản in của sách "Thôi bối đồ", một loại là bản gốc, một loại khác là bản biên tập lại sau khi đã làm lộn xộn thứ tự. Sách này có 60 bức tranh vẽ, mỗi tranh đều kèm theo thơ, tranh nét vẽ tinh tế, kèm theo dăm bảy câu thơ. Có thể nói sách này là bộ sưu tập đầy đủ của thơ sấm và tranh sấm. Cho nên, "Thôi bối đồ" trong truyền thuyết lại là một quyển sách không có đầu không có đuôi, chỉ có những việc lớn trong những năm từ thời triều Tống đến năm 2000. Bởi vì đương thời một tranh kèm một bài thơ, cho nên bộ sách này rất ít người có thể đọc hiểu, mà cũng chỉ có thể sau khi sự thực đã qua mới hiểu ra được. Nghe nói, bộ sách này đã dự đoán ra cuộc chiến tranh Nhật Bản xâm lược Trung Hoa. Tranh vẽ của nó là một mặt trời che mặt trăng, lời thơ của nó là "Nhật xâm thập từ hưu". Người vẽ tranh đã dùng mặt trời đại biểu cho là cờ mặt trời của Nhật Bản, người viết thơ đã nói đầu đuôi của sự kiện. Nếu như bắt đầu tính từ năm 1931 Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 đầu hàng vô điều kiện thì Thời gian đó vừa đúng là 14 năm. Các truyền thuyết có liên quan đến dự đoán nội dung của sách này có rất nhiều. Ví như đối việc tạ thế củạ ba vĩ nhân năm 1976. Việc trở lại quật khởi của Đặng Tiểu Bình v.v... Những truyền thuyết này đều đang chứng minh một điều : trong dân gian Trung Quốc quả thật đang tồn tại một quyển sách bí mật những lời dự đoán gọi là "Thôi bối đồ” như thế, hơn nữa quyển sách này chỉ chuyên dự đoán sự hưng vong của quốc gia. Ý nghĩa của truyền thuyết này là ở chỗ : các nhà hiền triết Trung Quốc từ thời gian rất sớm đã bắt đầu dự đoán vĩ mô đối với vận mệnh của dân tộc mình. Đây là một đề mục nghiên cứu vô cũng có giá trị. Làm một người dân của một dân tộc, tìm hiểu vận mệnh của dân tộc mình, sẽ có thể sản sinh một nhóm nhân tài, thậm chí một tập đoàn có sức mạnh tương đối để đẩy lịch sử phát triển về phía trước. Thời kì cách mạng Tân Hợi, nhiều người Trung Quốc có kiến thức đã tiếp thu tư tưởng của phương Tây, đã tĩnh táo nhận ra đế chế phong kiến không có cách nào làm cho dân tộc Trung Hoa thoát khỏi hiện trạng lạc hậu bị khinh nhục, liền có những chí sĩ cách mạng như mây ùn gió nổi đứng dậy tạo phản. Lại như năm 1973 Trung Quốc đang trong thời kì cuối của cách mạng văn hóa, chính trị và kinh tế đều hiện ra trạng thái hết sức mệt mỏi, Mao Trạch Đông vì sự phản bội của "người bạn chiến đấu gần gũi nhất" của ông là Lâm Bưu, cảm thấy thương cảm cực lớn. Mặc dù Chu Ân Lai hàng ngày bận rộn xử lí mọi việc, vẫn có xu thế một mình lực mỏng khó thành mọi việc, rất cần có một người có thực lực trí dũng song toàn giúp Chu Ân Lai chủ trì đại cục. Lúc này, trên các cây ở một số ít đường phố ngõ nhỏ của Bắc Kinh treo rất nhiều bình (lọ) pha lê trong lọ có cái còn chứa đầy chất lỏng màu đỏ. Dùng ngôn ngữ để diễn tả hành vi này chính là : Dựng lên Đặng Tiểu Bình, Tiểu Bình là hồng tâm" (có lòng tốt). Nghe nói trong sách "Thôi bối đồ" đã có tranh vẽ có nội dung tương tự. Rất dễ tưởng tượng ra, người dấy lên sự kiện treo bình lọ lên cây này, có thể là đã từng đọc qua quyển sách bí mật "Thôi bối đồ” này. Bất kể như thế nào, sự kiện này đối với Đặng Tiểu Bình phục chức lại lần thứ 2 đã tạo ra được dư luận biểu thị ý dân lòng dân. Ngày 20 tháng 2 năm 1973, Đặng Tiểu Bình từ nông thôn ở Giang Tây đã ở hơn 3 năm trở về Bắc Kinh. Hai mươi ngày sau, tức ngày 10 tháng 3, ông đảm nhận chức Phó , Thủ tướng Quốc vụ viện. Đến đây, chúng ta cũng không có cách nào lí giải nổi mối quan hệ diệu kì của "Thôi bối đồ" trong truyền thuyết với sự kiện này nữa. Có lẽ chỉ có những người thực sự xem hoặc đọc hiểu "Thôi bối đồ" mới có thể nói được rõ ràng hơn. Dự đoán Chu Ôn cướp Đường và Hậu Đường sau khi triều Đường bị diệt. Lời sấm : Ưng đăng Trung nguyên, mạc ngự bát ngưu. Tù thủy thủy địch, hữu huyết vô đầu. (Trung nguyên mênh mông xa xưa không chống nổi "Bát ngưu". Lội nước tắm rửa, có "huyết" không có đầu). Lời tụng : Nhất hậu nhị chủ, tận thăng hà, tứ hải mang mang tổng nhất gia. Bất đãn ngã sinh hoàn sát ngã, Hồi đầu hoàn hữu lí nhi hoa. (Một Hậu hai vua, đều chết hết, Bốn bể mênh mang vẫn một nhà Không những ta sinh còn giết ta, Quay đâu còn có Lí nhi hoa). Câu 1 và câu 2 của lời tụng "Nhất hậu nhị chủ, tận thăng hà, tứ hải mang mang tổng nhất gia" đã điểm tới sự diệt vong của nhà Đường. "Thăng hà" chính là ý lên trời, quy Tây (tức là chết, diệt vong). Một hoàng hậu và 2 vua triều cuối cùng của nhà Đường chính là Hà hậu, vua Chiêu Tông và Chiêu Tuyên. Như thế thì người diệt vong nhà Đường là ai ? Chính là Lương chủ Chu Ôn (Chu Toàn Trung). Còn câu "Ưng đãng Trung nguyên, mạc ngự bát ngưu" nghĩa là Trung nguyên mênh mông xa xưa chống cự không nổi "Bát ngưu". Ý "Bát ngưu" là gì đây ? Bát ở dưới, ngưu ở trên chính là "Chu". Còn câu "Tù thủy thủy địch, hữu huyết vô đầu’’ chính là chữ "Ôn”Sau khởi nghĩa Hoàng Sao, ngọn lửa giữa các phiên trân (vùng biên giới thời Đường) càng ngày càng hừng hực, mà còn vượt lên can thiệp vào triều chính. Trong đó, Tiết độ sứ Tuyên Vũ (cai trị Lương châu vì vậy về sau gọi là Lương) là Chu Toàn Trung (Chu Ôn) và Tiết độ sứ Hà Đông là Lí Khắc Dụng là người kiêu ngạo ngang ngược nhất. Lí Khắc Dụng còn đã từng có lần đánh vào Trường An. Sau khi Chiêu Tông kế Hi Tông lên ngôi, nhưng việc triều chính lại bị Tiết độ sứ Phượng Tường là Lí Mậu Trinh và Thái Giám là Lưu Quý Thuật quản chế. Tể tướng Thôi Dận mới triệu Chu Toàn Trung về để viện trợ triều đình, đem các quan trong triều hầu như giết sạch hết toàn bộ. Nhưng, cả triều đình hoàn toàn bị Chu Ôn khống chế, đến ngay cả Thôi Dận cùng bị Chu Ôn giết hại. Để tránh bị lễ tiết khác nhau khống chế, Chu Ônn mời Chiêu Tông dời đô về Lạc Dương. Chiêu Tông vốn không muốn dời nơi ở, nhưng lại không biết làm sao được vì những người ở xung quanh đều đã trở thành kẻ tâm phúc của Chu Ôn cả rồi, cũng không thể chủ động nữa Chiêu Tông đành phải mang theo hậu, phi, vương tử xuất phát từ Trường An ra đi vào năm Thiên Phục thứ tư, tức hạ tuần tháng giêng năm 904 dương lịch. Chiêu Tông, cuối cùng đã về tới Đông Đô, ngự điện thiết triều. Năm 904 dương lịch, đổi thành Thiểm châu hưng đường phủ, thụ phong Tưởng Huyền Vựng, Ban Ân là Tuyên chinh nam bắc viện sứ, Trương Đình Phạm là vệ sứ, Vĩ Chấn là Hà Nam doản kiêm Lục quân chư vệ phó sứ, triệu Chu Hữu Cung, Thị Thúc Tông là Tả Hữu Long Võ thống quân kiêm Chưởng túc vệ, Trương Toàn Nghĩa là Thiên Bình Tiết độ sứ, Chu Ôn là Tiết độ bốn trấn Hộ Quốc, Tuyên Vũ, Tuyên Nghĩa, Trung Võ, làm cho Chiêu Tông không hề có một chút chủ quyền, chỉ còn biết nhờ cậy vào người khác, người ta hừm lên một tiếng là ông ta gặt đầu, mọi việc đều chịu kiềm chế, buồn phiền vô vị nhưng không có cách nào khác, lại phong cho Việt Lưu là Việt Vương, La Thiệu Uy là Nghiệp vương hi vọng họ có thể nhiệt tình với nhà Đường để trả ơn giúp vua. Một số người như Lí Mậu Trinh, Lí Kế Chinh, Lí Khắc Dụng, Lưu Nhân Cung, Vương Kiến, Dương Hành Mật lại đưa hịch lui tới nhất tề lên án Chu Ôn đều lấy "phục hưng nhà Đường" làm khẩu hiệu. Chu Ôn mới muốn công kích Lí Mậu Trinh, nhưng lại nghĩ đến khí khái anh hùng của Chiêu Tông vẫn còn, e rằng để lâu sẽ xảy ra bất lợi không tránh khỏi sinh biến, bèn nghĩ ngay đến ý không chính đáng định phế bỏ ngôi vua của Chiêu Tông, sau đó mới lại cướp đoạt ngôi. Thế là bèn sai Phân quan Lí Chấn đến Lạc Dương bàn mưu cùng với Tưởng Huyền Vựng, Chu Hữu Cung, Thị Thúc Tông. Những người này chỉ biết có Chu Ôn không biết có Chiêu Tông, dứt khoát sẽ nghĩ ra một kế tuyệt vời. Đêm mùa thu năm 904 dương lịch, Chiêu Tông ngủ đêm ở Can Tiêu điện, Tưởng Huyền Vựng Dần Nha quan Sử Thái cùng hơn một trăm người nữa đến gõ cửa cung, mượn cớ có việc quân khẩn cấp, cần phải gặp Hoàng đế để tâu trình. Người bảo vệ cũng là Bùi Trinh vừa mới mở cửa, Sử Thái và hàng nghìn người đều ùa tiến vào. "Nếu có việc khẩn cấp tâu trình, việc gì phải mang theo nhiều binh lính như thế ?", Bùi Trinh nhìn thấy có việc khác thường, hoang mang hỏi. Vừa nói dứt lời thì chiếc cổ nõn nà đã bị một nhát dao, lăn ra chết ngay trên mật đất. "Đấng chí tôn ở đâu ?" Tưởng Huyền Vựng ở phía sau quát to. Chiêu Nghi Lí Tiệm Vinh nghe thấy tiếng hét liền trở dậy mở của sổ xem, chỉ nhìn thấy dao kiếm bốn phía sáng loáng, biết sự việc có điều chẳng lành rồi. "Thà giết chết ta đây, đừng làm thương hại mọi người", Lí Tiệm Vinh trong lòng sợ hãi đa phát ra tiếng kêu thê thảm, một mặt chạy đi đánh thức Hoàng thượng. Lúc này Chiêu Tông cũng đã tỉnh dậy, mặc áo ngủ đi chân không, từ tầm cung chạy ra. Vừa mới đến được cửa của tầm cung thì đối mặt gặp Sử Thái. Chiêu Tông đã biết tông là kẻ đến là không tốt, còn người tốt lại không đến, liền nhanh chóng quay mình trở lại rồi chạy, nhưng cửa đã bị chặn, ông đành phải chạy vòng xung quanh tứ phía của gian phòng, Sử Thái chạy đuổi theo ở phía sau không bỏ. Lí Tiệm Vinh ở phía bên nhìn thấy Hoàng thượng gặp nguy hiểm, tranh vượt lên phía trước vài bước. Không kịp kêu lên nữa vì mắt đã nhìn thấy đao của Sử Thái sắp đâm vào Hoàng thượng rồi, Lí Tiệm Vinh cũng không kịp nghĩ đến mình nữa, liền lao người vào, dùng toàn thân ôm lấy Hoàng thượng để chặn lưỡi đao của Sử Thái, đao không đâm đến Chiêu Tông, lại đâm vào Lí Tiệm Vinh, lúc đó Lí Tiệm Vinh chỉ kêu lên được một tiếng : "Bệ hạ hãy chạy nhanh đi !" đã lăn xuống đất mà chết. Lúc này Chiêu Tông sợ đến nỗi mặt không còn một tí máu, hoang mang không nhận được đường đi, dùng hai tay ôm đầu chạy lung tung chọc thẳng ra ngoài, chỉ còn nghe thấy phía sau tiếng hô "Giết !”, cổ thay đầu nhức hai mắt tối sầm. Không biết việc trời đất nào nữa. Trong "một Hậu hai Chủ" đã chết mất một "chủ". Lúc này, Chiêu Tông mới sống được đến tuổi 38, làm vua được 16 năm. Hà hậu nghe thấy tiếng người ở bên ngoài huyên náo, lại có lẫn tiếng kêu "giết", hoang mang luống cuống từ bên trong chạy ra, trông thấy quân sĩ tay cầm đao kiếm đứng đầy cả trong cung, Chiêu Tông đang nằm trên mặt đất. Hà hậu đến khóc cũng không kịp khóc, khiếp sợ đến nỗi mặt xám ngắt đi, không biết phải làm sao đây ? Trong lúc lúng túng đãnh phải bò trên mặt đất xin Tưởng Huyền Vựng tha thứ, lúc này Tưởng Huyền Vựng lòng cũng đã mềm đi đôi chút, nên đã thả Hà hậu. Thế là, Tưởng Huyền Vựng nói lừa với ở ngoài là Lí Tiệm Vinh và Bùi Trinh giết vua, sau đó lại giả mượn chiếu mệnh lập Huy vương tộ làm Hoàng thái tử, đổi tên là Chúc, theo dõi việc quân việc nước. Qua một ngày lại nói lừa ý chí của Hoàng hậu mệnh lệnh cho Thái tử Chúc lên ngôi trước linh cữu của Chiêu Tông. Lí Chúc là do Hà hậu sinh ra, lúc này mới 13 tuổi. Lí Chúc lên ngôi là Chiêu Tuyên đế, tôn Hà hậu là Hoàng thái hậu. Chiêu Tuyên đế không dám đổi năm đầu mà vẫn gọi là Thiên Hựu năm thứ 2. Chu Ôn đã quyết định cướp nhà Đường, đã vạch định xong kế sách, phái Tưởng Huyền Vựng mời các con của Chiêu Tông lại, cùng nhau yến tiệc ở Cửu Khúc trì. Trong yến tiệc Chu Ôn hết sức khoản đãi ân cần, đổ rượu cho các Vương tử say bí tỉ, đi đứng loạng choạng, sau đó lệnh cho võ sĩ bóp chết hết tất cả, vứt thi thể xuống hết Cửu Khúc trì. Chu Ôn chỉ một lòng một dạ muốn làm Hoàng đế, cũng không có thời gian để hỏi đến hành động của Triệu Khuông Ngưng và Dương Hành Mật. Chu Ôn chỉ một mực bảo Huyền Vựng đi đốc thúc Chiêu Tuyên đế, nhưng Huyền Vựng cho rằng việc này không nên tiến hành quá nhanh. Riêng Tuyên Huy phó sứ ghen tị Huyền Vựng đã ở trước mặt Chu Ôn nói xấu Huyền Vựng, Chu Ôn càng cho rằng Tưởng Huyền Vựng có vấn đề. Hà Thái hậu ở tại Tích thiện đường, biết Chu Ôn muốn ép con bà nhường ngôi, suốt ngày khóc sướt mướt, sợ tính mệnh mẹ con mình không bảo đảm, thế là ngầm sai cung nữ là A Thu và A Kiền đi ra tìm Huyền Vựng, xin ông ta sau khi Chiêu Tuyên đế nhường ngôi bảo toàn tính mạng của mẹ con bà. Sự kiện này bị Vương Ân biết được, Vương Ân bèn vu cáo Huyền Vựng, Liễu Xán, Trương Đinh Phạm trong dạ yến tại Tích thiện đường đã cùng với Hà hậu thắp hương án thề phục hưng ngôi báu nhà Đường. Chu Ôn không phân biệt thật hư liền lệnh cho Vương Ân bắt giết Huyền Vựng, sau đó tiến vào Tích thiện đường xiềng tay Hà Thái hậu đưa đi, thế là một hậu trong câu "Một hậu hai chủ" đã lên trời. Nhưng tai tiếng bên ngoài đối với Chu Ôn rất không lợi, Chu Ôn không dám cướp đoạt ngôi vua ngay lập tức, sự việc lại phải kéo dài mất một năm nữa. Mặc dù Chu Ôn trong lòng độc như rắn rết, nhưng lại rất chú ý đến hành động thực hư ở bên ngoài. Một mặt ông tiến hành cướp đoạt thực sự ép Chiêu Tuyên đế thoái vị một mặt lại giả vờ xin khất, đợi mọi người yêu cầu tương đối nhiều, tên cáo già Chu Ôn mới giả vờ đóng bộ rất xâu hổ mặc chiếc áo long bào vào, ngai vàng 289 năm của nhà Đường đã diễn ra giùng giằng đùn đẩy như thế tặng ngay tại chỗ cho tên kẻ cướp Chu Toàn Trung. Chiêu Tuyên đế bị phế làm Tế âm vương, dời đến ở Tào Châu, do quân lính của Chu Ôn canh giữ. Lại qua một năm, đã dùng rượu có thuốc độc đầu độc chết ông ta. Đã kết thúc câu "Một hậu hai vua đều thăng thiên” rồi. "Bốn bể mênh mang một nhà" đã tặng không cho Chu Ôn. Sau triều Đường, Trung Quốc tiếp tục rối loạn 53 năm nữa, được gọi với các tên "Ngũ đại”, "Thập quốc". "Ngũ đại” chính là để gọi Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, mà "Lương" ở đây chính là Lương của Chu Ôn. Sau khi Chu Ôn cướp nhà Đường, đổi quốc hiệu là Lương, là Lương Thái Tổ, dựng đô tại Khai Phong. Lúc này, thiên hạ bị chia cắt nhà Lương chỉ có một bộ phận gồm có Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc, Thiểm Tây và Hồ Bắc. Chu Ôn từ lúc cướp ngôi và sau khi lên ngôi, trước sau đều không lập Hoàng Hậu. Chiêu Nghi Trần thị, Chiêu Dung Lí thị, mới đầu do xinh đẹp nên được sùng ái, nhưng dần dần tuổi tác hơi cao, sắc đẹp kém đi, thì ông ta không yêu nữa, đem đưa họ vào lãnh cung và phi tần ở hậu cung được chọn lựa bất cứ lúc nào. Đương thời Chu Ôn có một người con giả (tức con nuôi) tên là Vương Hữu Văn, bởi vì anh ta rất có tài nghệ, Chu Ôn rất yêu thích anh ta còn tốt hơn đối với con đẻ. Khi Chu Ôn dời đô về Lạc Dương sẽ đem Biện Lương (tức Khai Phong của nhà Lương) giao cho Hữu Văn. Vợ Hữu Văn là Vương thị xinh đẹp đến mức "chim sa cá lặn", Chu Ôn tỏ vẻ hâm mô đối với cô ta liền mượn danh nghĩa là chăm sóc bệnh của ông ta, triệu cô về Lạc Dương để ở bên cạnh giúp đỡ người cha gia này ngủ. Vương thị chẳng những không thoái thác, trái lại uốn mình tuân theo, trổ hết mọi tài cán mê hoăc đối với Chu Ôn. Nhưng khi quấn quít với nhau Vương thị đã nêu lên yêu câu là muốn giang sơn của nhà Lương sau này sẽ truyền cho Hữu Văn. Lương chủ Chu Ôn vừa yêu Lưu Văn, lại yêu Vương thị, dương nhiên sẽ đáp ứng ngay. Nhưng ngấm ngầm lại có một người đàn bà phá hoại từ bên trong, mà còn rắp tâm làm một tính toán liều mạng một mất một còn. Người đàn bà này chính là Trương thị, vợ của Hữu Khuê, con trai đẻ của Chu Ôn. Trương thị trông cũng rất diêm dúa lòe loẹt, khi Vương thị chưa được gọi vào cung, cô ta là một người con dâu được Chu Ôn cưng chiều, hàng ngày giao hoan với Phụ hoàng. Một khi bị Vương thị cướp mất tình yêu của Chu Ôn đối với cô ta, Trương thị không thể không nổi ghen lên, thế là đút lót cung nữ, chuyên môn khống chế trộm ẩn tình của Vương thị. Năm 912 dương lịch. Một hôm Chu Ôn xua hết tả hữu đi, chỉ gọi Vương thị vào phòng, rất bí mật nói với Vương thị : "Bệnh của ta rất nặng rồi, e rằng không khỏi nổi, ngày mai con về Đông Đô triệu Hữu Văn đến, ta muốn dặn dò những việc sau này, để tránh dây dưa làm lỡ việc". Vương thị nghe xong vui vẻ đi ra, tự mình lên đường đế báo tin. Không ngờ, việc này người bí mật báo với Trương thị, Trương thị nghe xong vô cùng kinh sợ, lập tức đi tìm Hữu Khuê. "Quan gia đem quốc bảo giao phó cho Vương thị, đưa đến Đông Đô, nếu như đợi khi vợ chồng họ đắc chí thì chúng ta đều phải chết rồi !" Trương thị vừa nói vừa khóc. Hữu Khuê cũng sợ đến trợn mắt cứng lưỡi lại, lại nhìn thấy vợ yêu khóc lóc thê thảm, cũng tự nhiên rơi nước mắt. Khi đang bị bó chân vậy không biết làm sao, đột nhiên có một người bước vào. "Chỉ khóc liệu có ích gì, cần phải ra tay trước mới mạnh !”. Hữu Khuê ngẩng đầu lên nhìn, thì chính là bộc phu Phùng Đình Ngạc, ngơ ngác nhìn ông ta hồi lâu, đột nhiên nhạy cảm trỗi lên liền kéo ông ta vào trong phòng bí mật. Thế là kế hoạch đã quyết định xong. Hữu Khuê liền thay thường phục, lặng lẽ ẩn đến Tả Long hổ quân cung bí mật thương lượng với Thống quân Hàn Kinh. Hàn Kinh từ lâu đã nhìn thấy rất nhiều "công thần túc tướng" (tướng già có kinh nghiêm) mà còn bị giết chết, người người gặp nguy trong lòng đang bàng hoàng không yên. Việc đi đến này của Hữu Khuê chính hợp với lòng kẻ dưới này. Hàn Kinh phái nha binh 500 người đi theo Hữu Khuê cải trang lẫn vào cấm môn đợi đến khi đêm khuya vắng người, Hữu Khuê dẫn đầu xung phá cung môn xông thẳng vào phòng ngủ của Chu Ôn, các người hầu trong cũng nghe thấy có quân lính xông vào biết có việc lớn chẳng lành xảy ra, đùng một chốc là biến hết, chỉ còn lại một ông già, nghe tiếng ồn ào huyên náo mới vén cửa màn vội vội vàng vàng khoác áo đi ra, trông thấy trên nét mặt đứa con trai mình đầy sát khí, giơ kiếm tiến lại, liền cơn tức giận nổi lên. "Mày, tên nghịch tử này, tiếc là không sớm giết chết mày. Chẳng lẽ mày muốn làm phản ư ? Trời đất sẽ không dung tha mày ?" Chu Ôn thét lên những lời giận dữ. "Lão tặc, ta sẽ phanh thấy người ra làm trăm ngàn mảnh !". Hữu Khuê từ lâu đã không coi cha đẻ của mình ra gì, liền nói, còn Phùng Đình Ngạc từ lâu đà rút kiếm bước lên. Chu Ôn trong người không có vũ khí, trông thấy kiếm của người ta đã giơ đến trước mặt, chỉ đành co chân để chạy. Đình Ngạc bám sát theo sau ba lần ra kiếm đâm vào bụng Chu Ôn. Đáng tiếc là Chu Ôn vẫn có bệnh cũ trong người, vô cùng mệt mỏi, chạy được một lát thì mắt hoa choáng váng, lăn dùng ra trên mặt đất, Đình Ngạc nhảy lên trước một bước, kiếm đang trông tay liên thọc vào bụng Chu Ôn. Chu Ôn la lên một tiếng thảm thiết. Ô hô ! Thương thay ! Thế là đi đời nhà ma, hưởng thọ 61 tuổi (sinh năm 852, chết năm 912), Đã ứng nghiệm lời dự đoán của câu thứ ba lời tụng "Không những ta sinh còn giết ta”. Hữu Khuê giết cha xong, làm vua được 3 năm, sau đó vì chính biến không địch nổi đã tự sát, nhà Lương do Mạt đế kế vị. Lúc này con trai của Lý Khắc Dụng (người Sa Đà) là Lí Tồn Húc nhuệ khí oai hùng, Mạt đế luôn luôn bị Lý Tồn Húc đánh bại, cuối cùng bị Tồn Húc diệt vong, đây là sự việc xảy ra vào năm 923 dương lịch. Sau khi Lí Tồn Húc diệt xong Hậu Lương, đổi quốc hiệu là Đường, tức là Đường Trang Tông. Bởi vì Trang Tông họ Lí, quốc hiệu lại là Đường, cho nên gọi là "quay đầu lại vẫn còn có Lí nhi hoa". Phê chú của Kim Thánh Thán đối với hiện tượng này như sau : "Hiện tượng này là Chu Ôn giết Hà Hoàng hậu và hai vua Chiêu Tông, Chiêu Tuyên xong, tự lập triều đại của mình, chính là gọi "nhất hậu nhị chủ", chưa được bao lâu lại bị con thứ là Hữu Khuê giết, là ứng với ý câu thứ 3 trong lời tụng. Con của Lí Khắc Dụng là Tồn Húc đã đánh báo thù thay cha, diệt xong nhà Lương đổi tên quốc hiệu là Hậu Đường là ứng với ý của câu thứ tư trong lời tụng. Những lời của Kim Thánh Thán tuy đơn giản, ngắn ngủi, nhưng đại thể rất đúng. Dự đoán mười nước thời Ngũ Đại diệt vong Lời sấm : Thiên hữu nhật nguyệt, Địa hữu sơn xuyên. Hải nội phân phân, phụ hậu tử tiền. (Trên trời có vầng Nhật Nguyệt, dưới đất có núi sông Trong biển sôi động, cha sau con trước) Lời tụng : Chiến sự Trung nguyên ngật vị hưu, Kỉ nhân cao trẩm ngoạ kim qua. Hoàn trung tự hữu chân Thiên tử, Táo tận quần yêu kiến nhật đầu. (Chiến sự ở Trung nguyên đến nay vẫn chưa ngừng, Mấy người cao gối nằm chốn Kim qua. Trong thiên hạ tự có Thiên tử chân chính. Diệt hết quần yêu thấy mặt trời). Từ nghĩa trong các chữ của hiện tượng này để giải thích là thiên hạ trước loạn lạc, sau thái bình. "Trên trời có vầng Nhật Nguyệt, dưới đất có núi sông" là cảnh tượng của Vũ trụ, có ý kết thúc một chặng, kiểm thảo lại nhân loại và lịch sử. Liệu có ý tứ nào khác chăng, thật rất khó nói. Trên thực tế, lúc này lại không tìm ra có một người nào đó, một việc nào đó hoặc quốc hiệu nào đó có liên quan đến "nhật nguyệt" hoặc "sơn xuyên", Câu thứ ba "Hải nội phân phân" của lời sấm và câu thứ nhất và thứ hai "Chiến sự Trung Nguyên ngật vị hưu, Ki nhân cao trẩm ngọa kim qua" của lời tụng là chỉ sự hỗn loạn, có hai khả năng : Một là chỉ sự náo loạn của mười nước thời Ngũ Đại, hai là chỉ các cuộc chiến tranh một thời sau khi Tống Thái tổ xây dựng triều Tống, chưa thể ngừng lại. Bởi vì, nếu như chỉ thời hỗn loạn của mười nước thời Ngũ đại thì chữ "kim qua" trong "Kỉ nhân cao trẩm ngoạ kim qua" có thể tượng trưng nước ổn đinh nhất trong mười nước là hai nước Ngô và Việt của họ Tiền và Liêu dựng nên. Nếu như là chỉ thời chinh chiến tiếp tục sau triều Tống, thì câu thứ ba "Hoàn trung tự hữu chân thiên tử" của lời tụng được xem là có đầu mối ra. Ngược lại, nếu chúng ta cho rằng việc hỗn loạn này là chỉ mười nước thời Ngũ Đại, thì Lí Hậu chủ của Nam Đường hoặc Tiền, Liêu của Ngô, Việt là Thiên tử chân chính. Đương nhiên, tính khả năng của Lí Hậu chủ có thể lớn hơn, bởi vì Nam Đường trong mười nước là nước lớn mạnh nhất. Nhưng nếu đera Lí Hậu chủ nâng lên tầm Thiên tử chân chính, thì hầu như có vẻ hơi quá lời. Mặc dù Nam Đường xây dựng nước 29 năm, thời gian được xem là dài lâu nhất trong mười nước thời Ngũ Đại. Nhưng có điều kì lạ là câu cuối cùng "Tảo tận quần yêu kiến nhật đầu" của lời tụng còn câu "hoàn trung tự hữu chân thiên tử" có khả năng là chỉ Triệu Khuông Dận, không có khả năng chỉ Lí Hậu chủ. Nói "tảo tận quần yêu" ư ? Đương nhiên Triệu Khuông Dận có lẽ là thuộc điều đó, Triệu Khuông Dận bình định mười nước thời Ngũ Đại, thống nhất toàn quốc, đây là việc cả đến đàn bà đều biết, mới là "tảo tận quần yêu" phải không ? Lí Hậu chủ chỉ là nhà nghệ thuật đa sầu đa cảm, chỉ yêu người đẹp không yêu giang sơn, ông ta đâu có "tảo tận quần yêu" ? Ông ta chỉ để lại những lời "đoạn trường” đại loại như mấy câu "Đời người lắm hận như nước chảy dài về đông", về chính trị thực tế không tính là một nhân vật thành công. Nhưng kì diệu là ba chữ cuối chỉ ý là thiên hạ được nhìn thấy lại mặt trời (nhật đầu), bằng không Triệu Khuông Dận chẳng có dâu ấn của "kiến nhật đâu", bởi vì quận chúa đầu tiên của Nam Đường là Lí Thăng, có cái tên có chử "Nhật" ở trên đầu (viết theo chữ Hán), quận chúa thứ 2 là Lí Cảnh cũng có cái tên viết có chữ "Nhật” ở trên đầu. Việc này thật vừa khéo, "tảo tận quần yêu" và "kiến nhật đầu" bị ghép lại thành cùng một câu, thực là khó phân tích, khó giải. Còn như, Kim Thánh Thán lại nói : "Thái Tổ (tức Tống Thái tổ) có tên mụ là Hương hài nhi, người tay cầm chổi quét quần hùng". Tại sao "quần phong" (bày ong) lại là ”quần hùng" (những kẻ yêng hùng) được ? Ông không có cách nào tượng trưng cho người hùng được. Mà cả đến tên mụ của Triệu Khuông Dận liệu có phải là "Hương hài nhi", chúng ta cũng không đươc biết. Tóm lai, hiện tuợng này thực ra hiểu thế nào cũng được. Dự đoán Tống triều khai quốc Lời sấm : Thiên nhất sinh thủy, tư bẩm thánh võ. Thuận thiên ứng nhân, vô kim vô cổ. Lời tụng : Nạp sĩ tính Tiền tinh tính Lý, kì dư tương thứ triều Thiên tử. Thiên tượng nhất thống phó chân nhân, bất sát nhân dân cánh toàn tự. (Dung nạp kẻ sĩ chỉ có họ Tiền và họ Lí, còn lại đều là lần lượt đến chầu Thiên tử. Trời giao việc thống nhất giang sơn cho người vâng lệnh trời, có đức có nhân không tàn sát nhân dân). Bốn câu trong lời sấm chính là một cục diện cường thịnh của một nước lớn thế mạnh khai quốc. "Thiên nhất sinh thủy" là câu thứ nhất trong cổ Hà đồ của Trung Quốc "Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi. Địa nhị sinh hỏa, thiên nhất thành chi", là kết cấu đầu tiên tạo thành vũ trụ, tượng trưng cho sự mở đầu của thời đại mới. ”Tư bẩm thánh võ" chẳng qua chỉ tượng trưng một tư thế oai hùng thống nhất nước lớn, "Thuận thiên ứng nhân" chính nói lên rằng triều đại này là do thiên tử vâng lệnh trời để sáng lập, là thời đại của đạo làm vua, tất cả đều thuận ý trời, phù hợp lòng người. "Vô cổ vô kim” cũng là nói đây là một thời đại lớn xưa nay chưa từng có. So sánh với mười nước thời Ngũ Đại, triều Tống quả là người xưa nay chưa có. Nhưng so với hai triều Hán, Đường thì thực tế không thể nói là "xưa chưa có". Tóm lại, đây là lời của bốn câu ca ngợi có chút thổi phồng mối nghi ngờ. Đáng tiếc là bốn câu trong lời sấm không thấy có chữ "Tống” hoặc dấu tích xác định cụ thể của Triệu Khuông Dận. Nếu như không phải là triều đại đang luân phiên đến triều Tống, thì liệu chúng ta có thể nói triều đại đại nhất thống này nhất định là triều Tống được không ? Mặc dù, thực tế không nói ra được có triều đại khác phù hợp với tình hình và điều kiện này. Song, đúng lúc Thái tổ và Thái Tông thực hành dung nạp kẻ sĩ, Nam Đường Lí Dục bị Tống diệt, Ngô Việt vương cũng xưng phiên vào cống nạp, chính là sự thực nói trong câu một "nạp sĩ tính Tiền tinh tính Lí" và câu thứ hai "kì dư tượng thứ triều Thiên tử” của lời tụng. Câu thứ ba và thứ tư "thiên tượng nhất thống phó chân nhân, bất sát nhân dân cánh toàn tự" của lời tụng, ý nghĩa của nó càng thêm rõ ràng. "Thiên tượng nhất thống phó chân nhân” biểu thị Hoàng đế triều nhà Tống là chân mệnh Thiên tử. "Bắt sát nhân dân cánh toàn tự” chính là hành vi ứng với vua có đức có nhân. Dự đoán Nguyên triều khai quốc Lời sấm : Bắc đế Nam thần, nhất ngột tự lập. Oát nan hà thủy, yến sào bổ mạch. (Vua xứ Bắc thần xứ Nam, triều Nguyên tự lập. Nước sông Uanan, tổ yến làm bằng "mạch"). Lời tụng : Đỉnh túc tranh hùng sự bản kì, Nhất lang nhị thử phán tu du. Bắc quan toả thược tuy lao cố, Tử tử tôn tôn ngũ ngũ nghi. Nguyên Thái Tổ nổi dậy xưng Đế tại đầu nguồn sông Uanan (tức sông Aonân ngày nay), xưng hiệu Thành Cát Tư Hãn (Chengjiesihan), bắt đầu nghiệp bá của ông. Vì thế lời sấm có câu ba và bốn là "Oát nan hà thủy, yến sào bổ mạch", "mạch" trong câu này, theo tự điển Khang Hi nói là một tên họ xưa, thật ra không có nghĩa gì khác. Hiện nay xem nó trong câu này hầu như là chỉ loại cỏ mà chim én dùng để làm tổ. Từ năm 1206 dương lịch, Tống Ninh tông Khang Hi năm thư 2 Tiemuzhen đã xưng đế hiệu là Thành Cát Tư Hãn, từ đó tiêu diệt và thôn tính các bộ tộc, đánh bại Kim diệt Hạ, cả một miền hoang mạc Nam Bắc rộng lớn ông ta mặc sức tung hoành. Cho mãi đến năm 1278 dương lịch truyền đến Hốt Tất Liệt (Hubilie) hoành hành tất cả 72 năm, trước khi triều Tống còn chưa bị mất đứt đạo Giả Tự, thì triều Tống còn xưng thần với Kim và Mông. Vì vậy có câu "Bắc đế Nam thần" (Vua xứ Bắc, thần xứ Nam) trong câu 1 của lời sấm. Còn chữ "Nhất ngột" trong câu thứ hai "Nhất ngột tự lập” rõ ràng là chỉ quốc hiệu "Nguyên" của triều Nguyên (theo chữ Hán, chữ Nhất ở trên chữ Ngột ở dưới là chữ Nguyên). Đến năm 1278 dương lịch thì Hốt Tất Liệt đã thống nhất thiên hạ. Cả mảnh đất Á châu to lớn như thế mà hầu như hoàn toàn bị vó ngựa của ông ta giày xéo, hơn thế cương giới còn kéo tới tận Âu, Phi, nó là một triều đại mà từ trước và cả về sau không ai có thể vượt qua được. Vì thế câu "Nhất ngột tự lập" đã hoàn toàn ứng nghiệm. Câu thứ nhất và thứ hai "Đỉnh túc tranh hùng sự bản kì, nhất lang nhị thử phán tu du" của lời tụng chẳng qua là đang nói rõ sự nghiệp giành bá nghiệp thì người thắng làm vua, kẻ thua làm giặc. Nói chung, sự việc này không thể xem là lạ lùng. Vì sao nó lại nói là "sự bản kì", có lẽ chữ "kĩ' này không phải là chi "kì quái" mà là chỉ "lớn“ (to lớn). Nhất lang nhị thử (một sói đấu với hai chuột) cùng đấu chọi với nhau chỉ cần trong chốc lát đã có thể phân thư hùng (thắng thua) là việc đương nhiên. Một sói (nhất lang) này là chỉ triều Nguyên Mông cổ, chắc chắn là không còn nghi ngờ gì. Còn "nhị thủ" (hai chuột) phải là chỉ Hạ và Kim. Sói và chuột đều là động vật, là đại từ mà Thiên triều người Hán gọi khinh bỉ đối với dân tộc Di. Cho nên, Nam Tống tuy bị mất với Mông cố, Lí Thuần Phong lại không đến nỗi đem Nam Tống của người Hán liệt vào trong lời ví là hai con chuột. Câu thứ ba "Bắc quan tỏa thược tuy lao cố. Tử tử tôn tôn ngũ ngũ nghi" của lời tụng tử các mặt chữ đã có thể hiếu, nó chắc chắn là nói rõ triều đại người Nguyên, về võ công tuy đáng khích lệ, nhưng nó truyền cho con cháu lại chỉ có mười đời, vì năm cộng với năm là mười (tử tử tôn tôn ngũ ngũ nghi). Bắt đầu tính từ Nguyên Thế Tố Hốt Tất Liệt gồm có mười ngôi : Thế Tổ, Thành Tông, Võ Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Tấn Tông, Văn Tông, Minh Tông, Ninh Tông, Thuận Đế. Kim Thánh Thán nói : "Thái Tổ tên là Tiemuzhen. Triều đại nhà Nguyên gồm 10 đời vua. Rìu là Tie (sắt). Cán là Mu (gỗ). Cán rìu mười đoạn tức ẩn ý là mười đời vua". Xem tỉ mỉ chiếc rìu vẽ trên tranh, quả nhiên cán rìu chia làm 10 đốt. Không có lời của Kim Thánh Thán thì e rằng những điều mê hoặc trong bức tranh này vĩnh viễn là câu đố. Chiếc rìu này hiển nhiên tượng trưng cho Tiemuzhen và 10 Hoàng đế của triều Nguyên. Rìu quả nhiên là dùng "Tie" (tức sắt) để làm, còn cán cũng quả nhiên là ”Mu" (gỗ) đúng là hai chữ "Tie mu" tên của Nguyên Thái tổ Thành Cát Tư Hãn là Qiwowen Tiemuzhen. Điều kì diệu và khéo léo ở trong đó thực tế khó có thể tin được, cũng khó có thể không tin. Dự đoán Minh triều kỉến quốc Lời sấm : Duy nhật dữ nguyệt, hạ dân chi cực. Ứng vận nhi hưng, kì sắc viết xích. (Chỉ có Nhật và Nguyệt, dân trong thiên hạ bị cùng cực. Thuận theo vận mà nổi dậy, màu của nó là màu đỏ). Lời tụng : Chi chi diệp diệp hiện kim quang, Hoảng Hoảng lãng lãng chiếu tứ phương. Giang Đông nham thượng quang minh khởi, Đàm không thuyết kệ hữu chân chủ. Cuối triều Nguyên, Thuận Đế hoang dâm vô độ, thiên hạ đại loan giặc giã và trộm cướp nổi lên khắp bốn phương. Trong đó có quân khởi nghĩa của nông dân do Quách Tử Hưng làm chủ soái, chiếm cứ cả một vùng Hào Châu và Trừ Châu. Ông có một người thuộc hạ tên là Chu Nguyên Chương, người này chính là Minh Thái Tổ đã từng dẹp loạn đưa họ theo chính nghĩa, quét sạch quần hùng, đuổi hết người Mông cổ, thống nhất Trung quốc, khôi phục truyền thống người Hán là vua của đại Minh triều khai quốc. Thời Nguyên Chí Chính thứ 16, tức năm 1356 dương lịch. Chu Nguyên Chương chiếm được Kim Lăng, tự lập là Đại nguyên soái. Năm Chí Chính thứ 26, dìm Tống đế Hàn Lâm Nhi xuống sông. Năm Chí Chính thứ 28, Nguyên Thuận đế bỏ đại đô đi về Bắc. Vào năm 1368 dương lịch, tức năm sau của năm Chí Chính thứ 28, tháng Giêng, Chu Nguyên Chương lên ngôi tại ứng Thiên (tức Kim Lăng) đặt quốc hiệu là Minh. Câu thứ nhất của lời sấm viết "duy nhật dữ nguyệt” rất rõ ràng. Chu Nguyên Chương thống nhất thiên hạ, đặt quốc hiệu là Minh. Chữ Minh tức là do chữ Nhật và chữ Nguyệt tạo thành. Câu thứ 2 của lời sấm "Hạ dân chi cực", tức chỉ muôn dân trăm họ trong thiên hạ làm than khổ cực, khí số của triều Nguyên đã hết, Chu Nguyên Chương bèn "ứng vận nhi hưng" thành đại sự nghiệp của cách mạng dân tộc. Câu thứ tư của lời sấm "kì sắc viết xích", xích là màu đỏ cũng gần giống với màu "chu " (màu son), đã chỉ rõ Thiên tử "ứng vận nhi hưng" là "Chu" Nguyên Chương. Triều Nguyên do người Mông cổ đến thống trị Trung Quốc, dân tộc Hán bị đối xử phân biệt và áp bức chưa từng có xưa nay, lại thêm vương thất nhà Nguyên vô đạo, đời sống dân chúng cực khổ, là thời kì đen tối cực khổ của dân tộc Trung Hoa, Chu Nguyên Chương có thể tống cổ người Mông cổ đã từng thống trị Trung Nguyên 90 năm, bình định đại loạn của thiên hạ, thống nhất toàn quốc. Dân tộc Hán được nhìn thấy lại ánh mặt trời, mở ra cục diện thống nhất lớn lần đầu tiên kể từ Tống Thái Tổ trở lại đây, cho nên có câu trong lời tụng : "Chi chi diệp diệp hiện kim quang, hoảng hoảng lãng lầng chiếu tứ phương" (Cành cành lá lá hiện ánh sáng chói chang, lung linh tỏa sáng bốn phương trời). Còn câu thứ ba, thứ tư của lời tụng "Giang Đông nham thượng quang minh khởi, đàm không thuyết kệ hữu chân chủ", tức ám chỉ Thiên tử chân chính của Thiên hạ nảy sinh tử đất Hảo Châu, hơn nữa lại xuất ra từ cửa Phật. "Đàm không thuyết kệ" là bài học của các hòa thượng ở trong nhà chùa. Chu Nguyên Chương vốn từ nhỏ đã vào ra ở chùa Hoàng Giác. Đến khi 17 tuổi, cha mẹ đều mất cả, khổ cực không còn kế đế sinh sống, bèn cắt tóc vào tu ở chùa Hoàng Giác, tất thảy đã từng phải ăn cơm sư 8 năm trời, kể ra cũng là một vị hòa thượng kì cựu. Ông chạy đến theo Quách Tử Hưng là sự việc vào thời kì ông 25 tuổi. Vì thế nói "đàm không thuyết kệ xuất chân chủ" (Thiên tử chân chính xuất thân từ người đã từng tu hành theo đạo Phật, đã từng là người đọc kinh kệ). Dự đoán Thanh triều vào làm chủ Trung Nguyên Lời sấm : Hoàng hà thủy thanh, khí thuận tắc trị. Chủ khách bất phân, địa chi vô Tí. Lời tụng : Thiên trường bạch bộc lai, Hồ nhân khí bắt suy. Phiên li đa triệt khứ, trĩ tử bán khả ai. (Từ núi Trường Bạch đến, chí khí của người Hô không suy vong. Các đồn ải chắn phần lớn đều rút bỏ. Đầu trọc một nửa như trẻ con, đáng thương). Câu thứ nhất của lời sấm "Hoàng hà thủy thanh”, Hoàng hà là đại diện của Trung Nguyên. Trung Nguyên toàn là "Thanh" rồi, ý nghĩa câu này rất rõ ràng. Trung Nguyên đã do người Thanh thống trị. Thanh Thế tổ lập niên hiệu là "Thuận Trị", đã ứng với lời của câu thứ hai của lời sấm "Khí thuận tắc trị", toàn quốc khí (bầu không khí) đã "thuận" thì dần dần, từ từ đi vào "trị" đạo. Những lời này ám chỉ không thể gọi là không diệu kì. Mãn Thanh vốn là khách của triều Minh, bây giờ quân lính nhà Thanh vào cửa ải, đã làm Hoàng đế của Trung Quốc, khách to tiếng hơn chủ nhà, chính là đã ứng nghiệm với câu thứ ba của lời sấm "chủ khách bất phân” (không phân biệt chủ khách). Bởi vì người Hán thật ra chưa biến thành khách, cho nên không nói "chủ khách điên đảo" (Chủ khách đổi chỗ cho nhau). Triều Thanh truyền ngôi vua được 11 đời, cho mãi đến Tuyên Thống Phó Nghĩa thoái vị, đã ứng nghiệm với câu thứ tư của lời sấm :"Địa chi vô Tí". Câu này ám chỉ cần phải giải thích dài đồng một chút. Địa chi có 12 ngôi : Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Nay thiếu Tí (không có Tí, tức vô Tí), chỉ còn lại 11 chi, ám chỉ các vua nhà Thanh có 11 đời. Nhưng có thể có một cách giải thích khác là trong Địa chi sau Tí là Sửu, mà Thuận Trị thì đến năm Thuận Trị thứ 18 là dừng, năm này là năm Tân Sửu, tức là năm sau của năm Tí. Nhưng cách giải thích này tương đối miễn cưỡng, cho nên cách giải thích trước thông suốt hơn. Thanh Thái Tổ Nurhachi vốn chiếm cứ vùng đất sông Tùng Hoa, sông Áp lục, sông Tumen cũng chính là một miền dải núi Trường Bạch. Đến câu thứ nhất của lời tụng "Thiên Trường bạch bộc lai", ý chỉ quân lính nhà Thanh từ núi "Trường Bạch” đến. Từ Ngũ Hồ loạn Hoa cho đến Bắc Tống bị Liêu, Kim diệt, Nam Tống bị Nguyên diệt, triều Minh lại bị Thanh diệt, hiển nhiên âm hồn của người Hồ không tan ứng với câu "Hồ nhân khí bắt suy” (chí khí của người Hồ không bị suy vong) Những năm đầu triều Thanh, Chính phủ Thanh sử dụng hàng tướng để đánh Đông dẹp Tây, còn đáng mừng là Bình Nam vương, Cảnh Kế Mậu là Thanh Nam vương, Ngô Tam Quế là Bình Tây vương, là làm ba phiên, do ba phiên dần dần lớn mạnh, mà giá trị lợi dụng không còn nữa, do đó Thanh Thánh Tổ Khang hi đã xóa luôn họ, ứng với lời dự đoán "phiên lý đa triệt khứ” (các hàng rào chắn (phiên) phần nhiều đều bỏ hết). Chính phủ nhà Thanh thống trị Trung Quốc đã lệnh cho người Hán đều phải cắt trọc tóc ở phía trước đầu, kẻ nào không theo thì đánh chết không phải bàn. Cắt trọc đầu phía trước trông giống như trẻ con, cho nên gọi "trĩ tử bán khá ai” đóc cắt trọc như trẻ con thật đáng thương). Ngoài ra câu này vốn còn ý chỉ người Hán đáng thương xót. Dự đoán khai sinh Trung Hoa Dân quốc Lời sấm : Hán thủy mang mang, bất thống kế thống. Nam Bắc bất phân, hòa trung dữ cộng. (Hán thủy mênh mang, không có thống kế thống. Không phân Nam Bắc, đồng tâm hiệp lực). Lời tụng Thủy thanh chung hửu kiệt, đảo qua phùng bát nguyệt. Hải nội cánh vô vương, bán hung hoàn bán cát. (Nước trong (thanh) cuối cũng sẽ hết (kiệt), có trận lật đổ vào tháng 8 Trong nước sẽ không có vua, nửa tốt còn nửa xấu). Sau Từ Hi Thái hậu, triều Thanh đã hủ bại đến mức không chịu nổi một đòn. Quốc phụ Tôn Trung Sơn tiên sinh khởi xướng cách mạng, cuối cùng đã lật đổ Chính phủ Mãn Thanh lập nên Trung Hoa Dân quốc. Lí Thuần Phong và Viên Thiên Cương quả thật đã tính toán giỏi như Thần. Bởi vì sự ra đời của Trung Hoa Dân quốc là một cục diện và chính thể mà 5000 năm lịch sử của dân tộc Trung Hoa chưa từng có, cái đó không phải là tình huống mà Lí Thuần Phong quen với chính thể chuyên chế thống trị có thể lường trước được. Một quốc gia không có vua đối với họ, những người xưa sống trước đây 1300 năm mà xét thì thật sự là một sự việc đến nằm mơ cũng không mơ tới. Nhưng trong những lời dự đoán của họ, vậy mà đã viết võ đoán đến như thế, khẳng định đến như thế. Ý nghĩa ám chỉ của câu "Nam Bắc bất phân, hòa trung dữ cộng" và "Hải nội cánh vô vương” rất đơn giản, Trung Hoa Dân quốc là một chính thể dân chủ không phân biệt trời Nam đất Bắc, không phân biệt các chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Mẹo, chỉ có Tổng thống do nhân dân bầu cử lên, mà cũng không còn vua nữa. Câu thứ 2 của lời sấm "bất thống kế thống”, còn cần phải giải thích một chút, vị Hoàng đế cuối cùng của triều Thanh là Tuyên Thống, cho nên chữ "thống" của "kế thống" tức chỉ Tuyên Thống. Câu này sẽ có thể giải thích là : cũng sẽ không có truyền thống của cái gọi là quân chủ (vua) cha truyền con nối để kế thừa ngôi vua của truyền thống nữa. "Thanh thủy chung hữu kiệt" là chỉ "Thanh" cuối cùng đã "kiệt", nghĩa là triều Thanh cuối cùng đã kết thúc. "Đảo qua phùng bát nguyệt" là chỉ cuộc cách mạng Tân Hợi ngày 10 tháng 10 dương lịch. "Đảo" chính là ý cách mạng (chỉ lật đổ nhà Thanh). Còn ngày 10 tháng 10 dương lịch là Tuyên Thống năm thứ 3, tức là ngày 19 tháng 8 âm lịch, chính là "cách mạng" xảy ra vào tháng 8. Câu thứ tư của lời tụng "bán hung hoàn bán cát" gần giống với ý của câu “Cách mạng vẫn còn chưa thành công" của Quốc phụ Tôn Trung sơn. Chính thể chuyên chế của Mãn Thanh đã dễ dàng lật đổ, đây là "cát" (tốt). Nhưng chưa được bao lâu, bọn quân phiệt cát cứ, Nhật Bản kéo vào xâm lược, người Trung Quốc lại rơi vào thời kì đen tối, đây là "hung" (xấu). "BÀI CA BÁNH NƯỚNG" Lưu Bá Ôn có tính huyết thống, có hoài bão lớn, biết muốn cứu nước cứu dân làm một sự nghiệp lớn kinh thiên động địa, cần phải trước hết làm phong phú mình. Vì thế sau khi từ quan trở lại chân núi Hồng La, liền một lòng một dạ đóng cửa đọc sách. Ông không có sách nào không đọc, hơn nữa còn nghe biết rộng và ghi chép nhiều. Ông đã thu thập được rất nhiều sách cổ từ một hang động ở núi phía sau nhà, ông đã nghiên cứu rất lâu, đã tinh thông tất cả các sách có liên quan với thiên văn, địa lí và binh pháp, tất cả 5 loại thuật "Sơn, Y, Bốc, Mệnh, Tướng" hầu như ông đều thông hiểu, nhưng trong đó có mấy bộ sách có liên quan với quẻ bốc sử dụng phối hợp với binh pháp vẫn còn làm cho ông đau đầu suy nghĩ mà vẫn không thể giải được. Thế là Lưu Bá Ôn hạ quyết tâm xuất ngoại để du lịch các "danh sơn cổ tự”. Thăm và cầu xin các "dị nhân ẩn sĩ" giải quyết các vấn đề khó trong sách cho ông. Lưu Bá Ôn tôn Chu Điên làm thầy, sau đó qua sự chỉ dẫn của thầy đã tình cờ gặp được những người như Tống Liêm, Vũ Văn Thuần, Lỗ Đạo Nguyên, Triệu Thiên Thạch ở Tây Hồ. Cuối cùng, rút cuộc lại cùng với những người bạn này giúp Chu Nguyên Chương lật đổ nền thống trị gần một trăm năm của người Mông cổ sáng lập vương triều Đại Minh. Các trước tác của Lưu Bá Ôn lưu truyền cho đời sau, ngoài một số bài văn chương, còn có các trước tác mệnh lí do ông viết : "Trích thiên tủy" và lời dự đoán ”bài ca bánh nướng" mà quyển sách này muốn đề cập tới. "Bài ca bánh nướng"là kết quả tính toán ra của ông dùng thuyết "Tượng Vĩ" đế chiêm bốc đối với việc lớn của quốc gia trong tương lai, chỉ nói cho người ta biết sẽ có thể sinh ra việc gì, chứ không mảy may nhắc đến phương pháp tính ra kết quả này như thế nào. "Trích thiên tủy" lại hoàn toàn khác với "Bài ca bánh nướng". Trọng điểm của "Bài ca bánh nướng" nhắc đến là ở vận mệnh tương lai của quốc gia, nhân loại. Còn trọng điểm của "Trích thiên tủy" ban đầu lại đặt ở sự biến đổi vận mệnh tương lai của mỗi một người. Hơn nữa sách "Trích thiên tủy" không nêu lên vận mệnh của một người nào đó, mà hoàn toàn nói tính toán và suy lí như thế nào để suy đoán tiền đồ tương lai của bất cứ ai, nó căn cứ nguyên tắc trật tự vũ trụ của hệ Mặt trời, theo điều kiện thời gian không gian lúc sinh của con người để suy đoán một đời của con người. Chu Nguyên Chương lên ngôi vào tháng Giêng năm 1368 dương lịch tại Ứng Thiên (tức Kim Lăng) đặt quốc hiệu là Minh, Kiến Nguyên Hồng Vũ. Thế là Chu Nguyên Chương đã thành Minh Thái Tổ. Một hôm, Chu Nguyên Chương thượng triều nói với văn thần Tống Liêm : "Từ xưa đến nay, các đời đế vương, sáng nghiệp và xây dựng sự nghiệp lớn, lưu truyền lại muôn đời, nên cử hành một điến lễ để tế họ mới phải". Qua vài hôm, Chu Nguyên Chương dẫn Lí Thiện Trường, Lưu Cơ, Tống Liêm đến đến thờ đế vương các thời, tự tay dâng mỗi thân tượng của từng vị một chén rươu. Khi di đến trước thân tượng của Hán Cao Tổ, Chu Nguyên Chương đặc biệt dâng ba chén rượu, lại mỉm cười nói với thân tượng : "Lưu quân, Lưu quân ! Các vị khác trong miếu đương thời đều có hậu đài tựa núi, cho nên có thể kế thừa đế vị, vua thống trị thiện hạ. Chỉ có ngài và tôi, đều cùng giống nhau là không hề có một chút nền móng, chỉ dựa vào áo vải và tay không đế nhảy lên ngôi lớn, thực là rất khó khăn. Hãy cho phép tôi kính dâng ngài thêm hai chén rượu nữa !" Chu Nguyên Chương ra khỏi miếu thờ Hoàng đế các thời, nhân tiện đi đến đền thờ công thần các thời đại. Chu Nguyên Chương dừng lại trước một pho tượng đất, hỏi Tống Liêm : "Đây là người nào ?" "Là Trương Lương”. Tống Liêm không chút chần chử trả lời ngay. "Cái gì ? Ông ta là Trương Lương ! Đương thời người ta gọi họ là "Tam kiệt”, ông ta là người được Hán Cao Tổ tín nhiệm nhất trong ba người. Hàn Tín phong vương, ông ta biết rất rõ không thỏa đáng, lại không thể can ngăn, về sau, Hàn Tín phạm sai lầm, ông' ta lại không thể bảo đảm cứu công thần. Ông ta làm sao có thể tính là công thần. Chu Nguyên Chương nói với giọng giận dữ. Lúc này, Lưu Bá Ôn đột nhiên cảm thấy không an lòng. Lâu nay ông ta tự nghĩ mình là Trương Lương, Gia Cát Lượng, ông nghĩ Trương Lương giống như mình, ban đầu giúp Lưu Bang bình định thiên hạ, công lao thực không nhỏ, bây giờ nhìn thấy thái độ của Chu Nguyên Chương đối với công thần lại như thế. Xem ra Chu Nguyên Chương cũng giống như Câu Tiễn là người chỉ có thể cùng chung hoạn nạn mà không thể cùng chung hưởng phúc. Sau khi bãi triều, Lưu Bá Ôn xem đoán một hồi cho đời của mình. Ông hiểu được nên là lúc từ quan rồi. Thế là ông cũng suy đoán một hồi cho vận số của Đại Minh. Ngày thứ hai, khi Chu Nguyên Chương còn đang ăn bánh nướng ở trong nội điện, Lưu Bá Ôn bèn đến xin cầu kiến. Chu Nguyên Chương nghe được Lưu Bá Ôn đến cầu kiến, đột nhiên cũng nhanh trí vội vàng dùng chiếc bát đậy chiếc bánh nướng mới ăn có một miếng lại, sau đó truyền cho Lưu Bá Ôn đi vào. "Lưu Cơ, có việc gì mà trời vừa mới sáng sớm như thế này đã đến nội điện đây". "Thần từ khi khai quốc đến nay, thân thể ngày càng gầy yếu, muốn tâu xin cho phép cáo bệnh về quê nhà một thời gian"."Những... những ngày trở lại đây ông không được khỏe ư ? Có bệnh gì mà không thể ở trong triều để hưởng phúc ?" Chu Nguyên Chương sững sờ một lát. "Đấng vạn tuế hãy minh xét cho, thân quả thực có bệnh ở bên trong, hãy xin cho phép thần“. Ý ra đi của Lưu Bá Ôn dã quyết định. "Như thế thì..." Chu Nguyên Chương đảo đi đảo lại hai mắt rồi nói tiếp : "Lưu Cơ, ông xưa nay giỏi chiêm đoán, ông hãy đoán một tí xem sao. Cái gì đang bị đậy dưới cái bát này ? Nói đúng thì cho ông về nhà, nói sai thì không cho về". Trong việc này Lưu Bá Ôn là tay tài ba, liền gập đầu ngón tay lại đế tính, đã biết ngay ở bên trông là cái gì rồi. Cách tính toán mà ông dùng là phép tính của Mai Hoa tâm dịch do Thiệu Suất Lĩnh thời Tống phát minh ra, lợi dụng điều kiện thời gian không gian lúc đến, có thể tính đoán ra úp ở trong cái bát là cái gì. "Một nửa tựa Mặt trời, lại một nửa tựa Mặt trăng, đã từng bị Kim long ngoạm khuyết một miếng". Lưu Bá Ôn không một chút chần chừ trả lời. Bởi vì từ tượng quẻ suy đoán hiện ra, quẻ Thể là Càn, là vật hình tròn, quẻ Dụng là Cấn sinh trợ quẻ Càn, tất nhiên là vật có thể ăn được, trong quẻ Hỗ xem tình huống là tượng có miếng khuyết, cho nên Lưu Bá Ôn nói hình dáng của nó giống mặt trời lại giống mặt trăng, dù thế nào đều là tròn, lại khuyết mất một miếng, đương nhiên là Chu Nguyên Chương cắn, vì thế ông nói Kim Long cắn mất một miếng. Chu Nguyên Chương cười, cũng không nói, dừng một lát. "Thôi cho ông về nhà đấy ! ... Nhưng trước khi ông về liệu có thể tính cho ta xem số thiên hạ của họ Chu ra sao nhé ? Đây chính là nguồn gốc xuất xứ của "Bài ca bánh nướng". Bởi vì bắt đầu của câu chuyện vốn là từ một miếng bánh nướng bàn đi, vì thế người đời sau mới gọi nó là "Bài ca bánh nướng". Lời văn chính của "Bài ca bánh nướng" là dạng văn thể ca dao theo cách đối thoại. Lời lẽ ở bên trong của Lưu Bá Ôn, đều là giấu đầu giấu đuôi, khi sự việc chưa xảy ra, bất cứ ai cũng không thể mò ra rõ ràng như thế nào. Mỗi một câu nói của nó giống như một lời kệ, phải sự việc xảy ra quá lâu về sau mới có thể làm cho người ta bỗng nhiên tỉnh ngộ. Nó nói bắt đầu từ sau Minh Thái Tổ cho mãi đến triều Thanh bị lật đổ, sau đó còn có rất nhiều, rất nhiều sự việc đến bây giờ đều vẫn chưa xảy ra, cũng chính là nói nó dự đoán Trung Quốc thế kỉ 20 về sau, thậm chí thế kỉ 21, thế kỉ 22, thế kỉ 23 cho mãi không biết đến một thế kỉ nào nữa. Dự đoán vận số triều Minh Cơ đáp : Hoàng đế có vạn tử vạn tôn vì sao lại hỏi như vậy ?" Việc Chu Nguyên Chương quan tâm nhất, đương nhiên là vấn đề thiên hạ của mình, bất cứ ai làm Hoàng đế đều muốn biết triều đại của mình có thể kéo dài đến khi nào. Mọi người đọc lịch sử của Trung Quốc đều biết, giang sơn của triều Minh là kết thúc từ trông tay của Tư Tông (Do Kiểm) Sùng Trinh Hoàng đế. Năm Sùng Trinh thứ 17 (tức năm 1644 duơng lịch) Bắc Kinh bị Lí Tự Thành phá, Tư Tông tự thắt cổ chết. Mà Tư Tông là cháu của Thần Tông Hoàng đế, Vạn Lịch (Dực Quân). Rất rõ ràng là câu này của Lưu Bá Ôn là lời nói nước đôi, lí lẽ rõ ràng là một tài nịnh lấy lòng, nói triều Minh của Chu Nguyên Chương sẽ là nghìn thu vạn thế, mà trên thực tế câu nói này đã chi ra thiên hạ của triều Minh đến cháu của Vạn Lịch, Sùng Trinh là hết, chỉ là vì Lưu Bá Ôn không tiện nói rõ ra, lại không tiện dối vua, nên mới nói ra lời nó có thể hiểu theo cách nào cũng được. Dự đoán người Trung Quốc cắt tóc ** (Tiết vũ thủy. Thảo Mộc thoát (cây cối rụng lá) chữ Vương xuất thêm đầu. Mùa xuân tháng ba. Người đi trên đường đều một nửa sư. Những người đầu để tóc đằu trần đều bị đổ raáu (giết). Làm đổi thay cả trời đất (Thiên, Địa, Nhân gọi là tam nguyên) mà ta thường nghe. (Có văn bản gọi là lời gièm pha) Câu "Vũ thủy tiết. Thảo mộc thoát. Vương xuất đầu. Xuân tam nguyệt" có bản viết là "Sĩ thủy thảo đầu chân chủ xuất", ý của câu này chỉ cũng như nhau. Vũ thủy tiết. Thảo mộc thoát chỉ là ở chỗ ám chỉ ngoại hình của chữ ”Mãn" (theo chữ Hán). Vũ thủy tiết là tên của một tiết trong 24 tiết khí trong khí hậu học Trung Quốc, ông dùng tiết này để nhiễu loạn cách nghe nhìn của đọc giả mà thôi. Sự thực, chữ "Mãn" ở góc dưới phía phải là chữ "lưỡng" chứ không phải là chữ "Vũ". Nhưng không thể nói Lưu Bá Ôn không hiểu điều đó, mà là vì ông chỉ có thể biết "hình tượng". "Vương xuất đầu" một mặt là chỉ "chủ” chân chính xuất hiện, mặt khác là chỉ chữ "chủ" ở góc trên phía phải của chữ "Thanh". Lại thêm "Xuân tam nguyệt" chính là thời tiết Thanh minh, càng chỉ rõ chữ "Thanh" hơn. Cách biểu thị ngầm, chỉ điểm hình tượng bề ngoài đoán ra chữ này, mà không chú ý cũng không có cách gì chú ý đến kết cấu chính xác của chữ ở phần sau xuất hiện rất nhiều. Sau khi Đa Nhĩ Duyễn (Duoeryan) vừa vào cửa quan, lập tức muốn người Hán cũng giống người Mãn, thế là bèn hạ lệnh toàn quốc nhất luật phải cắt tóc. Gọi là cắt tóc là đem cắt trọc tóc phân nửa trước đầu, chỉ giữ lại tóc của phần nửa sau đầu, sau đó đem tết lại thành bím tóc. Với Pháp lệnh ”giữ đầu không giữ tóc, giữ tóc không giữ đầu" được chấp hành nghiêm ngặt và nhanh chóng, người Hán ở các nơi không chịu nổi kiểu mũ áo của "Thượng quốc”, đã chìm vào cảnh bị diệt hết, nên tới tấp phản đối cắt tóc, thà giữ tóc chứ không giữ đầu, thế là khắp nơi dấy lên cao trào mạnh mẽ của phong trào chống nhà Thanh. Binh lính nhà Thanh cũng dùng thủ đoạn tàn sát giáng lên đầu nhân dân các vùng Gia Định, Dương Châu, Giang Âm, Gia Hưng và Kim Hoa. Việc này không phải chính là "Lộ thượng hành nhân nhất bán tăng, Xích đầu đồng tử giai lưu huyết", bắt cắt hết tóc ở nửa đầu phía trước không giống một nửa sư thì là gì ? Cái gọi là "Xích đầu đồng tử" theo tôi nghĩ là chỉ người có kiểu tóc vẫn giữ nguyên không cắt cũng không đội mũ, người triều Thanh trên đầu đều đội kiểu mũ chòm, những người không tuân theo pháp lệnh cắt tóc đều bị sát hại. Có người giải thích nói là trên mũ của những người triều Thanh có tua mũ hình dáng giống như máu chảy, tác giả cho rằng nói như thế có vẻ khiên cưỡng. Thông thường, trên chân không đi giày chắng phải gọi là chân trần (xích cước) ư ? "Xích đầu" (đầu trần) rõ ràng là ở trên đầu không có thêm các đồ trang sức khác mới đúng. Nhà Mãn Thanh cưỡng bức dân chúng đi ngược tập quán để cắt tóc rõ ràng là làm trái với lẽ trời. Cho nên, "đảo trí tam nguyên, tam nguyên cũng chính là Tam tài : Trời, người, Đất (Thiên, nhân, Địa), "Đảo trí tam nguyên" có nghĩa là làm đảo lộn vị trí của Trời đất. Tóm lại chính là ngược lí. Dự đoán về thế kỉ 21 Một là, trước mắt chúng ta không có cách gì giải được câu đố này. Hai là, Độ chuẩn xác của những lời dự đoán này không đáng tin. Ba là (trong tình trạng tương đối tồi tệ) vạn nhất lời dự đoán này là lời bịa đặt thì sự việc của tương lai, đương nhiên không thể có khả năng ứng nghiệm, chắc chắn là không có gì đúng. Song chúng ta không có một chút căn cứ nào để đoán định kết luận nào là đúng. Chỉ có xin bạn đọc hãy từ trong lời dự đoán tiếp tục dưới đây tự mình nhận biết một cách thật tốt, có lẽ những bạn thông minh sẽ có thể chứng minh được những lời dự đoán này, Dưới đây, chúng tôi chỉ có thể đem bộ phận tương lai của "Bài ca bánh nướng" lưu truyền lại này sao trích lại như sau : (Vì tính chất chơi chữ mập mờ, hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, chứ không phải là nói sao hiểu vậy, cho nên đoạn này chỉ dùng âm Hán Việt ghi lại để bạn đọc tham khảo - ND) "Đông bái đẩu. Tây bái kì (cồ). Nam trục lộc (hươu). Bắc trục sư (sư tử). Phân Nam phân Bắc phân Đông Tây. Ngẫu ngộ dị nhân tại Sở quy. Mã hành vạn lí tầm an yết (nghỉ ngơi). Tàn hại trung nữ tứ mộc kê (gà). Lục nhất nhân bất thức. Sơn thủy đảo tương phùng. Hắc quỷ tảo tang xích thành trung. Trư dương kê khuyển cửu gia không. Cơ hoang linh hại tinh giai chí, dlệc tự phong đăng dân vật đồng. Đắc kiến kim long dân vật khai. Đao binh thủy hỏa nhất thời lai. Văn tiền thiên mễ vô nhân. Phụ tử (chết) vô nhân huynh đệ đài (khiêng). Kim xà bạn mã ngưu loạn giáp. Nhị thập bát tinh vấn nhân sĩ. Bồng đầu hữu nữ bồng đầu giá. ấp nhượng tân quân nhượng cựu quân.Đế viết : Hồ nhân chí thử vong phủ. Cơ viết : thủ chấp kim đao cửu thập cửu. Sát tận Hồ nhân phương bãi thủ. Pháo hưởng hỏa yên mê khứ lộ. Thiên nam thiên Bắc lục tam thu. Khả lân nan độ Nhạn môn quan. Trích tận lí hoa diệt tần Hồ. Hoàng ngưu sơn hạ hữu nhất động. Khả tàng nhất vạn bát thiên chúng. Tiên đáo chi nhân năng yên ổn. Hậu đáo chi nhân bán lộ tống. Nan thứ hữu tội vô bất tội. Thiên hạ toán lai dân tận tuy. Hỏa phong đỉnh. Lưỡng hỏa sơ hưng định thái bình. Hỏa sơn lữ. Ngân hà chức nữ nhượng Ngưu tinh. Hỏa đức tinh quân lai hạ giới. Kim điện lâu đài tận bính đinh. Nhất cá Hồ tử đại tướng quân, án kiếm trì mã sát tình hình, trừ bạo khử hoạn nhân đa ái. Vĩnh hưởng kim châu kim mãn doanh. Đế viết : Hồ nhân thử thời thượng (còn) tồn phủ ? Cơ viết : Hồ nhân chí thử vong chi cửu hĩ. Tứ đại bát phương hữu văn tinh. Phẩm vật hàm hanh nhất dạng hình. Cầm sắt hòa hài thành cổ đạo. Tảo vãn hoàng đế hưu trung hưng. Ngũ bách niên gian xuất thânh quân. Chu lưu thiên hạ hiền luơng phụ. Khí vận nam sơn xuất tướng thần. Thánh nhân năng hóa vận uyên nguyên. Bát diện Di nhân tiến cống phẩm. Cung nữ cần canh vọng dạ nguyệt. Càn khôn hữu tượng trọng hoàng kim. Bắc phương triều lỗ hại sinh linh. Cánh hội nam quân chu lục (sát hại) hành. Phỉ mã đơn kị an ngoại quốc. Chúng quân ấp nhượng lưu tam tinh. Thượng nguyên phục chuyển xả vận khai. Đại tu văn võ thánh chủ tài. Thượng hạ tam nguyên vô đảo trí. Nhận quán văn vật nhất tề lai. Thất nguyên vô thố hựu tam nguyên. Đại khai văn phong khảo đối liên. Hầu tử mãn hợp kê giá. Khuyển phệ trư minh thái bình niên. Văn võ toàn tài nhất mậu đinh. Lưu li tán loạn giai đào dân. Ái dân như tử thân huynh đệ. Sáng lập tân quần tu cựu kinh. Thiên ngôn vạn ngữ vô hư thuyết. Lưu dữ sáng thời thuyết đoản trường". Dựa theo ba đoạn trên đã viết để xét thì ở trong thường vẫn còn nhắc đến các chữ như kim long, quân, cung, nữ, thánh nhân, dị nhân, hoàng đế. Rõ ràng là có một số chỗ không hợp với hình thái chính trị của Trung Quốc hiện tại và tương lai. Có lẽ chúng ta có thể cho rằng ông đã dùng thủ pháp có tính tượng trưng để ngầm biểu thị. Nhưng từ đó có thể thấy "Bài ca bánh nướng" này, nếu như không phải là do Lưu Bá Ôn soạn thì ít nhất người hư cấu bài này tuyệt đối không phải là người của thời Dân quốc về sau. Vì vậy, mấy đoạn ở phía sau này vẫn là đáng để chúng ta nghiền ngẫm một lần. ANH HÙNG VẬN THẾ : NGƯỜI BIẾT THỜI THẾ LÀ TUẤN KIỆT Thưởng thức thật tỉ mỉ câu danh ngôn ngàn xưa này, mới biết có ba mùi vị chứa đựng trong đó. Thời thế là hình thế khách quan của một thời kì chỉ định mà người anh hùng được trở thành anh hùng. Cựu tổng thống Mĩ Nixson sau khi bị thất bại phải rút khỏi vũ đài chính trị, đã ít xuất đầu lộ diện để viết nhiều sách về những danh nhân đương thời. Những quyển sách này đều là luận thuyết từ cách nhìn của một nhà chính trị. Ông đã từng nói một cách cảm khái rằng : muốn trở thành một nhân vật vĩ đại, cần phải có một sự kiện lịch sử vĩ đại. Stalin, Churchill, Mao Trạch Đông và Đờ Gôn sở dĩ trở thành nhân vật cả thế giới nhìn vào, không phải ở chỗ họ so với các danh nhân trước họ tài giỏi hơn bao nhiêu, mà ở chỗ họ có may mắn hơn những người kia là họ đã nắm quyền vào thờì đại loạn lạc của đại chiến thế giới. Thực ra, nếu như thật sự không có cuộc chiến tranh đó thì uy tín của Stalin cũng chỉ có thể giới hạn trong lục địa Âu - Á từ Matxcơva đến Vlađimia Vôsttôc này, không thể có sự sùng bái của các lãnh tụ các quốc gia Tây Âu như Titô, Xêauxêscu và Enve Hôtgia đối với ông ta. Tương tự Chirchill cũng không thể giành được quá nhiều phiếu trong cuộc tranh cử, còn Đờ Gôn cũng chỉ có thể là một quân nhân đạt tiêu chuẩn mà thôi. Mao Trạch Đông vào những năm cuối đời khi nhớ lại cuộc đời chính trị một đời của mình nói : Đời tôi chỉ làm có hai việc : một là đánh đuổi bọn Nhật lùn, việc khác là đã phát động cuộc đại cách mạng văn hóa. Ông đã nói rất khách quan. Nếu như người đời sau viết lịch sử hiện đại của Trung Quốc, nhất định không thể không viết hai sự kiện này. Không phải vì đây là Mao Trạch Đông nói, mà là vì đây là hai việc lớn trong lịch sử cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong hai việc lớn này, Mao Trạch Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc thứ nhất, đã xác định vị trí và công lao của Mao Trạch Đông trong đảng cộng sản Trung Quốc và trong lòng nhân dân Trung Quốc. Đồng thời cũng xác định bản năng và uy tín của ông làm lãnh tụ chính trị cả thiên hạ nhìn vào. Việc thứ hai, đem lại cho Mao Trạch Đông hậu quả lại không hoàn toàn nhất trí với nguyện vọng của ông. Nhiều người đều chỉ trích sai lầm ông mắc phải đối với cuộc cách mạng này. Ca ngợi đối với Mao Trạch Đông cũng được, phê bình đối với Ông cũng được. Tóm lại là đều không thể để cho người ta quên đi hai việc lớn đó. Bởi vì đó là hai thời đại. "Sự kiện lớn" mà Nixson nói đến cũng chính là việc lớn như thế. Sự kiện lớn như thế thường thường có thể đánh dấu một thời đại lịch sử. Bất cứ việc gì cũng đều do người làm cả. Khi một sự việc, một khi bắt tay làm sẽ có thể hình thành một "thế" lớn mạnh. Đây chính là "thời thế". Mà người nằm trong "thời thế" và có thể điều khiển thời thế sẽ là anh hùng mà chúng ta nói đến. Vì thế xa rời thời thế mà nói anh hùng, sẽ giống như ngồi ở ngoài bãi đá bóng xem đá bóng, không ai có thể thật sự nói rõ ràng quả bóng này đá vào câu môn như thế nào. Nhiều người đều thích đưa ra sự suy đoán và kết luận chủ quan đối với những người và sự việc của quá khứ. Lí luận mà dựa vào để phân tích có lẽ không mảy may có chỗ thiếu sót đáng tiếc, song họ lại thiếu sự tìm hiểu khách quan đối với thời thế mà người trong cuộc từng sống. Lại còn một loại người sản sinh một loại kết luận chủ quan khác, tự cho rằng bất cứ thời thế nào đều là anh hùng tạo ra, đây chính là điều mà chúng ta thật đáng ngẫm nghĩ. Khi thời thế đến, liệu có bao nhiêu người có thể tiếp nhận và đứng lên đón nhận thách thức ? Đây e là lại một kết luận không xác đáng. Lúc này, dùng câu nói cổ xưa của Trung Quốc để thuyết minh là xác đáng nhất : người thức thời là tuấn kiệt Cho nên Nixson chỉ ra rằng : làm một lãnh tụ kiệt xuất, trước tiên ông ta cần phải có đủ sức quan sát phi thường. Ông ta chỉ có nhìn rõ xu thế phát triển của sự việc, ông ta mới có thể đón đầu để đi lên. Việc này cũng giống như nhảy sóng, ông ta trước tiên cần phải biết thế đầu của ngọn sóng, sau đó mới đón nhảy lên, đứng ở trên đầu ngọn sóng, mà không bị đầu sóng dập xuống đáy nước. Cơ hội mà thời thế cho mỗi người đương thời đều là công bằng, mấu chốt là ở chỗ có ai đó có thể nắm lấy nó. Nói chung, những nhân vật kiệt xuất đều có một đặc trưng như sau : Họ luôn luôn tự cho là mình có thể làm tốt hơn người khác. Họ luôn khát vọng thành công, mà loại khát vọng này không phải là lấy việc giành được vật chất đế thóa mãn. Khát vọng của họ vượt xa so vơi khát vọng của một nông dân đối với việc thu hoạch được nhiều hơn vài cân lương thực, của một người buôn bán kiếm chất nhiều hơn được máy đồng xu đồng còn sâu xa hơn nhiều. Cho nên họ từ trước đến nay không thể bỏ qua một cơ hội. Từ ý nghĩa này để xét, không phải là thời thế đã chọn họ, mà là họ đã chọn thời thế Quẻ Càn: Rồng và thiên thời Sáu hào của quẻ Càn đều là hào dương, biểu hiện rõ là"thuần dương nhưng rất kiên (mạnh)". Cho nên, nó chiếm địa vị đặc biệt trong 64 quẻ, là ”gốc rễ của âm dương, tổ tông của vạn vật". Càn của quẻ Càn chính là "kiện". Kiện có nghĩa là chuyển động, biến đổi không ngừng. Kiện là tính chất và ý nghĩa của quẻ Càn. Bởi vì trời (thiên) có thể phản ánh nhất “kiện” có sức sống không ngừng, cho nên quẻ Càn chọn tượng trưng là trời. Trời của thời cổ xưa tức là chỉ Mặt Trời. Sách "Hán thư. Ngụy Tương truyện" nói : "Sự biến đổi của trời đất ắt hẳn là do âm dương, còn phân biệt âm dương dùng Mặt trời để ghi nhớ". Sự chuyển động của Mặt trời đã tạo nên sự thay đổi nóng lạnh, bốn mùa thay đổi lịch sử hiện đại của Trung Quốc, nhất định không thể không viết hai sự kiện này. Không phải vì đây là Mao Trạch Đông nói, mà là vì đây là hai việc lớn trong lịch sử cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong hai việc lớn này, Mao Trạch Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc thứ nhất, đã xác định vị trí và công lao của Mao Trạch Đông trong đảng cộng sản Trung Quốc và trong lòng nhân dân Trung Quốc. Đồng thời cũng xác định bản năng và uy tín của ông làm lãnh tụ chính trị cả thiên hạ nhìn vào. Việc thứ hai, đem lại cho Mao Trạch Đông hậu quả lại không hoàn toàn nhất trí với nguyện vọng của ông. Nhiều người đều chỉ trích sai lầm ông mắc phải đối với cuộc cách mạng này. Ca ngợi đối với Mao Trạch Đông cũng được, phê bình đối với Ông cũng được. Tóm lại là đều không thể để cho người ta quên đi hai việc lớn đó. Bởi vì đó là hai thời đại. "Sự kiện lớn" mà Nixson nói đến cũng chính là việc lớn như thế. Sự kiện lớn như thế thường thường có thể đánh dấu một thời đại lịch sử. Bất cứ việc gì cũng đều do người làm cả. Khi một sự việc, một khi bắt tay làm sẽ có thể hình thành một "thế" lớn mạnh. Đây chính là "thời thế". Mà người nằm trong "thời thế" và có thể điều khiển thời thế sẽ là anh hùng mà chúng ta nói đến. Vì thế xa rời thời thế mà nói anh hùng, sẽ giống như ngồi ở ngoài bãi đá bóng xem đá bóng, không ai có thể thật sự nói rõ ràng quả bóng này đá vào câu môn như thế nào. Nhiều người đều thích đưa ra sự suy đoán và kết luận chủ quan đối với những người và sự việc của quá khứ. Lí luận mà dựa vào để phân tích có lẽ không mảy may có chỗ thiếu sót đáng tiếc, song họ lại thiếu sự tìm hiểu khách quan đối với thời thế mà người trong cuộc từng sống. Lại còn một loại người sản sinh một loại kết luận chủ quan khác, tự cho rằng bất cứ thời thế nào đều là anh hùng tạo ra, đây chính là điều mà chúng ta thật đáng ngẫm nghĩ. Khi thời thế đến, liệu có bao nhiêu người có thể tiếp nhận và đứng lên đón nhận thách thức ? Đây e là lại một kết luận không xác đáng. Lúc này, dùng câu nói cổ xưa của Trung Quốc để thuyết minh là xác đáng nhất : người thức thời là tuấn kiệt Cho nên Nixson chỉ ra rằng : làm một lãnh tụ kiệt xuất, trước tiên ông ta cần phải có đủ sức quan sát phi thường. Ông ta chỉ có nhìn rõ xu thế phát triển của sự việc, ông ta mới có thể đón đầu để đi lên. Việc này cũng giống như nhảy sóng, ông ta trước tiên cần phải biết thế đầu của ngọn sóng, sau đó mới đón nhảy lên, đứng ở trên đầu ngọn sóng, mà không bị đầu sóng dập xuống đáy nước. Cơ hội mà thời thế cho mỗi người đương thời đều là công bằng, mấu chốt là ở chỗ có ai đó có thể nắm lấy nó. Nói chung, những nhân vật kiệt xuất đều có một đặc trưng như sau : Họ luôn luôn tự cho là mình có thể làm tốt hơn người khác. Họ luôn khát vọng thành công, mà loại khát vọng này không phải là lấy việc giành được vật chất đế thóa mãn. Khát vọng của họ vượt xa so vơi khát vọng của một nông dân đối với việc thu hoạch được nhiều hơn vài cân lương thực, của một người buôn bán kiếm chất nhiều hơn được máy đồng xu đồng còn sâu xa hơn nhiều. Cho nên họ từ trước đến nay không thể bỏ qua một cơ hội. Từ ý nghĩa này để xét, không phải là thời thế đã chọn họ, mà là họ đã chọn thời thế Quẻ Càn: Rồng và thiên thời Sáu hào của quẻ Càn đều là hào dương, biểu hiện rõ là"thuần dương nhưng rất kiên (mạnh)". Cho nên, nó chiếm địa vị đặc biệt trong 64 quẻ, là ”gốc rễ của âm dương, tổ tông của vạn vật". Càn của quẻ Càn chính là "kiện". Kiện có nghĩa là chuyển động, biến đổi không ngừng. Kiện là tính chất và ý nghĩa của quẻ Càn. Bởi vì trời (thiên) có thể phản ánh nhất “kiện” có sức sống không ngừng, cho nên quẻ Càn chọn tượng trưng là trời. Trời của thời cổ xưa tức là chỉ Mặt Trời. Sách "Hán thư. Ngụy Tương truyện" nói : "Sự biến đổi của trời đất ắt hẳn là do âm dương, còn phân biệt âm dương dùng Mặt trời để ghi nhớ". Sự chuyển động của Mặt trời đã tạo nên sự thay đổi nóng lạnh, bốn mùa thay đổi nhau. Cho nên lời quẻ của quẻ Càn là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh cũng chính là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nguyên tức mùa Xuân, Hanh tức mùa Hạ, Lợi tức mùa Thu, Trinh tức mùa Đông. Thu đi Đông tới, Đông qua Xuân về, cứ lặp đi lặp lại chu kì như thế không ngừng, đây tức là "kiện", tức là quy luật của tự nhiên. Vương Bật nói : "Quẻ, tức thời, còn hào tức biến đối của thời gian tương ứng. Mỗi một quẻ của "Chu Dịch" sẽ đại biểu cho một thời đại, mỗi một hào lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển của thời đại. Từ triết học để xem xét, quẻ là tương đối yên tĩnh, còn hào thì là chuyển động. Sáu hào của quẻ Càn là bàn về khí của trời đất và đạo của người quân tử. Khí của trời đất có thăng giáng (tức lên xuống), đạo của người quân tử có thịnh hành ẩn náu, rồng là động vật có thể lặn có thể bay lên trong tưởng tượng của con người, Cho nên tác giả "Chu Dịch" đem sáu hào đều dùng rồng để tượng trưng. Rồng là vật dương, mà biến đổi đa đoan, thần diệu khôn lường, dùng sự biến động của rồng để biểu hiện sự biến động sáu hào của quẻ Càn, không những có thể biểu hiện cái mạnh của trời, mà cũng có thể biểu hiện cái mạnh đang trong biến đối. Rồng, là tượng trưng của dân tộc Trung Hoa. Nó có thể dừng lại ở ba nơi, lặn trong vực sâu, chạy trên đất liền, bay trên bầu trời. Mấy ngàn năm trước đây, các nhà hiền triết Trung Quốc bèn đem lí tưởng và hoài bão của mình, tất cả hòa nhập vào trong thân thể của con rồng. Bắt đầu từ ngày vật tổ (tốtem) của Rồng xuất hiện, Rồng đã luôn luôn trở thành hình tượng hoàng đế các thời đại sùng bái. Ngày Hoàng đế lên ngôi, luôn luôn phải làm mấy con rồng mang đến để biểu thị thân phận và hoài bảo của mình. Theo ghi chép, sự sùng bái rồng đã có từ thời Phục Hi. Nhưng thật ra nó không thực có, mà là do nhiều đặc trưng của động vật chắp vá lại mà thành. Đưa vào nguồn cảm hứng phong độ nguyên thủy và hòa quyện vào tinh thần đạo đức thuần phác cổ xưa làm cho rồng qua các thời đại không suy giảm. Người Trung Quốc hiện đại cảm thấy tự hào về việc dùng rồng để truyền thụ cho người khác. Mà lòng mong mỏi của lớp người trước đối với lớp người sau cũng luôn luôn có cùng chung một tâm lí : Mong con cái thành Rồng. Rồng là một loại mạnh, có lẽ cũng là một loại phấn chấn. Trong xã hội có giai cấp "văn minh", mỗi một người đều chịu đựng đủ mọi kiểu áp bức xã hội, chịu đủ mọi ràng buộc của các quy tắc đã bẻ ngoặt sự phát triển tự nhiên của tính người. Trong lịch sử dài đằng đẵng và mỏi mệt như thế, con người đang tổn hao tính "chân thiện mĩ", dũng cảm, chân thành, nhẩn nại, ham thích mạo hiểm trong bản năng và không dựa vào trí tuệ linh cảm, sức sáng tạo, trí tưởng tượng của văn hóa giáo dục, các tố chất quý báu này đang tổn hao đi một cách lặng lẽ. "Tình bạn kiên trinh không thay đổi, lòng tự hi sinh tráng liệt, hoài bão cao cả, lòng dạ thẳng thắn vô tư, cả đến ý chí phục thù sâu sắc và tinh thần chiến đấu "kiểu trò chơi", tư thái kiên nghị không tính toán thành bại trong phấn đầu theo đuổi sức mạnh và chinh nghĩa v.v...,tất cả các tố chất này trong xã hội văn minh đều chịu sự ức chế đa phương của quyền thế, tiền tài, pháp luật và tập quán giáo dục và chuyển đến tình trạng ngủ dài". Đoạn văn này (trong sách "Thần thoại và tinh thần dân tộc” của Tạ Tiên Tuấn) có thể giúp chúng ta giải được câu đố tâm lí của bậc tiền bối đời đời truyền cho nhau. "Kinh Dịch" là kinh đứng đầu các kinh, lại đem Rồng (tức long) làm quẻ đầu của 64 quẻ. Đây là lí thuyết có hệ thống sớm nhất trình bày rõ về rồng. Trong "Kinh Dịch", rồng vừa tượng trưng đạo trời thịnh hành, cũng tượng trưng người quân tử tự cường không ngừng. Trong tầm mất của người Trung Quốc xưa, rồng là mạnh mẽ nhất, cho nên đem 6 hào của quẻ Càn đều dùng rồng để tượng trưng. "Kinh Dịch'' nói là Thiên đạo, Địa đạo, Nhân đạo. Quẻ Càn lại có thể hiểu là một con rồng đã quát mây thét gió ra sao để làm nên một sự nghiệp, giành được hiệu quả "thiên nhiên" (thiên nhiên với con người). 'Thời cấp lục long, dĩ ngự thiên dã. Vân hành vũ thi, thiên hạ bình dã". (Thời đại như cưỡi lên sáu con Rồng lớn đế lái thiên thể vận hành. Mây cuốn bay ở trên không, mưa từ trên trời rơi xuống, thiên hạ thái bình). Cho nên những người muốn mình trở thành một con rồng không thể không hấp thụ những điều bổ ích từ trong "Kinh Dịch". Đặc biệt là quẻ Càn, có thể giúp chúng ta bồi dưỡng tính cách cứng rắn quyết đoán, tinh thần tự cường không ngừng, học được mưu trí hợp thời tự nhiên. Sáu thời kì lớn phát triển sự nghiệp cá nhân Quẻ Càn trình bày, chính là quá trình biến đổi từ "tiềm long" đến "cang long". Cũng giống như chúng ta ngồi trong một toa tàu, bị đưa đi qua từng ga một, đây là quá trình chúng ta tiến dần đến nơi định đến. Quá trình thiên biến vạn hóa này là dùng thời gian để biểu thị, không có thời gian thì sự biến hóa cũng mất ý nghĩa. Không có biến hóa, thời gian cũng sẽ ngừng lại. Vì vậy, chúng ta hiểu thời gian là khoảng trống giữa các sự vật trước sau xảy ra. Quá trình vận hành của tự nhiên, luôn phải qua mấy giai đoạn như sau : tiềm tàng ấp ủ sức sống ; nảy mầm mọc ra : trưởng thành khó khăn, lớn lên mạnh mẽ ; nở hoa kết trái , hoa rơi là rụng. Sau đó, trở lại ban đầu, bắt đầu lập lại, tuần hoàn không ngừng. Đây chính là quy luật vận hành của giới tự nhiên. Quy luật của tự nhiên : lớn nhất, trung dung nhất, ngay thẳng nhất, có công năng to lớn nhất là tạo đặt nền móng, hanh thông (thuận lợi), tốt lành và kiên trinh quay trở lại tử đầu, đến vô cùng vô tận là điển hình hành vi của loài người đến "chí cao vô thượng” (cao nhất không có gì vượt qua). Chúng ta nên bắt chước quy tắc này, hiểu rõ đạo trời từ không đến có, từ được đến mất, như thế trong sự nghiệp mới có thể nắm chắc thời cơ biết tiến biết lui. Tác giả của "Kinh Dịch" từ quy tắc của đạo trời hiểu rõ được quy tắc xử thế của người quân tử. Cho rằng người quân tử trong phát triển sự nghiệp cũng có 6 thời kì : Thời kì ẩn náu của "tiềm long vật dụng" (rồng ẩn không phát huy tác dụng) Thời kì hiển hiện của "kiến long tại điền" (rồng xuất hiện tại ruộng). Thời kì trưởng thành của "chung nhật kiền kiền" (suốt ngày hiện rõ tư thái luôn luôn tự cường). Thời kì lớn mạnh của "hoặc diệu tại uyên"(hoặc vọt lên hoặc lặn xuống). Thời kì cực thịnh của "phi long tại thiên" (Rồng bay trên trời). Thời kì suy bại của "cang long hữu hối" (bay lên tột đinh, có hối hận). Khi ở thời kì ẩn náu, người quân tử phải nên giác ngộ, không để phát ra lực lượng mà cần kiên định niềm tin, nín lặng chờ đợi thời cơ, không được manh động. Khi ở Thời kì hiển hiện, người quân tử nên lấy điều thành tín (chân thành tin tưởng) làm gốc kết hợp với sức lực tiếp gần quần chúng, như vậy mới có thể giành được chỗ đứng. Khi ở Thời kì trưởng thành, người quân tử nên phải có hành vi mạnh mẽ, luôn luôn tự cường, làm phong phú, đầy đủ lực lượng. Đồng thời càng cần phải biết cảnh giác và biết sợ để tránh nguy hiểm dẫn đến bị tổn thất và hủy hoại. Khi ở Thời kì lớn mạnh, người quân tử nên củng cố cơ sớ đoàn kết quân chúng, thận trọng nắm chắc thời cơ có lợi nhất, hành động một lần là thành công. Khi ở thời kì cực thịnh, người quân tử cần phải giữ nguyện ước ban đầu thực thi hoài bão, chọn người hiền tài giao công việc, tạo phúc cho quần chúng, làm cho từng người có được vị trí của họ và từng người đều thu được lợi ích của họ. Khi ở thời kì suy bại, người quân tử phải bình tĩnh đối xử, từng giờ từng phút phải cảnh giác, không được hấp tâp vội vàng, phải đề phòng và ngăn ngừa kiêu ngạo, thuận theo lẽ tự nhiên tùy cơ ứng biến, cứng rắn kết hợp mềm dẻo, tiến thoái hợp thời. Kiên trì giữ trong sáng tránh tà ác. Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy "Kinh Dịch" không chỉ là diễn giải đạo Trời, Đất mà còn giảng giải đạo làm người nữa.Đạo là để dùng cho người, cho nơi dùng, xét đến cũng là giảng đạo làm người. Mỗi người trong cuộc đấu tranh sinh tồn biến đổi, đều muốn có một năng lực phân rõ khoảng cách của thời gian, không có năng lực này sẽ không thể nắm chắc một cách chính xác thời thế, đẫn đến bỏ lỡ mất thời cơ. Những điều mà "Kinh Dịch" dạy chúng ta chính là năng lực này, gợi ý cho chúng ta bồi dưỡng năng lực này ra sao. Quẻ Càn dùng 6 tình huống của Rồng (long) biểu thị rõ người quân tử tiến thủ nên tung ra những cử động như thế nào trong từng thời kì khác nhau đế đạt thành công. • Ý nghĩa của việc học tập "Kinh Dịch" là ở chỗ : THỜI KÌ ẨN NÁU - THUẬT CỐ CHỊU ĐỰNG (Rồng ẩn, không phát huy tác dụng) Đây là hào thứ nhất của quẻ Càn. Hào một này là hào dương mà nằm ở vị trí dưới cùng nhất. Tức là lúc dương khí vừa mới từ dưới đất sinh ra, còn chưa thể hoạt động đối với bên ngoài, cho nên dùng rồng ẩn (tiềm long) để tượng trưng. Người làm ra Kinh Dịch từ đó đưa ra kết luận : "Vật dụng". "Dụng" tức là động dụng, hành động. "Vật dụng" chính là không thể phát sinh động dụng hoặc dùng hành động. Nó chứa đựng hàm ý là không thể dùng, chưa thể dùng và không cần dùng, nhưng nó cúng có nghĩa là sức mạnh tiềm tàng, không thể dự đoán, khó mà hạn định được. Khi người ta ở vào thời kì này, sẽ giống như rồng tiềm ẩn, cố chịu đựng không thể hành động, ẩn náu tốt để chờ đợi thời cơ, đừng nên thi thố hành động, đừng nên hành động. Khổng Tử giải thích : Người có phẩm đức giống rồng mà bị ẩn cư. Phẩm đức của họ không thay đổi theo sự thay đổi của thói đời, cũng tuyệt đối không cảm thấy buồn khổ. Người đời chưa phát hiện ra tài năng của mình cũng không vì thế mà buồn khổ, dự tính chủ trương của mình có thể thực hiện trong niềm hân hoan phấn khởi thì kiên quyết thực hiện. Khi mình lo lắng chủ trương của mình không thể thực hiện thì kiên quyết không làm. Xác định việc cần làm hoặc không làm thì kiên trì giữ lòng tin không thể lại dao động. Đó chính hàm ý của "tiềm long" (Rồng ẩn náu). Đây chính là lời của Khổng Tử nói người quân tử xem quẻ Càn, ứng dụng như thế nào vào việc tu dưỡng đạo đức của mình. Lí giải của Khổng Tử chỉ nói về đạo làm người mà không bàn đến đạo Trời có ý nghĩa triết học rất cao xa. Khổng Tử cho rằng : Việc "Chớ dùng" là ẩn, ẩn không phải là sự việc đơn giản dễ làm. Người bình thường không làm được, chỉ có những người có phẩm đức của rồng mới có thể làm được. Ở đây, Khổng Tử đã nhấn mạnh chỉ ra : ẩn, không phải là vì thời thế vứt bỏ mà không đươc làm, mà là biết thời thế không cứu giúp, không thể làm mà không làm. Người quân tử có thể làm được điều này mới là có long đức (đức của rồng). Vì thế, Khổng Tử nêu ra 3 ranh giới : Không thay đổi bởi đời, không thành danh vọng, lấn tránh đời không phiền muộn. Ranh giới thứ nhất : không thay đổi bởi đời, chính là thực hiện được ý chí, chủ trương của mình không vì thói đời mà thay đổi, thiên hạ vô đạo thì dù cho đến chết cũng không đổi thay ý chí của mình, không hùa cùng bọn xấu làm điều xấu. Ranh giới thứ hai : không thành danh vọng, tức là không hám hư danh hư vinh. Giống như là Tống Vinh Tử mà Trang Tử nói "cả thế gian khen ngợi nó mà cũng không tăng thêm khích lệ, cả thiên hạ không có nó mà cũng không thểm cản ngăn" không khen, không phải là ở vật mà là ở ta, đạt đến ấn tránh chân chính, Ranh giới thứ ba : lẩn tránh đôi không phiền muộn : Đây là ranh giới cao nhất. Trốn tránh việc đời tất nhiên sẽ cô lập với đời, mà không được người đời biết đến. Việc này với người bình thường là việc hết sức buồn bã, chỉ có những người có phẩm đức của rồng mới có thể tự tin không hối hận, làm được như thế đạt tới giới hạn quên mình. Khổng Tử tôn sùng tư tưởng này thật ra không giống với tư tưởng xuất thế "vô vi" của Lão Tử. Vô vi (không làm) của Khổng Tử là có điều kiện không giống với "vô vi tự nhiên" của Đạo gia. "Vui thì làm, lo thì không làm", có nghĩa là khi thấy lòng mình vui vẻ thì làm, lòng mình thấy buồn đau thì không làm. Thiên hạ vô đạo ta sẽ đi ẩn, quyết không thể uốn mình đế theo người. Khổng Tử nói : "loại ý chí này chắc chắn là không thể rút ra được, biểu hiện ra sự theo đuổi khắc khổ đối với đời người”. Ở thời kì ẩn náu, nên cố chịu đựng chờ đợi thời cơ. Không thể hành động mù quáng. Vì thế cần phải học được cách gắng chịu. ”ẩn một sớm, chịu đựng một thời". "Ẩn một sớm" không phải là ẩn mãi mãi, ẩn một sớm cũng là không thể không lựa chọn việc ẩn. Hoa nở hoa tàn luôn có thời gian, thiên thời chưa đến xin đừng gò ép. Cho nên ẩn náu là một sách lược, một sách lược vì để vượt qua thời kì không có khả năng. "Ẩn một sớm" là cách lựa chọn thông minh. Nó cần phải có tầm nhìn và chí hướng. Không có tầm nhìn không thể "thẩm thời độ thế", không có chí hướng không dám ẩn náu. Để thực thi ẩn náu, thường thường còn phải học được "chịu đựng". Chịu đựng là bảo đảm của ẩn náu. Chịu đựng không nổi cái khổ một thời, vắng vẻ một thời, cái hổ thẹn một thời, sự mê hoặc một thời, sự vấp váp một thời, khuất phục một thời, cái khó một thời, dã tâm một thời, thì có thể sẽ phá vỡ mưu kế đã quy hoạch sẵn, việc sắp thành lại hỏng, giữa đường bị vứt bỏ. "Chịu đựng một thời" phải dựa vào từng lúc từng lúc chịu đựng mới thành công. Như thế, thuật cố chịu đựng mới có thể có hiệu quả được. Người xưa nói : "Nhịn một việc trăm điều lo tiêu tan". Việc này cần phải có một khí phách và có hoài bão. Không có khí phách không thể dung tha người khác ; Không có hoài bão không thể chịu đựng được việc thất bại. Sư trả giá của ẩn náu Để học tập, có thể sẽ phải giảm bớt một số vui chơi, ít xem vài buổi chiếu phim, bớt đi vài lần đi dạo thương trường. Tóm lại phải giảm bớt nhiềụ việc hưởng lạc mà thời trai trẻ theo đuổi. Song, Thượng đế khi sáng tạo ra thế giới này của chúng ta, đã đem gieo hạt giống của việc trả giá này rồi. Đây là sự trừng phạt của Người đối với loài người mà Người đã tạo ra. Trong cuộc sống của chúng ta, không ai có thể tìm thấy người và việc mà không cần phải trả giá. Cuộc sống chính là giữa chiếm hữu và hiến dâng đi lại như con thoi thêu dệt nên như một bức tranh. Người thời xưa có cái nhìn rất thoáng đối với những việc này, họ nói với những người đọc sách của tương lai là : Không nếm mười năm gian khổ bên cửa sổ giá lạnh, khó nên được người hôm nay ở trên người khác. Ở đây, chúng tôi sẽ kể một câu chuyện của một hiệp khách để báo thù mà phải 3 lần ẩn náu. Thời Xuân Thu, Trí Bá bị ba nhà : Triệu, Hàn, Nguy liên hợp với nhau đánh bại, và đã phân chia lãnh địa của Trí Bá. Đây chính là "Ba nhà chia Tấn" trong lịch sử. Triệu Tương Tử vô cùng căm ghét Trí Bá, sau khi đem giết ông đã chặt đầu dùng làm chậu đựng nước tiểu, dùng việc đó đế tiết ra nỗi hận thù của mình đối với Trí Bá. Khi Trí Bá sống có một môn khách tên là Dư Nhượng là một người rất hiệp khí, ông đã vì người chủ sau khi chết lại còn bị ô nhục như thế cảm thấy đau lòng, đau đầu, thế là quyết tâm báo thù cho chủ đế rứa nhục. Ông ta bèn nguy trang thành một người khổ dịch, giấu dao sắc trong người bí mật ấn vào nhà xí của họ Triệu để mong giết chết Triệu Tương Tử. Không ngờ bị người thủ hạ của Triệu Tương Tử phát hiện và bắt. Ông đã bị dẫn đến trước Triệu Tương Tử. Triệu Tương Tử biết được ông ta báo thù cho chủ của mình, rất coi trọng nghĩa khí của ông ta, bèn thả ông ta. Dự Nhượng chưa thực hiện được lời thề của mình, rất không cam lòng lại chuẩn bị cuộc hành thích thứ hai. Ông đã cắt tóc của mình, đem toàn thân trên dưới đều bôi đen đi lẫn vào trong đám người ăn xin, ở giữa chợ đã gào to để xin ăn. Một hôm, vợ ông nghe được tiếng của ông trên đường phố đã nhận ra chồng của mình, nên đã làm cho cuộc hành thích lần thứ hai của ông bị thất bại. Dự Nhượng đành phải chuẩn bị lần thứ ba. Để làm cho người khác không nghe ra tiếng của ông, ông đã tìm than gỗ để nuốt vào, làm cho tiếng khàn đi, lại lên phố gào xin ăn, kết quả là ngay cả đến vợ ông cũng không nhận ra ông nữa. Vừa khéo đúng lúc có một chiếc cầu lớn mới xây dựng hoàn thành, Triệu Tương Tử dẫn các thủ hạ đến xem. Dự Nhượng liền đóng giả một người chết, nằm bắt động ở dưới cầu. Người của Triệu Tương Tử lại trước tiên đã phát hiện Dự Nhượng vờ chết liền báo tình hình với chủ của họ, Triệu Tương Tử nói : "Cầu vừa mới làm xong, làm sao có thể có xác chết được ? Chắc chắn là Dự Nhượng đóng giả thôi !" Ông bèn bảo thủ hạ lôi "xác chết" đến để xem thử, quả nhiên là Dự Nhượng. Triệu Tương Tử không vừa ý, liền trách Dự Nhượng : "Trước đây ông theo họ Phạm, họ Phạm bị Trí Bá giết, ông không báo thù Trí Bá cho họ Phạm. Còn ta giết Trí Bá, ông lại muốn báo thù cho ông ta, hơn nữa lại còn báo thù gấp gáp đến như thế, cuối cũng là cớ làm sao !" Dự Nhượng trả lời lại nói ; Mới đầu họ Phạm đối xử với tôi như người bình thường, cho nên tôi dùng sự biểu hiện của người bình thường để báo đáp ông ta. Mặc dù tôi hành thích chưa thành công, đây là ý trời, không phải là sức mạnh con người có thể làm thay đổi được. Nhưng, những người có nhân nghĩa và chí sĩ đều là không băn khoăn lo lắng đến cái sống chết của mình, ông vua hiền minh không bưng bít nghĩa đức của người khác. Tôi đã hai lần thích sát ngài, ngài đều không giết chết tôi, cũng có thể xem là đủ nhân nghĩa đối với tôi rồi. Nhưng tôi đã phát lời thề, chỉ cần tôi không chết, tôi sẽ không thể thay đổi chí hướng của tôi, ngài muốn giúp tôi đạt mục đích thì đưa bộ y phục của ngài cho tôi đâm một nhát đe tôi tỏ lời an ủi với linh hồn của họ Trí ở trên trời. Lời nói của ông đã làm cảm động Triệu Tương Tử, liền cởi y phuc ra giao cho ông ta. Dự Nhượng liền nhảy lên ba lần dùng kiếm chém vào bộ y phục đó. Sau đó, mình cũng tự sát luôn. Dự Nhượng vì sự ẩn náu mà phải bỏ ra sự hi sinh là to lớn. Ông đã làm tổn thương cả khuôn mặt và cổ họng của mình, đây là việc làm mà người bình thường khó có thể làm được. Vì vậy, muốn thực hiện kế hoạch bí mật của mình, che giấu cái mình chân thực là cần thiết, còn để che giấu cái mình chân thực cần phải trả giá cũng là cần thiết. Học để làm quan Sau khi xã hội loài người có văn hóa, những người trẻ liền bắt đầu học tập và kế thừa. Bởi vì một nhân tố quan trọng của việc sản sinh văn hóa chính là sự chuẩn bị tri thức cho người đời sau. Học tập là một việc lớn cực kì quan trọng của đời người. Khổng Tử nói : Học mà xuất sắc là bậc sĩ phu, ý nói những người từ sĩ phu ra làm quan phải có thành tích học tập đặc biệt xuất sắc. Trung Quốc cổ xưa xem người học tập là "người lao tâm”. Chỉ có "người lao tâm" mới có thể "trị nhân" (cai trị người khác). Cho nên người thời xưa rất coi trọng tri thức học tập, đặc biệt là ở thời trai trẻ. Thuở xưa ở Trung Quốc có một người tên là Nhạc Dương, lúc trẻ gia đình rất nghèo. Để làm thay đổi cuộc sống của mình, ông đã tìm đến nước Lỗ và nước Vệ để theo học. Sau khi học được một năm, ông trở về nhà. Ngưòí vợ đang dệt vải trông thấy chồng mình trở về liền hỏi ngay câu đầu tiên : có phải anh dã học xong rồi à ? Việc học thật ra không phải chỉ một năm là có thể hoàn thành, cho nên Nhạc Dương đã thành thực nói với vợ anh là : còn chưa xong. Người vợ nghe xong, không hề nói thêm một câu nào nữa, liền cầm chiếc kéo ở cạnh mình lên, cắt đứt vải vừa dệt xong. Nhạc Dương nhìn thấy cử chỉ của vợ làm rất kì lạ không sao hiểu nổi, liền hỏi vợ tại sao lại làm như thế. Người vợ nói : học có xong thì sau mới có thể đem dùng, cũng giống sợi vài có dệt thành vải sau này mới có thể may thành quần áo đế mặc được. Hiện nay anh chưa học xong mà đã vứt bỏ việc học, giữa đường đã thôi, việc này và tôi dệt vải chưa xong mà lại cắt đứt vải thì có khác gi nhau ? Nhạc Dương cuối cùng đã hiểu rõ dụng ý của người vợ. Thế là ông lại xuất ngoại lần thứ hai để theo học. Sau 7 năm, ông đã hoàn thành học tập, trở thành nhân tài nổi tiếng đương thời. Lời nói của vợ Nhạc Dương đối với lớp trẻ thời nay có tác dụng giáo dục tương đối lớn. Bởi vì sau khi học một năm, có nhiều người lại đang mắc phải sai lầm năm xưa của Nhạc Dương. Theo một tài liệu cho biết : Từ sau năm 1985 tỉ lệ học sinh bỏ học ở Tiểu học và Trung học mỗi năm một tăng. Điều đó có nghĩa là trong tương lai không xa, Trung Quốc không còn chỉ có 400 triệu người mù chữ nữa mà còn phải nhiều hơn ! Nhạc Dương năm ấy sở dĩ chưa bị bỏ học giữa chừng là vì ông có được một người vợ tốt. Đó là vận may của ông. Lớp trẻ ngày nay họ có gì nhỉ ? Nhạc Dương đã nghe lời vợ, cuối cũng có thể biết sai để sửa chữa. Đây là sự sáng suốt của ông. Lớp trẻ ngày nay liệu có được sự sáng suốt này không ? Gia Cát Lượng ở ẩn tạỉ Nam Dương Long Trung là một.địa phương cách thành Tương Dương về phía tây không xa. Xét về vị trí địa lí, chính là nơi giao tiếp của ba nước sau này, cũng là điểm tập kết của chính trị, văn hóa và quân sự dương thời, nhiều nhân sĩ có tài đều tập hợp tại nơi đây. Nhiều người trong họ về sau đều trở thành bạn bè của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng năm đó tuổi vừa tròn 25, đã được ba lần Lưu Bị mời làm Quân sư, xuất núi để phò tá nhà Hán. Trước lúc này, ông luôn luôn nghỉ ngơi ở Long Trung, khom lưng cày bừa ở Nam Dương, chuyên tâm nghiên cứu học vấn. Việc ở ẩn của ông không phải là trốn tránh đối với hiện thực, mà là dùng con mắt của người ngoài cuộc, bình tĩnh phân tích các việc lớn trong thiên hạ. Cho nên mới có thuyết "chưa rời khỏi lều tranh, đã biết chia ba thiên hạ". Gia Cát Lượng khi ở ẩn "mỗi lần thưởng thức tự so với Quản Trọng và Nhạc Nghị", đủ thấy chí của ông thật phi phàm. Để thực hiện chí hướng của mình, ông mới có thể ở ẩn nổi, không giống với những người khác nóng vội với công danh. Theo sách "Tiên cảnh" ghi chép, khi Gia Cát Lượng ở ẩn và theo học, đã từng tiếp nhận kiến nghị của Tư Mã Huy, đi tìm danh sư đế tăng thêm học vấn. Ông đã đến núi Linh Sơn Nhữ Nam tôn Đặng Công Cửu làm thầy học. Gia Cát Lượng đã ở nhà thầy học một năm, nhưng thầy lại chưa dậy ông ta điều gì. Nhưng ông vẫn một lòng hầu hạ thầy chu đáo và cung kính. Đặng Công Cửu nhận ra ông có lòng thành tâm theo học liền đưa cho ông ba bộ sách bí truyền để ông đọc. Một quyển là "Tam tài bí lục" (ghi chép bí mật về Tam tài), một quyến là "Binh pháp trận đồ" và một quyển khác là "Cô hư tương vượng". Sau 100 ngày, Gia Cát Lượng đã đọc và hiểu hết mọi điều kì diệu ở trong sách. Thầy giáo bèn nói với ông : "Hiện nay trong thiên hạ đã xuất hiện Ngũ long (năm con rồng), cần có người có "thần lực" mới có thể cứu nổi cục diện hỗn loạn này". "Con rồng' này là ai ?" Gia Cát Lượng hỏi.Thầy giáo trả lời : "Thời Tần Hán, Doanh Tần là rồng trắng, Lã Tần là rồng đen, Hạng Võ là rồng xanh, Hán Cao Tổ là rồng đỏ, Hán Văn đế là rồng vàng. Cho nên triều Hán tôn sùng màu đỏ, màu vàng tức là "Hỏa" đức. Hiện nay triều Hán sắp sửa hết, Tôn Kiên tôn sùng "Thổ" đức, lấy "Thổ" che "Hỏa", Tào Tháo tôn sùng "Thủy" đức, lấy "Thủy" che "Hỏa", họ đều là kẻ thù của nhà Hán, đã gây tai hoạ cho thế gian. Ông về sau cần phải chọn một "minh chủ" chân chính để giúp ông ta tất nhiên thành công". Đây có lẽ là một truyền thuyết. Song phần lớn các truyền thuyết đều có triết lí sâu xa của nó. Phân tích của Đặng Công Cửu đối với thời thế, rất có trí tuệ lặng ngắt hết đỗi của bậc tải trí hơn người ở ngoài đời. Trong dân gian Trung Quốc mãi mãi tồn tại một loại "siêu trí tuệ" thoát tục, thoát thế. Những điều họ nhìn thấy, nghĩ đến mãi mãi cao xa hơn các nhân vật khác phải vật lộn gian khổ trong chốn danh lợi mới nghĩ ra, nhận ra hơn nhiều. Đối sách Long Trung của Gia Cát Lượng cũng chính là thuộc loại trí tuệ này. Gia Cát Lượng cày cấy 10 năm ở Nam Dương, trên thực tế chính là đang bồi dưỡng trí tuệ của mình. Vì vậy nói, những việc cần làm ở thời kì ẩn náu là một sự chuẩn bị của trí tuệ. Làm thế nào đế thu được loại trí tuệ này, việc ở ẩn chỉ là một điều kiện, tạo cho người ta một hoàn cảnh yên tĩnh. Chỉ có yên tinh mới có thể định tâm được. Không có được tâm trạng như thế thì không thể dốc tâm vào việc đọc sách và nghiên cứu. Nhạc Dương thoạt đầu chính là thiếu mất tâm trạng này. Nhiều người đều không làm được, không phải vì nhịp điệu thời đại chúng ta quá nhanh mà là trạng thái tâm lí quá gấp gáp. Chuyên tâm không phải là chui vào chỗ bế tắc, một người đọc sách cứng nhắc nơi cô quạnh. Cách làm của Gia Cát Lượng là tìm thầy đế học, trao đổi với bạn bè. Tư Mã Huy và Đặng Công Cửu đều là những người có tài trí hơn người ở ngoài đời lúc đó, họ có những trí tuệ hiếu biết thấu triệt và tĩnh ngộ hơn người. Những điều họ đã dạy cho Gia Cát Lượng là những tri thức và năng lực hàng đầu. Bạn bè của Gia Cát Lượng đều là những người có tài lúc đó, ví như Từ Nguyên Trực, Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Nguyên và Mạnh Công Uy. Họ cùng nhau xướng họa, nêu lên mọi điểm của giang sơn, bàn đến mọi việc trong thiên hạ, từ đó tạo nên một mạng lưới tri thức có trình độ tuyệt vời. Đọc sách hay, tìm thầy giỏi và kết bạn với những người có kiến thức tạo nên ba việc lớn của Gia Cát Lượng khi ở ẩn. Ngô Khởi bị từ chối không cho học Thời Chiến quốc, nước Sở có một nhà cải cách pháp chế tên là Ngô Khởi. Ông vốn là người nước Vệ. Thời niên thiếu không cầu tiến bộ, suốt ngày chỉ đi dạo chơi, làm những việc đâu đâu. Mẹ ông thường quở trách ông ta. Một lần ông chịu không nổi quở trách của mẹ, bực lên liền bỏ nhà đi vân du bốn phương. Trước lúc đi ông thề với mẹ rằng : đi lần này nếu không làm nên khanh tướng thì thề không làm người nữa. Ông đến nước Lỗ tôn đệ tử của Khổng Tử là Tăng Sâm làm thầy học. Ông ghi sâu lời thề ước của mình quyết tâm phấn đấu học tập thường không biết mỏi mệt. về sau, Tăng Sâm biết nhà ông còn có mẹ già, liền cho ông về nhà thăm mẹ. Ngô Khởi liền dùng lời thề với mẹ ra làm cớ để thoái thác. Tăng Sâm bèn nói : Nếu là người khác còn có thể nói như thế tạm được, làm sao có thể phát ra lời thề thốt với mẹ sinh ra mình thế được ? Vì thế, Tăng Sâm rất ghét Ngô Khởi cho là không có lòng hiếu thảo. Về sau mẹ Ngô Khởi qua đời. Sau khi Ngô Khởi nghe tin này liền gào khóc một trận, sau đó lại lăn vào đọc sách, giống như là chẳng có việc gì xảy ra. Tăng Sâm biết được việc này, vô cùng tức giận nói : Cây gỗ mà không có gốc sẻ bị khô cạn, nước sông không có đầu nguồn thì sẽ khô cạn, Ngô Khởi quên mất gốc, thử hỏi chết có được nhắm mắt không ? Ta không thể cần người đồ đệ như thế được. Thế là ông ra lệnh cho các đệ tử tuyệt giao với Ngô Khởi, còn bản thân ông cũng không gặp Ngô Khởi nữa. Nhạc Dương vì không học mà bị vợ quở trách, còn Ngô Khởi lại vì học mà bị thầy dạy từ chối, việc này nói lên điều gì ? Điều đó nói lên rằng Ngô Khởi không khéo đem mục đích chân chính của mình giấu kín đi, mà lại trở nên vô cùng lộ liễu, dẫn đến làm cho người khác không thể hiểu nổi. Cần biết trong nhiều trường hợp, người Trung Quốc trước hết nói về tình, sau đó mới nói đến lí. Những người và việc không hợp tình trong khóe mắt của người Trung Quốc, kế cả nhiều dân tộc cũng đều không thể tha thứ được. Ví dụ như khi mua hàng hóa ở một cửa hàng buôn, chúng ta đều thích đi đến những cửa hàng có người bán hàng có thái độ phục vụ tốt để mua. Việc này thật ra không phải là nói hàng hóa ở nơi đây giá rẻ hơn nơi khác mà là với tiền đề hợp lí, người ta còn muốn hợp tình. Cười bao giờ cũng đẹp hơn khóc. Ngô Khởi không biết đem che giấu khéo mục đích của mình, đó là biểu hiện ông ta thiếu thuật cố chịu đựng. Trong xã hội cạnh tranh, bạn muốn sinh tồn, thì trước hết bạn phải đem mục đích sinh tồn và phương thức sinh tồn của mình chỉnh trang lại, làm cho nó càng hợp với tình lí. Nếu như cách làm của bạn mâu thuẫn với cách làm của nhiều người thì bạn phải làm cho mình trở nên đại chúng hóa hơn, bằng không thì bạn sẽ vấp phải những phiền phức không ngờ tới. Trên thực tế, các đệ tử của Tăng Sâm không có ai là không nghĩ đến học để thành đạt, để trở nên khanh tướng, mà mục đích dạy học của bản thân Tăng Sâm cũng là để bồi dưỡng nhân tài. Mà chỉ có Ngô Khởi bị không cho học, đó là sai lầm của Ngô Khỏi. Ngô Khởi chưa giải quyết tốt vấn đề tiền đề "được người ta hiểu”, cho nên bị từ chối, gặp phải đòn đau chưa bao giờ có. Vì vậy, sau khi bạn đã chọn được mục tiêu của mình, không nên vội vã đem ra làm ngay, mà là phải tỉ mỉ chỉnh trang lại lần nữa. Cũng giống như một thứ hàng hóa sau khi sản xuất ra, vì để làm cho càng nhiều người thích, cần phải trang hoàng cho đẹp thêm. Đốt cháy đường sàn và tu sửa đường sàn Thực lực của Lưu Bang lúc đó còn xa mới chống lại nổi Hạng Võ, đành nuốt giận đưa người của mình đi Nam Trịnh để nhận đất của mình. Lưu Bang lúc này luôn luôn nghĩ sẽ có một ngày đánh về Tam Tần đế nhòm ngó Trung Nguyên. Trên đường' dẫn quân của mình tiến đến Nam Trịnh, trên mình ngựa ông vẫn luôn tính đến kế hoạch lớn này. Vừa đúng lúc đó, có người truyền đến một tin tức làm người ta sửng sốt nói Trương Lương đã ra lệnh cho người đốt cháy đường sàn. Con đường sàn này là lối ra từ Trung Nguyên thông đến Hán Trung. Bây giờ lối ra không còn nữa, kế hoạch của Lưu Bang cũng chẳng còn cách nào thực hiện nữa. Lưu Bang không ghìm nổi đã chủi lớn Trương Lương. Trương Lương lại lặng lẽ nói với Lưu Bang : Tâu Đại vương, tôi đã đốt cháy đường sàn, chính là vì để Ngài tương lai có thể xưng vương. Vốn là trong số 18 chư hầu mà Hạng Võ phân phong lúc đó thì lực lượng của Lưu Bang là mạnh nhất. Hạng Võ vì phòng bị Lưu Bang đánh về Mã Thương, cho nên đã phân ông làm vương ở Hán Trung xa xôi nhất. Điều đó chỉ rõ Hạng Võ có ý đề phòng với Lưu Bang. "Thiêu hủy đường sàn biểu thị chí hướng của chúng ta không ra khỏi Hán Trung. Như thế, Hạng Võ sẽ dần dần lơi là cảnh giác. Còn chúng ta lại có thể nghỉ ngơi lấy sức tích cực chuẩn bị chiến đấu, hễ có thời cơ thì có thể xuất quân vào lúc họ không chú ý, tấn công họ lúc không phòng bị, giành lấy Trung Nguyên". Trương Lương lại tiếp tục nói : "Quân lính hiện nay của Đại vương đều là người Trung Nguyên, đi định cư ở nơi Hán Trung xa xôi đều có lòng nhớ quê hương. Một đội quân như thế làm sao có ý chí chiến đấu ? Cho nên, tôi đã đốt cháy đường sàn sẽ có thể đoạn tuyệt đường họ chạy trốn, một lòng một ý đi theo Đại vương. Còn các chư hầu khác cũng không có cách gì tấn công Đại vương, Đại vương sẽ có thể kê gối cao ngủ yên".Những lời nói này của Trương Lương làm cho Lưu Bang rất vui sướng, đang giận trở nên vui. Sự việc sau này quả nhiên đã xảy ra theo dự đoán của Trương Lương. Một tháng sau, chư hầu các lộ đều không muốn nghe theo lệnh điều động của Sở Bá Vương đầy tự phụ và ngang ngạnh nữa, tới tấp phát quân bắt đầu cuộc chiến tranh chống Hạng Võ. Thời cơ đã đến. Lưu Bang lập tức sai Đại tướng Hàn Tín đưa quân đi bình định Tam Tần. Hàn Tín là một tướng lĩnh nổi tiếng thời kì Hán Sở. Ông nổi tiếng với tài giỏi chỉ huy "càng nhiều quân càng tốt”. Sau khi ông nhận được tướng lệnh liền cử Đại tướng Phàn Khoái đi sửa đường sàn đã bị đốt, và quy định trong một tháng phải sửa lại xong. Ung vương Chương Hàm đang phòng thủ sau khi nghe được tin này, cảm thấy rất đáng buồn cười. Vì rằng đường sàn quanh co hiểm trở kéo dài đến mấy trăm dặm, dùng thời gian một năm để sửa chữa không xong, huống hồ chỉ có một tháng làm thế nào có thể sửa xong ? Do đó mà lơi là cảnh giác. Không ngờ, mấy ngày sau quân của Hàn tín lại đã đến dưới Đại Tán quan, vốn là Hàn Tín trước khi xuất quân đã thăm dò và biết được Trần Thương có một con đường nhỏ thông đến Trung Nguyên. Ông bề ngoài tung tin sửa chữa đường sàn, nhưng ngấm ngầm lại cho quân lính vượt Trần Thương. Có trời mới biết được, chỉ một lần hành động đã bình định được cả ba vương ở đất Quan Trung, đã thông được các đường chủ yếu ra vào để đánh chiếm Trung Nguyên. Đây chính là kế "Bề ngoài sửa đường sàn, ngấm ngầm vượt Trần Thương" nổi tiếng trong lịch sử. Trương Lương đốt cháy đường sàn, Hàn Tín sửa đường sàn đều là những bài được viết trên đường sàn. Cùng một đề tài lại có cấu tứ khác nhau, nhưng chủ đề lại là giống nhau, chính là đểm mục đích chiến lược của mình che giấu đi. Kế thứ 8 trong sách "Ba mươi sáu kế" nói : bề ngoài bộc lộ hành động, lợi dụng khi kẻ địch yên tĩnh bất động, lại ngấm ngầm quay về phía trước mặt kẻ địch, nhân chỗ hổng tiến vào đánh bất ngờ sẽ thắng. Đốt đường sàn là phục tòng bề ngoài để Hạng võ không tấn công. Sửa đường sàn là biểu lộ rõ tấn công làm đối phương mê muội, nhưng ngấm ngầm lại đi tắt đường nhỏ để tập kích trộm. Vừa đốt vừa sửa, vừa công khai vừa ngấm ngầm. Vừa thuận theo vừa chống, tự có cái hay của hiệu quả như nhau. Che giấu ý đồ tác chiến của mình là ý quan trọng hàng đầu của nhà quân sự, bất kể là lúc thực lực của mình lớn mạnh hay là lúc lực lượng của mình nhỏ yếu. Có nhiều kĩ xảo che giấu, cho nên những người muốn làm việc lớn không thể không hiếu rõ một cách tỉ mỉ. Lưu Bị khéo mượn sấm che mình Thuật che giấu ở thời kì ẩn náu là vô cùng cần thiết. Lưu Bị thời Tam quốc khi chưa hình thành tập đoàn quân sự của mình luôn luôn ở trong chiến tranh chạy ngược chạy xuôi tất tưởi, đến một vùng đất căn cứ cũng không có. Ngược lại, đối thủ của ông ta là Tào Tháo lại trong dẹp loạn giành được quyền thế cao nhất, chỉ dưới một người nhưng đứng trên hàng vạn người. Lưu Bị cũng đành ẩn náu dưới tay Tào Tháo. Về sau một số người bất mãn với sự chuyên quyền của Tào Tháo đã ngầm phác kế hoạch phong trào chống Tào. Họ cử Lưu Bị làm thủ lĩnh, tập thể kí tên tấu thư lên Hoàng đế. Lưư Bị vì để tránh Tào Tháo phát hiện ra bèn cố ý che giấu hoài bão của mình, một lòng ở nhà trồng rau trong sân, biểu thị mình sẽ không có dã tâm xuất đầu, lộ diện nữa. Nhưng có một hôm, Tào Tháo đột nhiên cử người gọi Lưu Bị đến gặp mặt, Tào Tháo đã òa lên khóc và nói : ”ở nhà làm được việc lớn tốt !". Lưu Bị đã giật nảy mình ngỡ là kế hoạch chống Tào Tháo bị Tào Tháo biết được rồi. Sau khi ông biết Tào Tháo nói là chỉ việc trồng rau mới an tâm. Được một lát, Tào Tháo bảo người bày mâm rượu ra, hai người ngồi đối nhau, vừa uống rượu vừa chuyện trò thoải mái. Rượu đã ngà say, trên bầu trời bỗng nhiên mây đen ùn ùn kéo đến, giống như một con rồng bay treo lơ lửng trên không. Tào Tháo bèn mượn đề nói một cách tâng bốc : "Sứ quân chắc biết sự biến hóa của rồng chứ ?" Lưu Bị trả lời nói : chưa biết tường tận lắm ! Tào Tháo liền đĩnh đạc nói : Rồng lúc thì lớn lúc thì nhỏ, có thể bay lên lại có thể ẩn náu. Khi lớn thì nổi mây nhả mù, khi nhỏ thì ẩn náu tàng hình, Khi lên thì bay vút vào trong vũ trụ bao la, lúc ẩn thì đắm chìm vào trong sóng nước. Nay đang độ xuân, rồng lại gặp thời tha hồ biến hóa, giống như người đắc chí nên tung hoành bốn bể. Rồng là động vật có thể sánh với anh hùng của thế gian. . Tiếp đó, Tào Tháo chuyển đầu đề câu chuyện lại nói : "Huyền Đức tâu nay đi khắp bốn phương, chắc chắn biết nhiều anh hùng thời nay. Xin hãy nói thử nghe". Rõ ràng Tào Tháo đang thăm dò tầm nhìn và hoài bão của Lưu Bị. Lúc này Lưu Bị lại rất lạnh lùng giả vờ như không biết, nói : Lưu Bị tôi vì được sự che chở của ngài nên mới được làm quan trong triều, nên anh hùng của thiên hạ quả thực không biết. Hơn nữa, hai con mắt thịt này của tôi làm sao có thể khám phá được ai là anh hùng ? Nhưng Tào Tháo cứ một mực đòi Lưu Bị nêu ra vài người. Lưu Bị đành phải nói ra mấy người như Viên Thuật, Viên Thiệu mà đương thời đang có thế. Tào Tháo đều phủ nhận từng người một. Bởi vì người anh hùng trong mắt của Tào Tháo phải là người "trong bụng có mưu hay,có tàiôm cả vũ trụ, có chí nuốt cả thiên hạ". Đến đây, Lưu Bị ắt phải hỏi Tào Tháo : "Ngài xem ai có thể làm được người anh hùng như vậy ?” Tào Tháo chỉ vào Lưu Bị cười và nói : "Ngày nay anh hùng trong thiên hạ chỉ có sứ quân và Tào Tháo này thôi " Lưu Bị được một phen hoảng sợ, đôi đũa đang cầm trông tay cũng rơi xuống đất. Ông không ngờ tới mình đã ẩn giấu lòng mình đến thế, mà vẫn không tránh khỏi con mắt của Tào Tháo. Đúng lúc này trên trời bỗng vang lên một tiếng sấm, Lưu Bị ung dung cúi người xuống nhặt đũa lên, nói "Uy lực của tiếng sấm này to lớn thật". Sách "Tam quốc diễn nghĩa" viết đến đây, cũng không nén nổi đã ca ngại thuật ẩn giấu mưu trí của Lưu Bị : Gượng vào hang cọp tạm nương mình, Nói rõ anh hùng sợ thất kinh. Mượn tiếng sấm vang để che chở, Tùy cơ ứng biến giỏi như Thần Bản tính của Tào Tháo nổi tiếng gian hùng, lần này ông ta chuyên tâm để khảo sát Lưu Bị, nhưng cuối cùng ông ta vẫn chưa khám phá ra được diễn biến tâm lí của Lưu Bị, lí do vì "khéo mượn tiếng sấm để che mình". Cách làm của Lưu Bị mượn tiếng là trồng rau, thật ra vẫn không che mắt được Tào Tháo, cho nên mới có trò "uống rượu luận anh hùng" này. Vì vậy, khi đối thủ mà bạn định che giấu là một người thành thạo, thì thuật che giấu của bạn nhất định phải chu đáo, chặt chẽ không sai sót tí nào. Bằng không thì một khi bị người ta phát giác ra được, hoàn cảnh của bạn sẽ rất bi đát. Thuật che giấu chặt chẽ nhất cũng không qua được sự che đậy của thiên nhiên. Nếu như không có tiếng sấm kia thì dù Lưu Bị có nói khôn nói khéo đến chừng mấy cũng không thể giấu nổi Tào Tháo. Cho nên bạn cần phải bình tĩnh, vẫn còn có một vận may. Thiếu hai điều kiện này, tốt nhất bạn đừng nên chơi trò khôn vặt này. Cái chết của Dương Tu Bởi vì ai cũng không mong muốn mình bị vượt qua. Đây là nhược điểm của nhân tính. Nhược điểm này trong xã hội ngày nay đã lan tràn thành tai hại rồi. Là người đứng đầu đều mong muốn bạn có thể làm được nhiều việc, nhưng chỉ có một sự việc không mong bạn làm : đó chính là vượt qua ông ta. Tài tử Dương Tu Thời Tam Quốc chính là do tài năng vượt hơn người đứng đầu của ông là Tào Tháo, mới bị Tào Tháo giết chết. Nguyên nhân ông làm cho Tào Tháo bất mãn có bốn việc : Việc thứ nhất : Có một lần Tào Tháo xây dựng một vườn hoa. Sau khi làm xong, Tào Tháo chưa nói tốt hay nói xấu, mà chỉ viết trên cửa một chữ "hoạt". Nhiều người nhìn thấy đều không hiểu ý của nó. Dương Tu lại khám phá ra ẩn ý của nó. Trong chữ "Môn" thêm một chữ "Hoạt” là chữ "Khoát" (nghĩa là rộng). Tào Tháo chê cái cửa là rộng quá. Thế là người ta lại xây tường bao lại, cải tạo xong xuôi, lại mời Tào Tháo đến xem, Tào Tháo cả mừng hỏi đây là ai biết dụng ý của ta ? Hai bên tả hữu đều nói với ông là Dương Tu. Tào Tháo trên đầu lưỡi đều khen Dương Tu, nhưng trong lòng lại rất kiêng dè ông ta. Việc thứ hai : Một hôm từ Tái Bắc đưa đến cho Tào Tháo một hộp bơ. Tào Tháo tiện thể viết lên trên vỏ hộp 3 chữ "Nhất hợp tô” rồi đặt lên đầu án thư. Dương Tu bước vào nhìn thấy liền bảo người đem thìa đến và mọi người đều ăn. Tào Tháo trở về hỏi, Dương Tu nói : "Thừa tướng đã viết rõ ràng trên hộp là "mỗi người một miếng bơ". Chúng tôi sao dám trái lệnh của Thừa tướng ?" Tào Tháo và mọi người đều cười ồ lên một trận, nhưng trong lòng lại rất ghét Dươrg Tu. Việc thứ ba : Tào Tháo luôn luôn lo sợ người khác ngấm ngầm sát hại mình, thường hay nói với thị vệ : "Ta trong cơn mơ hay giết người lắm, nên khi ta ngủ, các người đều không nên lại gần ta" Một hôm, Tào Tháo ngủ đánh rơi chăn, một thị vệ vội vàng đi đến đắp lên cho ông, Tào Tháo liền trở dậy giết chết người thị vệ này đã làm trái lệnh cấm của ông ta. Sau đó lại lên giường ngủ tiếp. Một lúc lâu mới dậy làm ra bộ sửng sốt, hỏi : "Ai đã giết người thị vệ của ta ?". Người ta bèn kể lại thực tình với Tào Tháo, Tào Tháo liền giả vờ khóc, bảo người chôn cất chu đáo. Sau sự việc này mọi người đều tin Tào Tháo trong mơ hay giết người, chỉ có Dương Tu nói "Không phải là Thừa tướng trong mơ mà là ta trong mơ“. Tào Tháo nghe được càng căm Dương Tu hơn. Việc thứ tư : Con thứ ba của Tào Tháo là Tào Thực rất tán thưởng tài năng của Dương Tu, thường mời Dương Tu đến bàn luận. Có một lần Tào Tháo muốn thử tài của hai đứa con trai mình. Dương Tu lại ngầm làm đáp án cho Tào Thực, kết quả là Tào Thực luôn luôn trả lời các câu hỏi cha nêu rất trôi chảy, Tào Tháo liền có vẻ hoài nghi. Lúc này anh của Tào Thực là Tào Phi mua chuộc những người xung quanh em mình, đem đáp án Dương Tu làm nộp trộm cho Tào Tháo, Tào Tháo cả giận quát "Tên thất phu này dám cả gan đánh lừa ta !" từ đấy mang lòng muốn giết Dương Tu. Về sau, Tào Tháo quả nhiên đã tìm được tội danh giết chết Dương Tu. Khi Dương Tu chết mới có 34 tuổi. Từ trong bốn việc trên, chúng ta có thể được một đáp án rất rõ ràng, đó chính là không nên bộc lộ tài năng của bạn ra. Đáng tiếc cho Dương Tu, một con người có tài "dưới ngọn bút rồng rắn chạy, trong lòng gấm vóc dệt nên, tài nói cử tọa phải kinh, ứng đối tài danh đầu bảng", duy chỉ có một nỗi không sành thuật ẩn giấu, mới vì thế mà chuốc lấy vạ vào thân. Phân tích tỉ mỉ bốn việc này thấy kỉ xảo của thuật ẩn giấu cũng đều rõ một mảng nhỏ. Việc thứ nhất, Dương Tu đã phạm một điều kị : Tào Thảo dùng đố chữ để kiểm tra mọi người, tất nhiên là mong có người có thể giải được. Nhưng tuyệt đối không mong có người chỉ trong chốc lát đã khám phá ra, bằng không thì tài năng của ông ta sẽ không nổi bật. Cho nên, Dương Tu đã phạm chữ kị là "vội vàng". Việc thứ hai, Dương Tu đã phạm một chữ kị là "kiêng nể". Mỗi người làm lãnh đạo đều muốn tạo cho mình một uy tín, làm cho mình có chỗ khác biệt với những người thủ hạ (dưới quyền), nhưng lại không chướng mắt. Hộp bơ kia chỉ có thể do chính Tào Tháo phân cho từng người một miếng, mà không phải là để cho từng người tự mình chia lấy đế ăn. Đây là điều cấm kị không thành văn bản, không cẩn thận một chút sẽ có thể xúc phạm đến cấp trên. Mỗi người đều có việc giấu giếm riêng của mình. Cho nên gọi là điều giấu riêng chính là những việc không thích cho người khác biết. Dương Tu không chú ý đến điểm này mà lại khám phá ra điều giấu riêng của Tào Tháo, từ đó đã mắc phải sai lầm thứ ba. Việc giấu giếm riêng của một người sau khi bị người khác biết được, cảm giác an toàn về tâm lí của người này không còn nữa. Như thế thì cảm giác an toàn của ông ta đã mất đi, chỉ đành lấy cảm giác an toàn của bạn để bảo đảm, bạn chỉ có chết thỏi. Sai lầm thứ tư mà Dương Tu phạm phải chính là xen vào những việc bí mật của các vương vị chốn cung đình. Xưa nay Hoàng đế chọn Thái tử đều là việc tranh giành hiểm ác, chỉ có những người trong hoàng tộc mới có thể tham dự vào. Còn Dương Tu một chức quan thủ bạ cấp thấp là không nên quấy rầy vào trong đó. Một Dương Tu đã chết, vẫn có thể còn có người tài thứ hai, thứ ba... Phải chăng người ấy lại chính là bạn ? Biểu lộ mình không có khả năng Nếu như Dương Tu không biểu hiện ra "mình có khả năng" mà lại là biểu hiện "mình không có khả năng" thì tuổi thọ của ông e rằng không phải là chỉ nhỏ nhoi ở tuổi 39. Quân hai hên đối trận nhau, hai bên đều muốn tỏ ra sức lớn mạnh của mình. Nhưng lại có ông tướng trái lại chỉ ngồi đánh tì bà, để biểu thị mình không có khả năng. Người này chính là Li Mục, một tướng giỏi của nước Triệu. Năm 244 trước công nguyên, ông vâng mệnh trấn thủ vùng biến ải để ngăn chặn quân Hung nô vào xâm lấn. Ông căn cứ tình hình địch mạnh ta yếu đương thời đã dùng chiến lược phòng thủ chuẩn bị tác chiến tích cực. Ông đã đem toàn bộ số thuế thu được của địa phương dùng vào việc chi tiêu cho quân đội. Còn hàng ngày đều luyện tập binh mã, nhưng chỉ không ra ngoài thành chiến đấu. Thậm chí ông còn hạ lệnh : quân Hung nô vào xâm lấn, không được cùng chiến đấu, người làm trái sẽ bị chém đầu. Mỗi lần quân Hung nô vào xám lấn, ông đều dẫn quân đội trở về doanh để thủ trại, không giao chiến với quân dịch. Người Hung nô tưởng nhầm là Lí Mục nhát gan, những người thủ hạ của Lí Mục cũng cho là như thế. Triệu vương sau khi biết được tin này liền khiển trách Lí Mục là không có khả năng, đã đốc thúc ông xuất chiến, nhưng Lí Mục vẫn làm theo phương châm của mình, Triệu vương bèn tức giận liền điều Lí Mục trở về. Vị tướng mới đến nhận nhiệm vụ đã thay đổi phương châm chiến lược của ông đã lia lịa giao chiến với quân địch. Kết quả là trong thời gian chưa đầy một năm, quân nước Triệu liên tục bị thất bại. Cả đến những người dân thường cũng không dám ra ngoài đế chăn thả súc vật. Triệu vương lại đành phái triệu Lí Mục đi. Sau khi Lí Mục phục chức, lại vẫn dùng sách lược như trước đây. Sau này, quân Hung nô kiêu ngạo nên không phòng bị đã đem lại cho Lí Mục thời cơ phản công. Ông cho dân thường ở địa phương đều đi chăn thả súc vật để dụ quân địch đến cướp, sau đó lại cử một ít quân đội ra tiếp địch chính diện, lúc đánh lúc lui để dụ chủ lực của địch ra ngựa. Lúc này phục binh của Lí Mục từ hai bên xông ra bọc đánh đã chém chết hết mười mấy vạn quân Hung nô. Đồng thời nhân đà hăng hái đánh luôn một mạch đã bắt Lâm Hồ hàng phục và đánh bại Đông Hồ. Từ đó mười mấy năm sau, người Hung nô không dám vào xâm lan nước Triệu nữa. Có khả năng mà lại biểu thị mình không có khả năng, đó là kĩ xảo ngụy trang nhân tạo. Kì xảo này xây dựng trên cơ sở có mưu kế toàn cục. Từ sự so sánh tình thế địch ta đương thời để xét, không vội vàng xuất chiến, vì thực lực không đủ, chuẩn bị chưa đầy đủ, điều kiện tác chiến không thành thực. Con Rồng trong Lí Mục cũng đành phải ẩn náu, tập trung chi phí cho quân đội, tập luyện binh mã, đợi thời cơ. Đây là cách nhìn xuất phát từ lợi ích dài lâu. Có khả năng thì lại tỏ ra là không có khâ năng, tuy tỏ ra không có khả năng nhưng thật ra là có khả năng. Có khả năng là bản chất. Còn không có khả năng là thủ đoạn đế đạt tới mục đích, làm cho đối phương biết bạn không có khả năng rồi để anh ta buông lỏng Cảnh giác đối với bạn. Buông lỏng cảnh giác để tự kiêu ngạo. Người người đều có thể kiêu ngạo, kĩ xảo "biểu lộ mình không có khả năng" chính là để cho đối phương kiêu ngạo. Lí Mục khi vận dụng kĩ xảo này đã làm hai việc : Một là, vừa nhận nhiệm vụ đã làm cho đối phương cảm thấy mình là một tướng phái bảo thủ, sợ xung đột chính diện, đây là điều kiện tiền đề của toàn bộ chiến lược. Hai là, sau khi thời cơ đến, cũng không phải là lập tức làm trái ngược với bình thường, chuyển về phản công, vẫn giữ "tỏ ra không có khả năng" như trước. Dùng một số ít quân lính giao chiến vỏi chủ lực của quân địch, lúc đánh lúc lui, cho mãi tới lúc đưa quân địch dẫn vào trong vòng bao vây.Trong cả quá trình từ đầu đến cuối đều xuyên suốt biểu hiện "không có khả năng". Lợi ích của việc này là ở chỗ không làm cho quân địch phát giác, đế làm cho chúng đi vào chỗ chết từ trong kiêu ngạo. Vì vậy, khi dùng thuật che giấu ”tỏ ra mình không có khả năng" nhất định phải chú ý sự thực tỉ mỉ. Tôn Tẫn giả điên Ở Trung Quốc rất ít có người đọc qua "Tôn Tẫn binh pháp”. Nhưng chuyện Tôn Bàng đấu trí thì đến phụ nữ và nhi đồng cũng đều biết cả. Tôn Tẫn và Bàng Quyên vốn là bạn đồng môn học nghệ cùng một thầy, về sau Bàng Quyền mưu đươc ngôi cao ở nước Ngụy, liền quên ngay sư đệ ở trong đầu. May sao khi Mặc Tử đi chu du các nước, để đền đáp sự đối đãi của Ngụy vương bèn tiến cử Tôn Tẫn cho Ngụy vương, trở thành người trợ thủ của Bàng Quyên. Tôn Tẫn cho là công của sư huynh tiến cử, cho nên trong lòng rất cảm kích ông ta. Còn Bàng Quỳên lại vô cùng căm ghét sư đệ không mời mà đến này, bởi vì thế trận mà ông ta bày ra, Tôn Tẫn vừa nhìn đã biết ngay, còn thế trận mả Tôn Tẫn bày ra thì ông ta lại nhìn không thấu suốt. Thế là, ông ta liền bắt đầu tạo ra âm mưu quỷ kế đối với sư đệ. Trước hết ông ta bắt chước nét chữ của Tôn Tẫn viết một là thư hàng Tề. Sau đó đem bức thư này đưa đến cho Ngụy vương, Ngụy vương cho rằng chứng cứ như thế không đủ để giết Tôn Tẫn, để tránh làm cho người ta nói ông "khinh kẻ sĩ". Bàng Quyên một kế này không thành lại bày đặt ra kế khác. Ông ta đã khuyên Tôn Tẫn dâng thư xin nghỉ về nhà thăm nhà và tảo mộ. Sau đó lại đến chỗ Ngụy vương mật tâu là Tôn Tẫn muốn làm phản Ngụy. Lần này Ngụy vương liền tin, bèn cất chức của Tôn Tẫn, giao cho Bàng Quyên xử lí. Bàng Quyên vốn trong bụng muốn giết Tôn Tẫn nhưng để có thể có được quyển "Tôn Tử binh pháp" kia, liền thực thi thuật ẩn giấu. Ông ta nói với Tôn Tẫn : Ngụy vương vốn muốn xử ông cực hình, vì có tôi tâu hộ chỉ cần chặt chân xăm mặt sẽ có thể tránh được cái chết. Tôn Tẫn tin cho là thật, để báo đền ơn đức của sư huynh, quyết tâm sao chép "Tôn Tử binh pháp” cho Bàng Quyên. Ngay lúc sách sắp viết xong, có một người gia đinh của Bàng Quyên mang lòng thương xót, đem chân tướng của sự việc nói cho Tôn Tẫn biết. Cuối cùng Tôn Tẫn mới hiểu được sự lừa gạt của Bàng Quyên. Nhưng lúc đó thân thế Tôn Tẫn đã tàn phế, lại đang trong nhà tù, làm thế nào để thoát khỏi sự sát hại của Bàng Quyên đây ? Tôn Tẫn nghĩ ra một biện pháp hay tương kế tựu kế. Một hôm đang ăn cơm Tôn Tẫn bỗng nhiên ngă lăn dùng xuống đất giả vờ phát điên. Ông đập đổ hết cơm và thức ăn, đốt cháy hết quyển "Tôn Tử binh pháp" vừa viết xong, xõa tóc rối tung lên la ó om sòm. Sau khi nghe tin Bàng Quyên liền chạy đến ngay, trông thấy Tôn Tẫn một lát cười lên, một lát lại khóc ầm lên, một lát lại chửi mắng. Nhưng Bàng Quyên nghi ngờ Tôn Tẫn giả điên, liền bảo người đem vứt ông vào chuồng lợn và đưa rượu và thức ãn cho ông. Tôn Tẫn biết là Bàng Quyên đang thử mình, ông lại càng phát điên hơn. Ông đổ hết rượu và thức ăn rồi tranh thức ăn với lợn, ăn từng miếng, từng miếng thật to. Bàng Quyên tin Tôn Tẫn điên thật rồi, nên không nghĩ giết ông nữa. Tôn Tẫn suốt ngày bò đi bò lại giống như người điên không có ai nhận ra là ông giả điên, Tôn Tẫn thường thường ngủ ở trên đường lớn, mục đích để cho sứ giả của các nước nhìn thấy mình, về sau đồ đệ của Mặc Tử đã phát hiện ra Tôn Tẫn giả điên đã nói tình hình của Tôn Tẫn với thầy. Tề vương bèn cử người đem trộm Tôn Tẫn về nước Tề. Vì sự sống còn mà giả điên có thể Tôn Tẫn là người dùng mưu kế này đầu tiên. Ông dùng kế giả điên để đối xử với người giả tốt của Bàng Quyên, từ đó mới giữ được tính mệnh của mình. Từ thuật quyền mưu đế xét, trò ẩn giấu thực dụng của Bàng Quyên cũng là rất cao siêu. Không những ông ta đã hại Tôn Tẫn mà còn làm cho ông ta cảm kích bản thân, hiệu quả của nó là tốt. Mưu kế mà Tôn Tẫn sử dụng là ở chỗ không vạch trần âm mưu của Bàng Quyên, mà là mượn đề để phát huy, tương kế tựu kế. Ích lợi ít nhất đạt được của cách làm này có hai điều : đốt sạch sách "Tôn Tử binh pháp" mà không dẫn đền bị giết; có khả năng liên hệ với bên ngoài. Nếu như không có việc Bàng Quyên đóng giả người tốt này thì dù Tôn Tẫn có điên thật cũng có thể bị Bàng Quyên giết chết. Bàng Quyên là Đại nguyên soái không thể để cho người ta nói ông đã giết chết sư đệ của mình, huống hồ là một người điên tàn phế ? Bất cứ sự ẩn giấu nào đều phải có một điều kiện tiền đề, trên điều kiện này dùng tâm kế mới có thể giành được hiệu quả thực sự. Hình thức ngụy trang nhân tạo còn cần phải chú trọng mới mẻ. Tôn Tẫn giả điên chính là người khác chưa từng dùng, hơn nữa không thấy trong tác phẩm kinh điển, cho nên mới che giấu được Bàng Quyên. Tống Giang trong "Truyện Thủy Hử" vì sau khi uống rượu đã để bài thơ chống lại ở lầu Tầm Dương đã mang lại họa hại mình. Đế lẩn tránh đành phải giả điên. Nhưng đáng tiếc là trò này của ông không che giấu nổi con mắt của Hoàng Văn Bính, cuối cùng vẫn là quyết định trừng trị Tống giang: Có một số thuật ẩn giấu chỉ có thể dùng một lần sẽ không thể dùng lại được nữa, điều này chính là do hoàn cảnh đấu tranh phức tạp quyết định. Gia Cát Lượng một đời mình cũng chỉ dùng kế bỏ thành trống một lần. Giả cũng không thể tất cả đều là giả, mà thật cũng không thể tất cả đều thật, đây là phép biện chứng của quyền mưu. Lưu Bang trước và sau Hồng Môn yến Năm 208 trước công nguyên, Vương triều nhà Tần phái quân đánh nước Triệu vừa tự lập không lâu, Triệu vương cầu viện với Sở Hoài vương là thế lực chống Tần mạnh nhất, Sở Hoài vương nhìn thấy chủ lực của quân Tần không ở Hà Bắc, liền quyết định thừa cơ hội diệt nhà Tần. Thế là chia quân ra thành hai cánh, một cánh do Hạng Võ dẫn đầu, một cách quân khác do Lưu Bang dẫn đầu, đồng thời hai người hẹn ước với nhau ai tấn công vào Quan Trung trước thì người đó sẽ làm vương của Quan Trung. Lưu Bang và Hạng Võ chia quân xuất phát, kết quả là trong thời gian một tháng Lưu Bang đã đánh tới đô thành của triều Tần là Hàm Dương. Tần vương Tử Anh bị buộc đầu hàng, vương triều Tần tuyên bố diệt vong. Hạng Võ trải qua nhiều lần ác chiến, cũng mới chỉ áp sát được đến Lâm Đồng. Sau khi nghe tin Lưu Bang đã ở trong cung Tần ở Hàm Dương ông ta rất căm ghét, liền cử Đại tướng Anh Bố công phá cửa quan Hàm Cốc do quân của Lưu Bằng trấn giữ. Bốn mươi vạn quân thèm thuồng như hổ đói đóng quân ở bên ngoài cửa quan chuẩn bị tiêu diệt Lưu Bang. Thực lực của Lưu Bang còn xa mới bằng Hạng Võ. Nỗi vui vừa mới từ thắng lợi mang lại một chốc'đã tan biến, Lưu Bang đang đứng trước nguy hiểm bị diệt vong. Lúc này, mưu thần Trương Lương, thủ hạ của Lưu Bang nghĩ ra một kế hoãn binh. Ông kiến nghị với Lưu Bang niêm phong Tần cung lại, đem quân ra đóng hết ở Bá Thủy ngoài thành, sau đó cử người đi mời Hạng Võ đến tiếp quản, biểu thị mình không có dã tâm chiếm những đồ đạc này. Như vậy Hạng Vỏ sẽ không thể hận Lưu Bang nữa. Lưu Bang đã làm theo lời của ông, đem vàng bạc châu báu, cung thất lầu các, đến đầi, phi tần... tất cả đều giao cho Hạng Võ hết. Hạng Võ, một con người chạy theo danh vọng này mới chuyển giận thành vui đã xua tan ý nghĩ giết người. Nhưng, ý đồ xưng vương của Lưu Bang che giấu vẫn bị Quân sư Á Phụ, thủ hạ của Hạng Võ nhìn nhận ra. Á Phụ cho rằng Lưu Bang vẫn là giết quách đi thì hơn, thế là liền bày ra Hồng Môn yến nổi tiếng xưa nay. Lưu Bang dẫn Trương Lương và Phàn Khoái đến quân doanh của Hạng Võ để dự tiệcTrong tiệc, Phạm Tăng đã mấy lần ra hiệu cho Hạng Võ hành động, nhưng Hạng Võ lại do dự. Bởi vì ông ta cho rằng trên tiệc rượu giết người là mánh khóe của kẻ tiểu nhân, người hảo hán phải là ngồi trên lưng ngựa giữa trận tiền lao lên giết đối phương mới là anh hùng. Phạm Tăng đành phải để cho Hạng Trang hoàn thành việc này. Ông đã để Hạng Trang múa gươm trước tiệc, tìm cơ hội giết chết Lưu Bang. Hạng Bá, chú của Hạng Võ, vì là bạn của Trương Lương đã thấy Lưu Bang nói trước mặt Hạng Võ nhiều điều tốt đẹp. Ông biết dụng ý của Hạng Trang liền đứng dậy múa gươm đối với Hạng Trang, để từ đó yểm hộ cho Lưu Bang. Không khí trên bàn tiệc vô cùng căng thẳng. Trương Lương liền gọi Phàn Khoái đến để bảo hộ Lưu Bang. Phàn Khoái là một viên dũng tướng, ông liền cắp gươm, cầm là chắn xông vào yến tiệc. Hạng Võ đành phải bảo Hạng Trang ngừng múa gươm. Lưu Bang nhân cơ hội dứng dậy nói mình cần phải đi đến chỗ vệ sinh, lặng lẽ theo đường nhỏ chạy về quân doanh của mình. Lưu Bang trước và sau Hồng Môn yến nghe theo mưu kế của Trương Lương, đã hai lần dùng thuật ẩn giấu tránh được nguy hiểm. Nói một cách tương đối thì việc sử dụng thuật ẩn giấu lần thứ nhất là không dễ dàng lắm. Bởi vì người bình thường đều không có cách gì gắng chịu được sự hấp dẫn của hoàng cung nhà Tần. Khi mới vào Hàm Dương, những người thuộc hạ của Lưu Bang đã trắng trợn cướp giật Tần cung. Điều này hoàn toàn có thể hiểu, vì họ liều mình giết lẫn nhau cũng chỉnh vì những thứ đồ chưa bao giờ từng thấy này. Ở đây, còn cần phải nhắc đến một người không phải là người tầm thường là Tiêu Hà. Khi người khác tranh cướp vàng bạc châu báu, ông ta lại tiến vào phủ Thừa tướng, thu thập hết toàn bộ vàn kiện thư tịch hiện giữ ở đó. Như vậy, toàn bộ hình thế sông núi, quan ải hiểm trở của cả thiên hạ đương thời và các tài liệu khác đều bị Tiêu Hà nắm rõ như xem lòng bàn tay. Trong chiến tranh Hán Sở sau này đều đã phát huy tác dụng. Tiêu Hà cũng vì thế đã trở thành vị Thừa tướng đầu tiên của Vương triều Tây Hán. Do tầm nhìn của họ cao xa, cho nên mới giành được thành công khác với người bình thường. So sánh một chút ta thấy tầm nhìn và hoài bão của Lưu Bang cũng rất lớn lao. Ông đã đem một cung thành bị tàn phá giao đi, đã biểu thị lòng tin của ông đối với việc giành lại nó. Trong lòng ông đã có một cung điện so với cái này còn nguy nga tráng lệ hơn. Người không có chí hướng lớn, không thể dùng thuật ẩn giấu. Lần thứ hai Lưu Bang sử dụng thuật ẩn giấu, trên thực tế là tiếp tục của lần thứ nhất. Rõ ràng biết có thể xấu nhiều tốt ít, nhưng lại không thể không đi, bằng không thì có thể vứt hết mọi công lao trước kia. Khuất phục cần phải phát ra từ tận đáy lòng. Do đó khi biểu hiện sẽ phải giống như thật. Cho nên, khi Lưu Bang đến dự yến, Hạng Võ đã phải do dự. Sao nỡ giết một con người đã lập được chiến công mà lại khuất phục đối với mình như thế? Ấn tượng Hạng Võ để lại cho người ta là tàn bạo. Ông đã từng đem mười mấy vạn quân Tần đã hàng giết hết sạch không thương tiếc. Nhưng điều này không thể nói lên Hạng Võ nhất định có thể giết chết Lưu Bang. Võ sĩ Trung Quốc đã từng nói : không đánh đối thủ ngã nhào xuống đất. Điều này hầu như đã hình thành một quan niệm tư tưởng. Ví như : người nam giới tốt không đấu với nữ giới. Trước hết vì sống mãi mãi, Lưu Bang đã tự mình ngã gục xuống đất, giống như đàn bà cẩn thận cười làm lành với Hạng Võ uy phong lẫm liệt. Thế là, ông ta đã thắng. Việc đó chỉ mới có mấy năm sau thôi, ông đã nhìn vào xác chết của Bá vương mà cười lên ha hả. Thử nghĩ xem, làm sao ông có thể không cười được ? Câu Tiễn cố chịu nhục Năm 496 trước công nguyên, Phù Sai kế thừa vương vị của nước Ngô, liền chuẩn bị báo thù cho phụ vương bị quân nước Việt đâm bị thương và chết. Hai năm sau, ông đã phát động chiến tranh phục thù. Trận này đánh quân Việt thua liểng xiểng. Việt vương Câu Tiễn chỉ dẫn theo hơn năm ngàn quân chạy lên núi Cối Kê. Binh mã của Phù Sai đã vây chặt toàn bộ núi này. Câu Tiễn đứng trước nguy hiểm "nước phá dân vong“. Lúc này, Văn Chủng đã đạo diễn cho ông một trò che giấu "lời hèn lễ hậu" đế cầu hòa. Để diễn xuất thành công, Văn Chủng dẫn mĩ nữ và báu ngọc hối lộ trước Bá Hỷ, một bầy tôi được Phù Sai cưng chiều, để Bá Hỷ tâu lên Phù Sai. Sau đó, Câu Tiễn dẫn vợ con và Phạm Lãi vào. Họ đóng vai con tin. Trên thực tế là người chăn ngựa của Ngô vương, ở trong phòng xây bằng đá của mộ tiên phụ của Phù Sai. Cầu Tiễn đối với vai mình đóng rất chăm chỉ chú ý đến từng chi tiết. Mỗi lần Phù Sai đi xe, ông đều dắt ngựa cho kẻ chiến thắng này với bộ điệu một lòng chờ sai khiến. Một lần, Phù Sai bị ốm. Câu Tiễn liền chủ động mang cơm và thức ăn cho Phù sai, lại còn bưng phân và nước tiểu nữa. Hơn nữa, còn tự dùng miệng nếm thử phân của Phù sai để xác định âm dương hàn nhiệt của bệnh tình. Qua nhiều lần diễn, rốt cục đã giành được sự tín nhiệm của Phù Sai. Năm 491 trước công nguyên ông đã được thả về nước. Trước lúc di, Câu Tiễn vẫn không bị niềm vui làm mê muội đầu óc, tiếp tục biểu diễn vai sắm của mình. Ông kéo tay của Phù Sai biểu hiện dáng vẻ bịn rịn không nỡ xa rời, khóc lóc thảm thiết nói : Sau khi về nước tôi nhất định báo đáp tốt đại ân đại đức của Ngài. Phù Sai sung sướng nghĩ : ông ta rút cuộc đã trở thành một người đầy tớ đạt tiêu chuẩn của mình. Câu Tiễn được tha vẫn chưa về ngay cung điện phải xa cách lâu của mình, mà là đi vào trong dân gian để thăm hỏi những người có tài ba, cùng thương lượng kế hoạch lớn phục hưng đất nước. Để thôi thúc mình không quên nỗi nhục ba năm, ông không nằm ngủ với chăn nhung đệm gấm của cung vua, vẫn ngủ trên đệm cỏ khô như xưa. Ông còn sai người đi kiếm một chiếc mật đắng treo giữa phòng, hàng ngày nếm một miếng. Ông một mặt hàng năm tiến cống nhà Ngô, một mặt chỉnh đốn chính thế đất nước, làm cho nước giàu quân mạnh. Để làm mê muội Phù Sai, tiêu mòn ý chí của ông ta, Câu Tiễn đã chăm chú tuyển chọn và huấn luyện Tây Thi và một số "tuyệt sắc giai nhân" để dâng cho Phù Sai và các thuộc hạ của ông ta. Qua 20 năm chuẩn bị, Câu Tiễn cuối cùng đã tấn công nước Ngô. Lần này, bị vây ở trên núi là Phù Sai. Phù Sai đã bị cùng đường đành bưng mặt tự sát. Câu Tiễn đã quyết không thể cho ông ta một con đường ẩn náu tung tích. Trong lịch sử Trung Quốc, hầu như không tìm lại được một quốc vương có thể chịu đựng nhục như Câu Tiễn như vậy. Do đó khi nhắc đến thuật cố chịu đựng sẽ không thể không nói đến Câu Tiễn. Ông đã phải chịu đựng nỗi nhục với tư cách ông vua của một nước không thể chịu đựng nổi. Không tiếc vàng bạc đế mua chuộc, không tiếc hi sinh cả vợ con và bầy tôi cưng chiều, không tiếc làm những việc mà người con có hiếu cũng khó có thể làm được. Sự nhẫn nhục của Câu Tiễn không phải vì sống tạm bợ mà là để rửa nhục. Bất cứ thuật cố chịu đựng nào rốt cục đều là vì mình cuối cùng tiêu diệt đối phương mà tích trữ lực lượng và thời gian. Người chỉ vì mạng sống mà phải khuất phục là tham sống sợ chết; Vì phục thù dẫn đến để cho người khác khuất phục bạn mới đáng sử dụng dùng loại mưu kế này, nếu không thì chỉ đáng làm một tên nô lệ. Vẫn có một số người giỏi khi thắng lợi mà không giỏi khi bị thất bại. Binh thư của quá khứ cùng chỉ dạy người ta phải làm gì và làm như thế nào đế đánh bại người khác, rất ít có người dạy sau khi thất bại thì phải như thế nào. Thiết nghĩ cần có "kế chiến bại’ như thế cũng không thể có người dám bỏ thì giờ và công sức để học. Nghe nói điều tín ngưỡng cao thượng của võ sĩ xưa là : chỉ cần thắng không cần thua. Mà sau khi thua chỉ có đem chặt đứt cổ của mình. Loại người này xem cuộc sống quá giản đơn, cho nên mới có thể dùng phương thức đơn giản như thế để đối xử với đời. Trong xã hội vì sinh tồn mà sinh tồn, con người ta phải học được thuật ẩn giấu. Vương Mãng tiếm quyền Vương Mãng hầu như bị quăng ra ngoài cửa quyền thế, trong nghèo túng và lẻ loi đã gieo hạt giống dã tâm. Nhưng Vương Mãng là lớp trẻ vô danh, nên không có cách nào thi thố dã tâm của ông. Chỉ cần bền lòng chờ đợi, thời cơ vẫn có thể đến. Vào năm Dương Sóc, Thời cơ của Vương Mãng đến. Đại tướng Vương Phượng, bác của ông bị bệnh đã đến lúc nguy kịch, lớp thanh niên trai trăng trong gia tộc, chi lo ham mê tửu sắc, không ai muốn chăm sóc chu đáo vị đại tướng đang ốm nằm trên giường này. Vương Mãng đã nhân cơ hội đến nhà ông bác, lấy thân phận người cháu chăm sóc ông bác. Mấy tháng liền, ông đều đứng hầu ở bên cạnh Vương Phượng, quần áo xốc xếch măt mày nhem nhuốc bận rộn, tự mình nếm thuốc và cho Vương Phượng uống thuốc. Kết quả là đã làm cảm động ông bác trong lúc đang ốm. Vị đại tướng này trước lúc sắp chết muốn làm thêm một việc tốt. Đem đứa cháu hiếu thuận hèn mọn này phó thác cho Hoàng Thái hậu và Hán đế. Có thể gọi là Vương Mãng "một bước lên trời". Mới đầu ông làm chức Hoàng môn lang, về sau lại làm Đô hầu, Đô úy, Đai phu, Thị trung, từng bước dần dần lên cao. Dã tâm cũng đang dâng cao. Vương Mãng đã nếm đủ mùi khổ của người ở tầng lớp dưới, ông không muốn lại quỳ gối tiếp nữa. Ông muốn đưa mình thoát ra khỏi cảnh khốn khó này. Năm thứ 8 dương lịch, Vương Mãng phế bỏ Hoàng đế nhà Hán, đối Quốc hiệu là Tân. Ông dẫn quân mã xông vào Hoàng cung đòi cô của ông là Hoàng Thái hậu truyền Quốc tỉ, lúc này cô của ông mới thấy hết bộ mặt thật của thằng cháu này. Bộ mặt thật của Vương Mãng luôn luôn che giấu đi. Ông để cho người trong thiên hạ đều tin ông là một người có hiếu, một người khiêm tốn lẽ phép. Điều ông sử dụng chính là kế ẩn giấu. Ông đã từng làm mấy việc như thế, có thể nhìn thấy một vài mánh khóe của nó. Vương Mãng có một anh trai, khi chết đã để lại một đứa con mồ côi gửi nuôi trong nhà Vương Mãng. Vương Mãng đưa đứa cháu đến học ở nhà một người là Tiến sĩ. Mỗi khi là ngày nghỉ ông thường ngồi xe ngựa đi đến thăm thầy học của cháu, lại còn mang đến hàng lô rượu thịt cho các bạn học của cháu. Những người đi trên đường trông thấy đều nói Vương Mãng rất yêu ái cháu. Những học trò ăn uống rượu thịt của ông trước mặt cha mẹ họ cũng đều nói như thế. Thế là Vương Mãng được tiếng khen là nhân từ. Vương Mãng còn để cho con trai của ông và đứa cháu đó cùng cưới một ngày để tỏ ra ông xem đứa cháu này cũng như con trai. Trong nhiều cuộc tiếp khách đông đảo, Vương Mãng tỏ ra rất lịch sự. Nhưng vẫn còn cảm thấy chưa được đầy đủ lắm, lại cho người mỗi cách một thời gian đến bẩm cáo nói mẹ ông bị ốm. Vương Mãng liền ngay tức khắc đi thăm mẹ của mình. Liền lặp di lặp lại mấy lần như thế, nhiều người đều cảm thấy Vương Mãng là một người con có hiếu. Hết lòng hiếu thảo ở trong nhà chưa đủ, Vương Mãng còn chú ý lôi kéo cả các đại thần trong triều. Về sau, tướng quân Chu Bác không có con trai, Vương Mãng đã mua một thị tì xinh đẹp và nói với mọi người : Ta nghe nói những người trong gia đình cô gái này có thể sinh con trai, cho nên đã mua hộ cho tướng quân. Đến khi 38 tuổi, Vương Mãng đã làm quan đến chức Đại Tư mã rồi. Bốn bác và chú của ông đã chấp chính. Nhưng càng thành công, Vương Mãng lại càng đóng giả. Ông bắt vợ mình mặc quần áo chỉ có thể che khuất đầu gối, dẫn đến làm cho người khác còn cho là người tôi tớ của nhà họ Vương nữa là khác. Sau khi người ta nhìn thấy đều nói con người Vương Mãng này lo liệu việc nhà rất tiết kiệm. Thông qua thuật ẩn giấu có thể đạt được hiệu quả không ngờ tới. Hầu như tất cả mọi nhà chính trị đều hiểu được đạo lí này, cho nên gọi loại người này là người có tài giấu kín. Đặng Tiểu Bình không giả dối Có thật như thế không ? Trong lòng mỗi người có học, tự nhiên sẽ biết. Ông ta biết mình muốn từ trong sách vở của mình được cái gì. Chỉ cần mục đích đúng, đôi khi cũng không thể không dùng thủ đoạn không bình thường. Để lật đổ chính phủ Quốc dân đảng thối nát ở Trung Quốc, đành phải dùng cuộc đấu tranh đổ máu để trả giá. Mặc dù chết người không phải là việc nhân đạo, nhưng lại phải làm như vậy. Thủ đoạn của Vương Mãng tịnh không thể nói lên điều gì, vấn đề có thể nói lên là ông ta tại sao làm như thế. Ở thời kì ẩn náu cần thuật ẩn giấu, thuật ẩn giấu không hoàn toàn là lấy giả dối để làm bối cảnh. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến một nhân vật Ngôi sao của chính đàn Trung Quốc đương đại. Ông chính là Đặng Tiểu Bình. Đánh giá của những người đương đại đối với Đặng Tiếu Bình có thể không đều nhất trí. Sự thực, đối với một nhân vật vĩ đại chỉ có thể đánh giá từ trong quá trình lịch sủ. Bây giờ vẫn chưa phải là lúc viết về vị vĩ nhân này. Nhưng theo những vấp váp của đời ông và ông đã nhìn như thế nào đối với những vấp váp này, sao lại không thể không viết một bài. Đặng Tiểu Bình là một nhà chính trị mà số lần vấp váp nhiều nhất, có màu sắc truyền kì phong phú nhất trên vũ đài chính trị của Trung Quốc mới đương đại. Lần thứ nhất là cuộc Đại cách mạng văn hóa của những năm 60. Ông là thuộc "phái đương quyền lớn nhất của giai cấp tư sản Lưu, Đặng, Đào", bị đưa đi khỏi nhà đến một nhà máy ở Giang Tây đế lao động cải tạo. Lần thứ hai là vào những năm đầu 70, tình hình chính trị Trung Quốc đã phát sinh biến đổi không ngờ tới. Bạn chiến đấu thân thiết nhất của Mao Trạch Đông đã phản bội ông, bị bắn rơi trên đường chạy trốn sang Liên Xô. Trước sự đau đớn ghê gốm của Mao Trạch Đông, đã điều Đặng Tiếu Bình trở về Bắc Kinh, giúp đỡ Chu Ân Lai chủ trì việc chính trị. Không ngờ, ba năm sau Chu Ân Lai mất, Đặng Tiểu Bình lại bị đối thủ là "bè lũ bốn tên" gạt khỏi vũ đài chính trị, cho mãi tới lúc Hoa Quốc Phong nhậm chức không lâu mới lại triệu ông vào Tân Hoa Môn một lần nữa. Trải qua mấy lần va vấp, Đặng Tiểu Bình đã trở thành người lãnh đạo quan trọng nhất của Trung Quốc những năm 80. Dưới sự lãnh đạo của ông, Trung Quốc bắt đầu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc từ trước đến nay chưa từng đi qua. Người Trung Quốc có một điều tin theo kinh nghiệm không thành văn bản : người có vóc người nhò bé, dã tâm lớn. Cho nên, Đặng Tiếu Bình người nhỏ lùn nhất trong các nhà chính trị đương đại của Trung Quốc vấp phải sự đả kích đau thảm nhất. Ông sở dĩ mấy lần bị bại lại mấy lần nổi lên, không chi ở chỗ có người cất nhắc, hơn nữa còn ở chỗ tài cán và phẩm hạnh không giả dối của ông. Trong thời gian cải tạo ở Giang Tây, nghe nói ông không viết bản kiểm thảo nào gửi cho Trung ương Đảng đương thời. Ông không thừa nhận mình là sai, về sau lịch sử chứng minh ông đã đúng. Người ta không chỉ phải sống, mà còn phải sống khá hơn. Việc Đặng Tiểu Bình làm chính là hai việc này. Khi ông bị đánh đổ lần thứ hai thì tư tưởng này đã trở thành một tội trạng. Thứ hai, chính là lí luận "mèo trắng mèo đen’ nổi tiếng kia. Tư tưởng của lí luận này là : Bất kể mèo trắng hay mèo đen, bắt được chuột chính là mèo tốt. Đương thời, vị Phó thủ tướng thứ nhất này đế cứu vãn đất nước bị cách mạng văn hóa tàn phá mà phải bận rộn đã dùng câu nói này đập lại kẻ thù chính trị của ông. Kẻ thù chính trị của ông là mấy "người lớp trẻ" ”bè lũ bốn tên" này. Nghe nói có một lần, Vương Hồng Văn nói chế giễu đối với Đặng Tiếu Bình đến họp chậm ở Đại lễ đường Nhân dân : "Ông đến quá chậm phải chăng là lí do người đã già ?” Đặng Tiểu Bình liền mỉa mai lại, nói : Tôi là từng bước từng bước leo lên, không giống như có một số người là ngồi tên lửa lên. "Từng bước từng bước leo lên" lại là một hình tượng thuyết minh rõ tư tưởng thiết thực cụ thể của Đặng Tiểu Bình, về sau này, những tư tưởng này đã tụ hội lại thành lí luận sơ cấp của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc "mò đá qua sông”. Trung thành với niềm tin của mình là không giả dối. Thiết thực cụ thể cũng là một loại không giả dối. Lí tưởng theo đuổi quang minh chính đại càng là không giả dối. Hiện tại, Đặng Tiểu Bình lại một lần nữa rút khỏi vũ đài chính trị Trung Quốc. Ông đã dùng hành động của ông lại chứng minh mình không giả đối một lần nữa. Người có vóc người nhỏ bé, dã tâm lớn, câu nói này không phải là chân lí. Chu Ân Lai "rút củi cháy khỏi đáy nồi" ”Bốn việc kiên trì" là ngọn cờ về đường lối của Đặng Tiếu Bình. Không cho phép người khác kể cả người bên cạnh mình lật đổ ngọn cờ này. Soái còn, cờ còn. Trung Quốc tịnh không thay đổi. Trong những năm cách mạng văn hóa mà ngọn cờ vĩ đại của tư tưởng Mao Trạch Đông tung bay trước gió. Thủ tướng Quốc vụ viện Chu Ân Lai đã đứng dưới cờ một cách thành công, đã bảo vệ và che chở được một loạt cán bộ cao cấp và sự nghiệp lớn của Trung Quốc, trong đó có cả cơ cấu nhà nước và tài sản văn vật bị đẩy vào biển lửa. Tháng 5 năm 1967, Vương Lực người theo đuôi của Mao Trạch Đông đã cổ động 20 vạn người đến Trung Nam Hải bao vây tiến công Chu Ân Lai. Họ khoác chiêu bài bắt Lưu Thiếu Kì đế đến Trung Nam Hải, đã dựng lều bạt ở bên ngoài cửa Tây Môn, chỉ để chờ Chu Ân Lai xuất đầu lộ diện. Sau khi Chu Ân Lai biết được, đã thực hiện kế hoãn binh : vừa không giao Lưu Thiếu Kì cũng không xuất đầu lộ diện. Các tiểu tướng Hồng vệ binh đã quấy rối hơn 3 tuần lễ, đành phải rút lui. Lúc này, Chu Ân Lai đặt ra một kế hoạch chặt chẽ : phải cứu gấp những cán bộ lão thành sắp "cho đi máy bay". Các nhân viên đi cứu là những Cảnh vệ tin cẩn của chính Chu Ân Lai. Họ có cả những chuyên viên sẵn sàng đi cướp lại người. Không ai biết họ là thuộc bộ phận nào, lại càng không biết đươc họ đem những ông già này đi đâu. Chỗ đó là phải giữ bí mật. "Tổ trưởng cách mạng văn hóa" Giang Thanh cũng không biết. Về sau, Mao Trạch Đông đã biết được việc này theo lời kể của viên Tư lệnh cảnh vệ khu Bắc Kinh. Ông nói : Thủ tướng làm rất tốt ! Chu Ân Lai "Rút củi cháy khỏi đáy nồi" với mục đích làm cho những tổn thất mang đến cho phong trào chính trị Trung Quốc đến mức ít nhất. ”Nếu như không phải là ông đã dùng sức mạnh ảnh hưởng và kĩ xảo chính trị của ông để hạn chế bớt đối với sự nguy hại của cách mạng văn hóa, như thế thì cách mạng văn hóa chắc chắn còn viết nên một trang tàn khốc, tanh hôi hơn trong lịch sử" (Trích từ "Chu Ân Lai truyện"). Cách làm của việc "rút củi cháy khỏi đáy nồi’ là thiết kế trái ngược với "đổ nước vào nồi cho bớt sôi". Đế đạt được mục đích nước không sôi chủ yếu có hai thủ đoạn : một loại là nghĩ cách đối với nước, một loại khác là phải chú ý đối với lửa. Như trong lời hát ca ngợi đương thời, ngọn lửa cách mạng văn hóa là do tự tay Mao Trạch Đông nhen lên. Ông làm như vậy có mục đích chính trị và mục đích cá nhân của chính ông. Vì vậy nếu ai dám đương thời "xối nước" vào thì chắc chắn là tự chuốc khổ vào thân. Không người nào có thể địch lại nổi uy lực mà ông tự nhen nhúm lên. Cách lựa chọn giành lại cho Chu Ân Lai chỉ có thể là loại sau : ngầm rút củi đang cháy trong lửa ra, đế làm cho ngọn lửa cháy nhỏ bớt đi, để cho nước sôi muộn đi một lát. Do đó mà cách làm này cũng có thể gọi là phát huy của thuật ẩn giấu. Ngọn lửa lớn đã cháy lên rồi, bản thản đã không có khả năng dập tắt nó, lại không muốn xông vào nguy hiểm nhảy vào chỗ "nước sôi lửa bỏng". Việc "rút củi cháy khỏi đáy nối" có thể được xem là cách chọn lựa đẹp nhất. Tháng 8 năm 1980, Đặng Tiểu Bình trả lời phỏng vấn của nhà báo Italia tại Đại lễ đường Nhân dân nói : Chu Ân Lai trong cách mạng văn hóa không bị đổ là một việc may mắn lớn nhất. Bởi vì "địa vị của ông lúc đó vô cũng khó khăn, ông đã nói nhiều điều trái với lương tâm, đã làm nhiều việc trái với lương tâm. Nhưng nhân dân thứ lỗi ông. Bởi vì ông không làm những việc này, không nói những điều này thì bản thân ông cũng không giữ vững nổi, cũng không thể có tác dụng ở trong đó". Nhà chính trị đã từng bị nếm mùi khổ này không phải là đang cổ vũ người khác nói những điều trái lương tâm, ông nói nhấn mạnh : Những lời trái với lương tâm nếu như mang lại lợi ích cho càng nhiều người kể cả bản thân ông ta, người ta sẽ có thể tha thứ ông ta. Đây là một cách lí giải đối với Chu Ân Lai, cũng là lí giải đối với cách làm của ông. Chu Ân Lai khi cứu được hai mươi mấy vị cán bộ lão thành, lại không thể bảo hộ và cứu được con gái nuôi của ông là Tôn Duy Thế. Tôn Duy Thế là người gần gũi nhất của Chu Ân Lai, là đạo diễn kịch nói có tài hoa của Trung Hoa mới. Bà đã đắc tội với hai người : một người là Phó thống soái Lâm Bưu đã từng cầu hôn với bà, một người nữa là Tổ trưởng tổ cách mạng văn hóa Giang Thanh. Bà bị chết rất thê thảm, nghe nói Chu Ân Lai vừa không có cách nào nói hộ được cho bà, lại không có cách nào ngăn chặn được sự việc này. Sau khi nghe được tin đã chết, ông liên cử đến một đội bác sĩ chuẩn bị tiến hành phâu thuật thi thế, nhưng thi thể đã bị thiêu rồi. Lí giải đối với một nhà chính trị và những thủ đoan ông dùng, tiêu chuẩn cân nhắc là tỉ trọng thu được của lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia hoặc tập thế. Sự cân nhắc đối với thuật ẩn giấu, cùng chỉ có thể là tiêu chuẩn này. Cái thất bại của Lâm Bưu Một số nhà quân sự và học giả nước ngoài đều khen ngợi Lâm Bưu là anh hùng trong chiến tranh cách mạng, cũng là anh hùng chân chính xuất hiện trong quân đội cách mạng của Đảng cộng sản Trung Quốc. Stalin cũng rất tán thưởng nhà quân sự Trung Quốc này, nói là thiền tài chiến thuật vĩ đại nhất trong quân đội Đảng cộng sản. Xét từ chiến tích vẻ vang của Lâm Bưu, ông được đánh giá như thế là không thể chê trách được. Nghe nói, ông ngòai làm chức Phó thống soái ra. Xưa nay chưa hề kiêm nhiệm chức phó nào hết. Ở hội nghị Lư Sơn, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài công kích đối với đại nhảy vọt và chỉ trích đối với cá nhân Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông cảm thấy xem quân đội giao cho Bành Đức Hoài, một người không phục sự quản lý của Thiên triều như thế rất không vững lòng. Thế là ông đã chọn Lâm Bưu, người năm xưa đã cùng nhau ở Tỉnh Cương sơn. Sau đó, Mao Trạch Đông đã đem người thuộc hạ đáng tin này nhanh chóng cất nhắc lên địa vị chỉ kém mình trên vũ đãi chính trị Trung Quốc. Nhưng ông tuyệt đối không nghĩ tới người chính bản thân ông chọn hầu như trở thành người đào mồ của ông sau đó.Lâm Bưu không đem thành công của mình chuyển hóa thành sự đền đáp đối với Mao Trạch Đông, mà là làm bàn nhảy đế giành địa vị đứng đầu. Ông ta đã sai lầm làm nên những sự việc không nên làm trong lịch sử hoặc trên bàn nhảy mà Mao Trạch Đông đã xếp đặt. Ông ta muốn tự mình xếp đặt lấy vận mệnh của mình. Ông ta không tính toán đến thiên thời nữa. Đại cách mạng văn hóa đã cách mất mệnh của Lưu Thiếu Kì. Lại một vị trí đứng đầu khác bị bỏ trống. Mao Trạch Đông muốn thủ tiêu nó, ông ta lo lắng lại có một Lưu Thiếu Kì nữa xuất hiện, lại có một cuộc đấu tranh nữa xảy ra. Lâm Bưu lại hướng về vị trí này. Ông ta vẫn luôn muốn làm "Người đứng đầu”, mà không phải là vị trí "thứ hai”. Tháng 8 năm 1970, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 9 họp tại Lư Sơn. Lâm Bưu bắt đầu hành động của ông, nêu lên kiến nghị lập chức chủ tịch nước. Mao Trạch Đông đã nổi giận lên đùng đùng, trong hai ngày rưỡi đã đập nát âm mưu của Lâm Bưu đã dày công sắp đặt một cách không thương tiếc. Lâm Bưu đã bộc lộ. Tháng 1 năm 1970, Mao Trạch Đông lại cải tổ Quân khu Bắc Kinh của Lâm Bưu khống chế. Lâm Bưu lại bắt đầu để cho con trai của ông chế định công trình "571", chuẩn bị khởi nghĩa võ trang. Lúc này, Mao Trạch Đông lại phá tan cục diện nhất thống quân ủy của Lâm Bưu, dồn Lâm Bưu phải sớm thực thi kế hoạch công trình "571". Sau khi Mao Trạch Đông biết, đã nhanh chóng lặng lẽ đi khỏi Bắc Kinh xuống phía Nam tiến hành một cuộc thị sát mang màu sắc thần bí đậm đà. Lâm Bưu đã hạ lệnh ám sát Mao Trạch Đông. Nhưng "hạm đội liên hợp" của ông đã thi hành các thủ đoạn ám sát như đánh bom xe lửa, đánh bom đường sắt, dùng súng phun lửa, pháo cao xạ và máy bay oanh tạc thậm chí cầm súng hành sát trước mặt, vẫn không giết được Mao Trạch Đông. Lâm Bưu chỉ còn có một con đường chạy trốn, nhưng đó là con đường chết. Không có ai có thể từ trong bàn tay của Mao Trạch Đông chạy trốn thoát, giống như Tôn Ngộ Không không nhảy ra khỏi bàn tay của đức Phật Như Lai. Lâm Bưu đã chết. Một âm mưu ngụy kế không nên sử dụng đã phá sản. Đại nguyên soái xưa nay nổi tiếng là bí hiểm, thì nay lại lấy cái thất bại bí hiểm để chịu thất bại. Đúng ứng với câu thổ ngữ của dân gian : Muốn chết chìm thì lội xuống nước, muốn chết cháy thì chơi lửa. Thất bại của Lâm Bưu có thể tìm thấy nguyên nhân từ nhiều mặt. Nhưng từ khía cạnh của thuật ẩn giấu, ông ta không thể cố chịu nổi sự bành trướng của dã tâm. Bản thân Lâm Bưu thường thường răn mình nói : Khắc kỉ phục lễ (kiềm chế bản thân mình, làm cho lời nói và hành động đều hợp với quy phạm xã hội và đạo đức), ở mặt khác lại luôn luôn cho mình là thiền tài, có thể như "ngựa Trời chạy trên bầu trời, tùy ý một mình đi về". Một hậu quả của dã tâm bành trướng là : làm cho đầu óc không binh tĩnh, đã sai lầm đem một cơ hội làm cả một thời kì thành công quá lớn khác. Thời kì ẩn náu có việc của thời kì ẩn náu làm, mà không thể đi làm những việc gượng ép quá mức. THỜI KÌ HIỂN HIỆN - THUẬT HIỂN HIỆN (Rồng xuất hiện ở trên ruộng, sẽ gặp nhân vật có quyền thế) Hào thứ hai của quẻ Càn nằm ở vị trí trung gian (giữa) của quẻ Hạ. Theo lí thuyết của tác giả Kinh "Dịch", vị trí trung gian là tốt nhất, là địa vị có lợi. "Kiến” là hiển hiện, là xuất hiện, hiện lộ ra. Rồng tiềm ẩn ở hào hai dương, bắt đầu lên, xuất hiện ở trên ruộng. Do hào dương kiên cường mạnh mẽ, mà nằm ở vị trí ở giữa, có đức hạnh trung dung. Đại nhân chính là chỉ nhân vật có đức tính này. "Đại nhân" đã từ trong ẩn náu xuất hiện, sắp sửa có hành động. Đức hạnh và hành vi của ông ta, sẽ đem đến cho thiên hạ sức sống và niềm hi vọng không có gì sánh nổi. Cho nên hào này dùng "rồng hiện ra ở ruộng" để tượng trung. "Lợi kiến đại nhân” là nói người mà thiên hạ đều đang trông mong được gặp. Xét theo giới tự nhiên, thuyết minh khí dương đã từ dưới mặt đất bay lên đến mặt đất, xuất hiện ở trên mặt đất. Mặc dù vẫn chưa đạt được đến mức độ bay vút lên, nhưng khí dương đã bắt đầu manh nha sinh ra ở trên mặt ruộng, vạn vật đều đã bắt đầu sống lại. Khổng Tử nói : người có phẩm hạnh như đức của rồng, làm việc nhất định sẽ công bằng, đồng thời cũng vừa phải. Những điều nói hàng ngày chắc chắn đáng tin, còn hành vi biểu hiện ra hàng ngày cũng nhất định rất cẩn thận. Ngăn chặn tà ác, giữ trọn lòng chân thành gắng hết sức làm điều tốt lành cho đời, nhưng không khoe mình, vẫn luôn lấy hành vi đạo đức rộng rãi để cảm hóa người đời. "Kinh Dịch" nói : Rồng lớn đã xuất hiện ở trong ruộng, nói lên tình thế tốt có lợi cho hoạt động của nhân vật lớn, nhưng tình thế này chính là phẩm đức của bậc quân vương. Vì hào hai dương (cửu nhị) cũng giống như hào dưới dương (tức sơ cửu) đều nói là đức của rồng. Nhưng do thiên thời đã thay đổi cho nên nội dung đức của rồng cũng đã phát sinh khác nhau rồi. Rồng lúc này đã nhìn thấy trong ruộng, đã thoát khỏi trạng thái ẩn giấu. Nhưng chưa đạt đến mức bay vút lên, cho nên Khổng Tử cho rằng rồng của hào Hai dương có đức của vua, nhưng không có ngôi của" vua. Ở thời kì hiển hiện này, Khổng Tử cho rằng trước hết nên làm được "dung ngôn chi tín, dung ngôn chỉ cần" nghĩa là hàng ngày lời nói và việc làm phải thận trọng. Thứ hai là phải làm được "nhàn tà tồn kì thành", nghĩa là phải ngăn chặn được tà ác không để cho nó thâm nhập vào lòng dạ của mình, từ đó giữ được sự chân thành ở trong lòng mình. Trong "Chu Dịch" vô cùng coi trọng thành tín, cho rằng đây là tất cả những điều căn bản và điểm xuất phát của việc tu dưỡng. Giá như trong lòng không có thành ý thì chẳng có gì đáng nói nữa. Có làm được thành tín, thì lời nói và việc làm mới có thể cẩn thận trong đời sống hàng ngày. Thêm nữa, Khổng Tử còn nêu lên phải làm được "thiện thế như bất phạt", nghĩa là nói mặc dù làm được nhiều việc tốt, việc lớn cho nước cho dân, nhưng mình lại không tự đại, không khoe khoang, Như vậy mới có thể lấy "đạo đức rộng rãi để cảm hóa”. Có thể làm được ba điểm Khổng Tử nói, chính là có long đức, có đạo đức tu dưỡng và đạo đức thực tiễn trở thành nhân vật lãnh tụ. Vì thế để cho sự nghiệp thành công, khi hiển hiện tài năng của mình cần phải lấy đó làm tiêu chuẩn, nếu không người khác sẽ rất khó tiếp nhận bạn, sẽ không thể "gặp được người có quyền thế". Long đức (đức của rồng) của thời kì hiển hiện vô cùng quan trọng, quyết định toàn bộ sự phát triển lịch sử sau này. Khi một người ở thời kì đầu ở ngã tư đường giành được thắng lợi, có thể dự đoán anh ta sau này trên bất cứ chức vụ nào đều có thể giành được thành công. Tương tự, những trí tuệ và kĩ xảo của thành công này hiển hiện, cũng sẽ được anh ta ứng dụng vào việc xử li trong các vấn đề khó khác. Do đó, bất kể như thế nào cũng không thể bỏ qua ý nghĩa của thời kì hiển hiện. Nó đối với một người là vô cùng quan trọng. Nó không phải là Thiên An Môn hoa như biển mà người như sóng, mà lại là Tỉnh Cương sơn nhen nhóm lên một đốm lửa nhỏ. Sau lúc ban lệnh "đuổi khách" Triệu Cơ và Trường Tín hầu không can tâm để mất quyền lực của mình đã khởi binh mưu phản. Nhưng họ đều gặp phải sự đánh trả mạnh mẽ của Doanh Chính. Do Tướng quốc Lã Bất Vi và Trường Tín hầu mưu phản, có quan hệ đặc biệt với Triệu Cơ cho nên Doanh Chính mượn lí do đó đã thu hồi tướng ấn của Lã Bất Vi.Lã Bất Vi bị đẩy đi đến Ba Thục để dưỡng lão. Ông ta tự biết hậu quả sẽ không tốt lành, đã uống thuốc độc tự sát. Thế là các môn khách ông nuôi dưỡng cũng vì "cây đổ mà đàn khỉ” cũng chạy hết. Lúc này, Doanh Chính vì thế đã ra một lệnh đặc biệt "Hễ là du khách các địa phương thì nhất luật không cho cư trú tại Tần đô là Hàm Dương ; hễ là người nước khác làm quan ở nước Tần, thì đều cất chức, hạn trong 3 ngày phải rời khỏi Hàm dương". Sau khi "lệnh đuổi khách" ban ra, các môn khách của Lã Bất Vi đều phải đuổi khỏi đô thành. Trong đó có một tài tử nước Sở là Lí Tư, đã từng được Doanh Chính rất tán thưởng, cũng nằm trong diện bị đuổi. Lí Tư nghĩ, lệnh đuổi khách chủ yếu là do Lã Bất Vi gây ra. Còn Tần vương là một ông vua trẻ có chí cao xa, ông cầu người có tài như đang khát nước để mưu đồ việc lớn. Nếu như có thể làm cho Tần vương thay đổi cách nhìn nhận thì rất tốt. Thế là, vị tài tử này liền thi thố tài văn bút của ông tuôn ra như mây bay nước chảy, liền viết một bài tấu nổi tiếng ở ngay bên ngòai tường thành Hàm Dương, nhờ người tiện thể đưa cho Tần Vương. Trong bài tấu ông đã viết : "Thần nghe nói núi Thái Sơn không nhượng lại thổ nhưỡng cho nên mới có thể cao đến như thế, biển không kén chọn sông con cho nên mới có thể sâu đến thế ; Bậc vương giả không từ chối nhiều người bình thường cho nên mới trở thành đức lớn. Như Mục Công xưng bá, phía tây lấy dân chúng phòng thủ biên giới, phía Đông được khe trăm dặm quanh co, đón Kiển Thúc ở Tống, cầu dẹp báo Công Tôn Chí ở Tấn ; Hiếu Công dùng Thương Ưởng để định pháp chế của nước Tần, Huệ vương dùng Trương Nghi để dẹp tan sáu nước ; Chiêu vương dùng Phạm Tuy để giành được mưu thôn tính ; Bốn vua trên đều dựa vào người khách để thành công, nay khách sao nỡ phụ lòng Tần được ? Đại vương cứ nhất định muốn đuổi, khách sẽ phải đi khỏi Tần mà nước thù địch khác lại dùng, yêu cầu họ thành tâm dâng hiến mưu kế chống người Tần, không thể được ư ?“ Tần vương sau khi xem xong bài tấu này cửa Lí Tư, lập tức tĩnh ngộ, liền bảo người thu hồi lệnh đuổi khác. Đồng thời tiếp nhận lại Lí Tư và cho ông làm quan. Về sau này, Lí Tư đã được Tần vương tín nhiệm bội phần và đã trở thành Tướng quốc nhà Tần. Nhờ vào một bài văn, Lí Tư đã làm thay đổi chủ ý của Tần vương Doanh Chính, mà còn tạo ra được một thời cơ tốt để mình hiển hiện. Việc này của Lí Tư sở dĩ thành công chính vì ông nhằm đúng được đã tâm bồng bột của Tần vương Doanh Chính không cam tâm chỉ an phận ở giang sơn của Tần, đã thuyết lí ví von, bàn cổ tán kim đã chỉ ra tác dụng của nhân tâi đối với việc hưng thịnh quốc gia. Dùng văn chương để hiển hiện mình, không nghi ngờ gì là một cách tốt nhất. Nghe nói, Trương Xuân Kiều chính là vì viết được một bài hay, mới từ một chủ biến nho nhỏ được nâng lên hàng mấy nhân vật trên vũ đài chính trị có thể đếm trên đầu ngón tay. Tên tuổi của Trương Xuân Kiều lần đầu tiên gây được sự chú ý của Mao Trạch Đông là năm 1958. Ông đã viết cho nhân vật số một của Thượng Hải đương thời là Kha Khánh Thi một báo cáo hàng vạn chữ với đầu đề "Cưỡi gió đạp sóng đẩy nhanh xây dựng Thượng Hải mới xã hội chủ nghĩa" ! Mao Trạch Đông vừa nhìn thấy đầu đề đã bắt đầu khen ngợi. Nhưng lúc này, nhà lãnh đạo vĩ đại này còn chưa biết Trương Xuân Kiều. Làm thế nào có thể làm cho Mao Trạch Đông biết ông ta ? Lúc này Trương Xuân Kiều đã đến tuổi ”tứ thập nhi bắt hoặc'’, tất nhiên lão luyện hơn Địch Khắc mới 19 tuổi. Ông ta đã lợi dụng những tin tức về Mao Trạch Đông nhận được tử Kha Khánh Thi, cân nhắc đắn đo tỉ mỉ, cuối cùng phát hiện : Mao Trạch Đông đối với chế độ cung cấp thời kì Hồng quân có vẻ tán thưởng và nhớ tiếc, mà đối với sự khác biệt đẳng cấp do tiền lương 8 bậc hiện hành tạo thành, thường có điều quở trách. Trương Xuân Kiều đã phải mất toàn bộ sức lực mới viết ra bài "Phá bỏ tư tưởng pháp quyền của giai cấp tư sản" mà đương thời ai cũng không nghĩ tới. Lần này ông ta không dùng bút danh mà là dùng tên cái Trương Xuân Kiều. Bài viết này đăng trên tạp chí lí luận của Thị ủy Thượng Hải là "Giải Phóng" kì thứ 6. Tờ tạp chí này là do Mao Trạch Đông đề nghị sáng lập, trên bàn làm việc của ông luôn luôn có tờ "Giải Phóng” mới xuất bản. Mao Trạch Đông đọc một mạch hết bài viết của Trương Xuân Kiều, cảm thấy rất hợp ý của mình. Ông đã lệnh cho "Nhân dân nhật báo" phải đăng lại toàn văn, lại còn tự tay viết lời biến tập. Ngày 31 tháng 10 năm 1958 "Nhân dân nhật báo" đã chọn chỗ dễ đập vào mắt nhất để phát biểu lời biên tập của Mao Trạch Đông và bài viết của Trương Xuân Kiều. Tên của Trương Xuân Kiều lần đầu tiên gây sự chú ý của Mao Trạch Đông, cũng lần đầu tiên gây được sự chú ý của toàn quốc. Ngày hôm đó đã trở thành một ngày mang tính chất lịch sử của Trương Xuân Kiều "Kiến long tại điền", (thấy rồng hiện ra trên ruộng). Không có kĩ xảo thì không thành sách, về sau Hoa Quốc Phong đã đoạt được ghế Thủ tướng từ trông tay Trương Xuân Kiều cũng là vì viết một bài được Mao Trạch Đông coi trọng. Tháng 7 năm 1955, sau khi Mao Trạch Đông đọc báo cáo "về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp", Hoa Quốc Phong lúc đó 34 tuổi đã viết 3 bài văn "Khắc phục tư tưởng hữu khuynh, tích cực đón tiếp cao trào của cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp đến". Những bài này mang phong vị quê hương, Mao Trạch Đông đọc cảm thảy rất thân thuộc. Tên của Hoa Quốc Phong lần đầu tiên gây được sự chú ý của Mao Trạch Đông. Khi ông đi qua Hồ Nam, liền gặp Hoa Quốc Phong với đầu tóc húi của, tâm tình kích động. Tiếp theo, Mao Trạch Đông liền đặc biệt mời Hoa Quốc Phong làm đại biểu dự cuộc hội nghị toàn thể mở rộng của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 7, khoá 6, giới thiệu kinh nghiệm của phong trào hợp tác hóa vùng Tương Nguyên. Một bí thư đảng ủy của một địa phương lại có thể nói chuyện tại hội nghị toàn thể Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc là việc rất không dễ dàng. Hoa Quốc Phong đã để lại ấn tượng tốt đối với Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông đã khen ông ta là "người thực thà", cho nên khi Trương Xuân Kiều chuẩn bị giành chiếc ghế Thủ tướng với Đặng Tiểu Bình thì Mao Trạch Đông đã bổ nhiệm Hoa Quốc Phong làm Quyền Thủ tướng ngoài ý của mọi người. Cái tuyệt diệu của văn chương là không dễ xem nhẹ. Hàng ngàn năm nay, cây súng và cây bút đang chống đỡ cơ cấu quốc gia nặng nề, đang viết nên những trang lịch sử. Ẩn ngữ của cô gái xấu can gián Quốc vương Chỗ mạnh của nam giới khác với chỗ mạnh của nữ giới, giữa Phụ nữ với phụ nữ cũng mỗi người có chỗ tốt, kém riêng. Ở xã hội mà các nữ phục vụ viên đang thịnh hành, nam giới phải dựa vào nữ giới để kiếm tiền. Các nữ phục vụ viên xuất hiện ở nơi cao cấp khắp nơi, dùng lời ngon tiếng ngọt lượn quanh bên cạnh những nam giới có quyền có tiền. Nụ cười của họ đáng yêu hơn cả những nụ cười nở ra trước mặt ngựời tình. Sau khi kiếm được tiền cho chủ, bản thân họ cũng được một khoản thù lao tương đối khá. Nhưng muốn được khoản tiền này, trước hết cô ta phải cô vẻ đẹp trời phú cho. Không có một người đàn ông nào lại không thích yêu một người đàn bà đẹp. Thời xưa ở nước Tề có một người đàn bà trông rất xấu gọi là Chung Xuân Li. Vì người cô ta xấu, cho nên mải đến 40 tuổi vẫn chưa lấy chồng. Có một hôm, cô ta nghe người ta nói Tề Tuyên vương thích hưởng thụ an nhàn không nghĩ đến việc nước, liền đi xin gặp Tề vương. Trước tiên, cô ta đến cung vua tìm viên quan phụ trách, nói : "Tôi muốn vào Hậu cung của Tề vương làm một người tôi tớ quét dọn vệ sinh". Mọi người xung quanh nghe nói xong đều ồ lên cười cô ta, nói : Đây là một cô gái xấu mặt dày mày dạn, các cô gái trong cung vua nhiều lắm, loại phụ nữ xấu như chị ở đây không có. Có một người hay quan tâm đến chuyện vớ vẫn bèn đem chuyện này đến tâu với Tề vương. Tề Tuyên vương cũng cảm thấy buôn cười, muốn xem thử xem cô ta xấu đen mức nào, bèn cho người gọi Chung Xuân Li vào.Tề vương nói : "Nàng lấy thân phận của một người dân bình thường đến xin gặp ta, chắc chắn là có bản lĩnh đặc biệt gì đây, phải không ?" Chung Xuân Li thưa : "Tôi không có bản lĩnh gì khác, chỉ là biết pháp thuật dùng ẩn ngữ để dự đoán cát hung thôi". Tề vương rất muốn xem thử pháp thuật của cô ta, bèn bảo cô ta biểu diễn trước công chúng và bảo mọi người đoán. Chung Xuân Li đã đồng ý đáp ứng. Trước tiên là giương mắt, lộ răng, lại giơ tay, nhẹ nhẹ vỗ bàn tay, sau đó hỏi một câu : "nguy hiểm chứ ?". Tề vương không biết cô ta làm như thế là ý nghĩa gì, lại hỏi các quan đứng hai bên tả hữu, không có một ai hiểu được ý tứ của cô gái xấu này. Tề vương bèn để cho cô ta tự nói ra. Chung Xuân Li bèn tiến lên phía trước giải thích nói : Giương mắt là tôi thay đại vương xem xét sự đổi thay của khói lửa, sẽ có loạn lạc phát sinh ; Lộ răng là thay đại vương mở miệng quần thần dám thẳng thắn can gián ; giơ tay là thay đại vương đuổi khỏi bọn gian thần nịnh hót ; vỗ bàn tay là thay đại vương tháo dỡ đài vui chơi yến tiệc, đặt tiết kiệm lên hàng đầu. Tề Tuyên vương nghe xong vô cùng hào hứng, liền muốn lập Chung Xuân Li làm vương hậu. Nhưng Chung Xuân Li lại nói : "Không thu nhận lời của tôi, thì làm sao có thể nhận lấy con người của tôi được ! Xin đại vương hãy lấy việc quản lý quốc gia làm nhiệm vụ cấp bách hiện nay, lấy việc kén chọn người có tài, bổ nhiệm người có năng lực làm việc lớn quan trọng hàng đầu." Sau khi Tề Tuyên vương nghe xong thu nhận được nhiều gợi ý và chi bảo có ích. Từ đấy, ông coi trọng người hiền và cúi mình thu nhận người tài, xa lành gian thần, cho hồi hương các du khách, dùng Yến Anh làm Tướng quốc, Mạnh Kha làm Khách khanh quốc gia được quản lý tốt. Thuật hiển hiện Chung Xuân Li dùng, cái hiển hiện không phải là vẻ xinh đẹp của mình, mà là trí tuệ của bà. Vẻ mặt đối với nữ giới là quan trọng, nhưng đối với nam giới lại không quan trọng. Bởi vì vẻ mặt tương đối đẹp chỉ có thể làm bột khởi dục vọng chiếm hữu của nam giới, mà loại dục vọng này rất dễ được thỏa mãn ngay. Ở trên dục vọng chiếm hữu còn có một loại tình cảm cao cấp hơn, đó chính là tình yêu. Tình yêu giữa nam giới và nữ giới là mối quan hệ tế nhị và kì diệu mà không thể nói ra hết và rõ ràng được. Người xưa gọi nó là "duyên phận", có rất nhiều điều đáng làm cho người ta phải ngẫm nghĩ. Cho nên nói : người đàn bà thông minh dùng trí tuệ của mình, người đàn bà khù khờ thì đi khoe lẳng lơ. Hiển hiện kiểu lắng lơ là sự hiển hiện mạt hạng. Tử Cống và Tử Lộ Hiển hiện mình thường thường bị người ta nói là chơi trội, thế là cây mọc ở rừng thì bị gió bẻ gãy. Trong một nước mà nếp sống suy đồi, những người hiền tài khó có thể được trọng dụng. Nhiều người đã nhìn thấu điểm này bèn sinh ra lòng cẩu thả, quên mất chí lớn. Tử Cống, đệ Tử của Khổng Tử là người không muốn xuất đầu lộ diện. Theo quốc pháp của nước Lỗ đương thời quy định : những người cư trú ở quốc đô, phải làm nô tì cho chư hầu của nước khác có thể chuộc lại được anh ta thì có thể đến phủ khố (kho) của quốc đô để lĩnh tiền chuộc. Tử Công đã chuộc người Lỗ về, nhưng không đi lĩnh tiền chuộc. Khổng Tử biết được, nói : Tử Cống làm như thế có thể là không đúng. Thánh nhân dựng xây sự nghiệp có thể làm đổi thay phong tục, mà lời dạy dỗ của người cũng có thể được thực hành trong muôn dân trăm họ, làm như thế không chỉ là đế phù hợp nguyện vọng của cá nhân. Nước Lỗ lúc bấy giờ, người giàu có ít hơn người nghèo khổ, lĩnh tiền của họ, có thể khuyến khích dân hướng thiện dốc sức vào nghiệp chính của mình. Không đi lĩnh tiền chuộc sẽ không thể có người đi chuộc người nữa. Về sau, Tử Lộ, một đệ tử khác của Khổng Tử, đã cứu được một người ở dưới sông, người đó đã đền ơn cho Tử Lộ một con trâu. Tử Lộ đã rất vui vẻ nhận. Khổng Tử vui vẻ nói : Từ nay về sau, người của nước Lỗ dũng cảm cứu người sẽ nhất định càng nhiều hơn. Hai việc này, Khổng Tử đưa ra khen chê lại không giống nhau. • Nếu xét theo người bình thường, Tử cống phải nhận được lời khen của Khổng Tử, nhưng Khổng Tử lại nói ông ta đã sai. Không có người biết được tiếng thơm của bạn thì có ai dám tin vào tài năng của bạn nữa, không có người biết tài năng của bạn, ai có thể tiến cử bổ dụng bạn nữa ? Khổng Tử là người chú trọng đạo cứu đời. "Cứu đời" trước hết phải "cứu mình". Học tập những kiến thức của thầy học là một loại "cứu mình", thông qua các phương thức khác để biểu hiện tài năng của mình cũng là một loại "cứu mình". "Cứu mình” chính là nâng cao bản lĩnh mình "cứu đời" và mức độ nổi tiếng của mình. Nếu như bạn muốn làm một sự nghiệp lớn, thì không nên vẫn luôn không có tiếng tăm gì. Kết quả đến cùng cũng chỉ là nhân vật tầm thường không được liệt vào sử sách. Khi tốt nghiệp đại học, lúc chia tay các bạn bè thường thường cùng nhau ghi lời lưu niệm. Những lời ghi này rất đáng ngẫm nghĩ. Bạn có thể nhìn thấy những hình ảnh của bạn ở trong lòng người khác, còn có thể từ trong đó nhận ra một số lí lẽ đời người sâu sắc. Trong cuốn ghi lời lưu niệm của tôi, có một đoan lời lưu niệm làm tôi cho đến nay vẫn khó quên. Lời lưu niệm đó là do một bạn gái cùng lớp, bình thường không hay đi lại với nhau, viết. Nét chữ của cô viết so với các bạn gái khác đều khá hơn. Cô viết như thế này : Người ta quý nhất là có tài, càng quý hơn là có người khác biết, cho dù nhất thời không được người ta biết. Lúc đó tôi không thể hiếu rõ cô bạn gái này vì sao lại viết như thế. Nhưng tôi biết cô ta đã phát hiện ra nhược điểm của tôi, mà nhược điểm này đến bản thân tôi cũng không rõ lắm. Đối với tôi, sắp sửa rời khỏi nhà trường bước vào xã hội xông vào đời để nói, câu nói này thực tế rất có giá trị. Cho mãi sau khi tôi chuyển ở các cơ quan trực thuộc tỉnh mấy lần, tôi mới lại lí giải được lời lưu niệm này sâu sắc thêm một nấc. Nhưng đáng tiếc là, tôi cũng không gặp lại được cô bạn của tôi này nữa. Danh ngôn đều là những người có danh tiếng nói, nhưng những lời của các danh nhân nói không phải tất cả đều là danh ngôn. Cô bạn học kia của tôi còn chưa phải là danh nhân, cho nên, tôi đem lời lưu niệm kia tặng lại cho các bạn đọc của tôi. Con cáo Lâm Bưu mượn oai hổ Để cứu mạng, cáo liền nghĩ ra một cách thoát thân. Nó bèn nói với chúa trong các loài thú rằng : Anh không nên ăn thịt tôi. Bởi vì tôi là đại vương trong cánh rừng này. Không có tôi thì bách thú trong rừng sẽ có thể làm loạn. Hổ không tin. Nó cho rằng mình mới là chúa của các loài thú. Cáo lại chứng minh thêm lời nói của mình : "Nếu anh không tin, thế thì mời anh hãy cùng tôi đi vào rừng một vòng, thử xem chúng nó có đều sợ tôi không nhé". Họ cảm thấy đây là một cách hay, liền cùng đi với cáo vào rừng thị sát. Kết quả là mọi chỗ chúng đến đều thấy bách thú sợ hãi và trốn tránh xa chúng hết. Cáo đắc ý nói : Anh xem, lời tôi nói có đúng không ? Chúng nó vừa nhìn thấy đã sợ và chạy trốn hết. Trước thực tế diễn ra trước mắt., hổ cũng đành thừa nhận, thả con cáo xảo quyệt này. Trò bịp này của cáo, sau này được Lâm Bưu đã khéo léo vận dụng vào thân phận của ông với Mao Trạch Đông. Tháng 5 năm 1966, Mao Trạch Đông đã phát động Đại cách mạng văn hóa, đã thực hiện "pháo kích" thẳng thừng vào các đối thủ của ông. Ý đồ của Mao Trạch Đông là do các tiểu tướng Hồng vệ binh trẻ thực thi. Trước thiên An Môn, Mao Trạch Đông đã trước sau tám lần tiếp kiến các tiểu tướng Hồng vệ binh cuồng nhiệt bảo vệ ông. Đó là một hoạt động sùng bái mang tính tôn giáo. Mao Trạch Đông giống như một vị Thần được tầng lớp trẻ này bưng đặt lên đàn tế Thần một cách vô tri mà lại chân thành. Lâm Bưu lúc này đã trở thành nhân vật số 2 của những người lành đạo cao nhất của Trung Quốc. Ông đã lợi dụng cơ hội cùng đi với Mao Trạch Đông công khai duyệt Hồng vệ binh, không ngừng nâng cao uy tín của mình trong hồng vệ binh và trong nhân dân toàn quốc. Do khi Mao Trạch Đông tiếp kiến Hồng vệ binh đều là Lâm Bưu cùng đi theo sát, hơn nữa luôn luôn là ông ta thay mặt Trung ương nói chuyện. Việc tuyên truyền của báo chí và phát thanh cũng luôn luôn xếp đặt Lâm Bưu vào hàng thứ hai chỉ đứng sau Mao Trạch Đông. Qua không ngừng kích thích, không ngừng cưởng điệu hóa như thế, cuối cũng làm cho nhân dân toàn quốc đã tiếp nhận cách đề xuất "Trung ương Đảng do Mao chủ tịch đứng đầu, Lâm phó chủ tịch là phó" này. Trong một năm ngắn ngủi của cách mạng văn hóa, Lâm Bưu đã lặng lẽ vừa nhảy đã thành nhân vật số 2 của Trung Quốc. Tháng 4 năm 1969, Đảng cộng sản Trung Quốc đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 tại Bắc Kinh. Trong Đại hội lần này đã chính thức xác lập Lâm Bưu là người nối nghiệp của Mao Trạch Đông. Lâm Bưu đã trở thành nhân vật thăng tiến nhanh nhất trong chính cục Trung Quốc đương thời. Khi hiển hiện mình, trực tiếp hiển hiện đôi khi vì quá trắng trợn lộ liễu nên bị người ta chán ghét. Vì vậy, phải dùng một chiến thuật vu hồi. Giống như con cáo kia đã khéo léo vận dụng oai hổ. Đây là một loại trí tuệ. Lâm Bưu có sẵn loại trí tuệ này, làm cho địa vị của ông ta không ngừng vinh quang lừng lẫy. Thời xưa có một người đến chợ bán ngựa. Ba ngày đã trôi qua, vẫn chưa bán được ngựa của ông, lại cũng không có ai đến hỏi ông ta một lời. Ông ta rất buồn, bèn ngồi ở đó để nghĩ biện pháp. Biện pháp đã có. Ông đã tìm được Bá Lạc là người nổi tiếng về xem ngựa, ông nói với Bá Lạc : "Tôi muon mời Ngài đến chợ, để xem địa phương tôi bán ngựa, như thế tôi sẽ trả thù lao hậu hình cho Ngài". Bá Lạc đã theo lời nói của ông ta đi làm. Kết quả là con ngựa kia đã bán được với giá gấp 10 lần giá ban đầu. Ở đây, uy tín của Bá Lạc cũng giống như uy tín của Mao Trạch Đông đã bị vận dụng một cách khéo léo. Tâm lí học có một khái niệm gọi là "hiệu ứng Haluo”. Haluo chính là vành quanh phía sau vẽ trên các thánh tượng. "Hiệu ứng Haluo" là chỉ hiện tượng do sự hấp dẫn của một sự vật có sức mạnh mà đặc tính của nó bị bỏ qua. Lợi dụng hiệu ứng này, có thể nhờ vào quyền uy lớn mạnh khác để hình thành hình tượng ảo cao hơn vật thể thực. Mấy nhân vật chúng tôi nêu lên ở trên, đều có thể nói là đã lợi dụng "Hiệu ứng Haluo". Đương nhiên, còn có cả con cáo xảo quyệt kia nữa. Bán mình để nhờ và và chọn người tốt để nương thân Xin hãy xem câu chuyện mà "Tam Quốc diễn nghĩa ghi chép về Trần Cung : Trần Cung vốn là một Huyện lệnh, nhờ có trí nhớ phi thường của mình đã nhận ra Tào Tháo vì giết Đổng Trác chưa thành mà phải giả ẩn trốn. Trong lúc chuyện trò với nhau ông đã nhận ra Tào Tháo là một người có chí lớn, muốn làm việc lớn, bèn thôi quan đi theo Tào Tháo. Hai người bỏ trốn đến nhà Lã Bá Xa, người anh em kết nghĩa của bố Tào Tháo. Lã Bá Xa đối đãi với hai người rất nhiệt tình, tự mình đi mua rượu và thức ăn cho hai người. Đi rất lâu vẫn không thấy Bá Xa trở về, Tào Tháo trong bụng sinh nghi ngờ. Bỗng nhiên lại nghe ở sau nhà có tiếng mài dao bèn đi nghe trộm. Chỉ nghe tiếng người nói : "Trói lại rồi giết, như thế nào ?" Tào Tháo vừa nghe thấy, tự cho là họ muốn bắt hai người trói lại, rồi sẽ giết. Liền nghĩ ra mình phải ra tay trước thì hơn, cùng với Trần Cung đem 8 người nhà họ Lã đều giết sạch. Sau đó mới phát hiện ra ở trong bếp có trói một con lợn, mới biết là mình đã giết nhầm. Hai người đành phải trốn khỏi nhà họ Lã, trên đường đi lại gặp Bá Xa mang rượu về. Tào Tháo sợ rằng Bá Xa phát hiện người nhà mình đã chết sẽ dẫn người đuổi bắt họ, nên liền giết luôn cả Bá Xa. Trần Cung thấy thế vô cùng kinh ngạc. Tào Tháo đã nói một câu rất nổi tiếng : Thà bảo ta phụ lòng người thiên hạ, đừng hòng người thiên hạ phụ lông ta. Trần Cung cho rằng Tào Tháo là một tên lòng lang dạ thú, bèn ngay trong đêm ẩy một mình lặng lẽ bỏ Tào Tháo ra đi. Về sau, ông đã đến làm quân sư dưới trướng của Lã Bố nổi tiếng anh dũng đương thời. Khi Tào Tháo đại chiến với Lã Bố, ông đã đưa ra nhiều kế sách. Kết quả mỗi kế đều thắng. Nhưng Lã Bố lại chỉ biết có hoạ kích, ngựa Xích thố và cái dũng của kẻ thất phu ai dám gần ta. Đối với kế sách của Trần Cung thường không nghe theo, cuối cùng bị Tào Tháo đánh bại. Lã Bố và Trần Cung bị Tào Tháo bắt. Trên lầu Bạch Môn, Tào Tháo nhìn thấy Trần Cung bị trói chặt liền dương dương tự đắc nói : "Ông vẫn tự cho là người lắm mưu nhiều trí, sao nay lại đến nỗi này ?" Trần Cung vừa nhìn thấy Lã Bố cũng bị giải đến, liền nói một cách căm phẫn : chỉ hận người này không theo lời ta thôi ! Nếu nghe theo lời ta thì chắc đâu bị bắt. Trần Cung, con người thông hiểu cổ kim đã nói ra sự thực của thất bại, nhưng vẫn chưa nhận ra rõ ràng nguyên nhân thật sự của việc thất bại. Từ xưa đã có lời dạy : chim khôn tìm cây mà đậu, hiền thần chọn chúa mà thờ. Trần Cung đầu tiên đã chọn Tào Tháo, về sau lại chọn Lã Bố, mà hai con người này đều không phải là "minh chủ” trong lòng của ông. Sau khi ông phát hiện Tào Tháo là kẻ lòng lang dạ thú, liền bỏ đi một cách không do dự. Nhưng khi ở bên Lă Bố, trí sáng suốt của ông cùng mất đi ánh sáng rực rỡ nên có, dẫn đến là tù binh của Tào Tháo và cuối cùng đã chết dưới lưỡi đao. Với tư cách là mưu sĩ, Trần Cung chỉ có thể vạch ra mưu kế cho người khác, lại không thể định ra cho mình một đường lối thành công. Tương tự, Lã Bố được gọi là "đệ nhất anh hùng" thời Tam Quốc, cũng đồng thời đã mắc phải sai lầm của đường lối như vậy. Lã Bố đầu tiên nhận Đinh Nguyên làm "nghĩa phụ”, về sau lại bị Thừa tướng đương triều là Đổng Trác lôi kéo làm "nghĩa tử", cuối cùng lại vì Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác và dựa vào Tư đồ Vương Doãn. Cho dù Lã Bố võ nghệ cao cưòng, nhưng về nhân cách của ông ta lại rất thấp hèn cho nên đương thời người ta chửi ông ta là "gia nô ba họ". Với tư cách là võ tướng, Lã Bố cũng không tìm được người lãnh đạo đúng đắn của mình, chỉ dựa vào đơn thuơng độc mã của mình để đánh thiên hạ, kết quả là chỗ nào cũng bị húc vào tường. Còn Trần Cung chạy đến dưới trướng của một Lã Bố như thế thì thật là sai lầm không gì bằng. Con đường văn võ phải là con đường làm cho cả văn lẫn võ phát huy đến mức tốt nhất. Mà người nắm vững được con đường này sẽ là "minh chủ" chân chính, là minh chủ mà văn quan võ tướng đều nghĩ đến và tìm đến. Khi hiển hiện vào đời, xác định người mình phụ thuộc là vô cùng quan trọng. Lã Bố, không thể bắt chước, mà Trần Cung, cũng không thể bắt chước được. Gia Cát Lượng ra đi sau ba lần mời Bạn học của ông là Từ Nguyên Trực vì cảm nhận ân sâu của Lưu Bị, trước khi ra đi đã đem bạn tốt của mình là Gia Cát Luợng tiến cử với Lưu Bị. Lưu Bị biết tiếng tăm của Gia Cát Lượng từ lâu, nhưng khổ vì không biết nơi đâu để tìm cho nên vừa nghe Từ Nguyên Trực nói đã quyết tâm đi tìm gặp. Song, Gia Cát Lượng ẩn cư tại Nam Dương không giống như có một số người mời là đi ngay. Ông là một người vô cùng cẩn thận, nhất là đối với người mà ông sắp phò tá. Sau khi ông biết Lưu Bị đến, lần thứ nhất ông bảo người thoái thác nói là đi vắng, để cho bạn của ông là Thôi Châu Bình ra gặp Lưu Bị để thăm dò chí hướng của Lưu Bị. Thôi Châu Bình nói với Lưu Bị : ông lấy dẹp loạn là chính cũng là điều nhân đức rồi. Nhưng từ xưa đến nay, việc trị loạn thất thường. Tướng quân muốn làm cho Khổng Minh xoay chuyển đất trời, chắp Càn Khôn, e rằng không dễ làm, chỉ tổn phí sức lực thôi. Ông không nghe người ta nói "Thuận theo ý trời thì an nhàn, trái với ý trời thì gian lao vất vả" ư ? số đã định, lí không thể nào khác, mệnh đã định người không thể cưỡng lại ư ? Lưu Bị nói "Bị tôi là dòng dõi nhà Hán, phải đứng ra dựng lại nhà Hán, đâu dám phó thác cho số mệnh ?” đã biểu hiện ý chí mình vì phò tá nhà Hán mà bất chấp tất cả. Xuất phát từ việc theo đuổi ý chí của mình, khiến cho Lưu Bị mong muốn tìm người tài như người đang khát nước, lại lần thứ hai di tìm gặp Gia Cát Lượng. Nhưng Gia Cát Lượng lại cử hai người bạn khác là Thạch Quảng Nguyên và Mạnh Công Uy cùng với bố vợ của mình là Hoàng Thừa Ngạn tiếp. Để biểu thị thành ý của mình, Lưu Bị đặc đặc biệt lưu lại một là thư cho Gia Cát Lượng. Trong thư viết vô cùng thành khẩn, nói mình "tuy có lòng thành muốn cứu nước giúp dân, nhưng thực tế lại thiếu kế sách kinh luân. Mong tiên sinh với lòng nhân từ trung nghĩa, khẳng khái trổ hết tài lớn của Lã Vọng, thực thi mưu lược của Tử Phòng, thì thiên hạ thật là may mắn !" Có hai lần đến thăm, Gia Cát Lượng cho rằng Lưu Bị không phải là lớp người bình thường mà có chí khí cao xa, hơn nữa đối với mình cùng kính trọng như thế. Do đó mới có cuộc gặp mặt có tính lịch sử "đối sách ở Long Trung" của Lưu Bị và Gia Cát Lượng như thế. Trải qua một đêm trao đổi bàn bạc, Gia Cát Lượng cuối cùng quyết định xuống núi đi phò tá Lưu Bị. Về sau có người dã viết bài thơ để ca ngợi Gia Cát Lượng : Thân chưa bay bổng nghĩ đường lui, Công thành phải nhớ lại lời xưa. Chỉ vì tiên chủ đinh ninh dặn, Ngũ trượng, sao sa gió thổi hoài. Trong "Tam quốc diễn nghĩa" viết câu chuyện ba lần thăm lều tranh, chủ yếu là biểu hiện phẩm đức và tấm lòng "chiêu tài cầu hiền” của Lưu Bị. Nhưng từ một khía cạnh khác, chúng ta lại có thể nhận ra sự thận trọng của Gia Cát Lượng đối với việc lựa chọn tiền đồ của mình. Mặc dù La Quán Trung không viết rõ điều này, nhưng bạn đọc cũng có thể hiểu thấu đáo mọi ý đó. Gia Cát Lượng sử dụng phương pháp thăm dò trinh sát và thời gian khảo nghiệm để xác nhận việc cư xử của Lưu Bị. Ông đã để cho những người bạn đáng tin cậy của mình đi gặp Lưu Bị, để nhận được những tình báo chuẩn xác nhất. Lấy những điều đó để tìm hiểu sâu thêm Lưu Bị. Ông đã hai lần thoái thác không ra gặp là muốn biết lòng chân thành của Lưu Bị đến đâu. Khi ông nhìn thấy Lưu Bị xông gió tuyết lạnh buốt đến thăm mình, mới quyết định gặp Lưu Bị để làm cuộc phỏng vấn cuối cùng. Sau khi ông nhận định Lưu Bị là anh hùng đương thời mới lên ngựa đi nhận nhiệm vụ một cách kiên quyết, bắt đầu thực thi sự nghiệp hùng vĩ của ông. Thời kì hiển hiện giống như ngã tư đường của đời người, chọn đi đâu về đâu vô cùng quan trọng. Có người gọi đời người như một con đường một chiều, đi nhầm thì không có cách nào quay trở lại. Điều so sánh này vừa là hình tượng vừa lại không có gì xác đáng bằng nữa. Khi bước vào đời có thể tìm được một ông thầy tốt, một người bạn có ích là một sự may mắn của một đời. Lãng phí lớn nhất của đời người, không có gì hơn là nhận nhầm đường. Sai sót lớn nhất của đời người, không có gì hơn là nhận nhầm người. Mao Toại tự tiến cử Một lần, nước Tần đã phát động tiến công nước Triệu. Trong nhũng năm đó, chiến tranh các nước thường hay xảy ra. Nhất là mấy nước lớn thực lực tương đối mạnh, họ luôn luôn muốn có dịp để tiêu diệt những nước nhỏ. Nừớc Triệu lúc đó không có đủ lực lượng để chống lại sự tiến công của nước Tần. Nhưng thắng lợi quyết định bởi sự phát huy của sức mạnh trí tuệ. Nước Triệu bắt đầu phát huy sức mạnh trí tuệ của chính họ. Tập đoàn sức mạnh trí tuệ của nước Triệu chính là môn khách do Bình Nguyên quân Triệu Thắng đứng đầu. Họ đã nhanh chóng đưa ra một kế sách "Hợp tung" cho Quốc vương. Toàn bộ ý nghĩa nội dung của kế sách này là : Đem mấy nước nhỏ yếu liên hợp thành một Đồng minh, cùng chung đối phó với nước lớn lớn mạnh và hiếu chiến. Làm thế nào để cho kế sách "Hợp tung" được nước khác tiếp nhận, Triệu vương đành phải mời Bình Nguyên quân có danh tiếng rất cao đi thuyết phục nước Sở là nước khó thuyết phục nhất. Chỉ cần nước Sở đồng ý thì mấy nước nhỏ khác cũng sẽ dễ làm. Bình Nguyên quân bắt đầu chuẩn bị tuyển chọn người cho việc xuất xứ sang nước Sở. Đã chọn được 19 người, nhưng vẫn còn thiếu một chỗ trong danh sách. Lúc này, có một môn khách tên là Mao Toại đã chủ động tìm đến Bình Nguyên quân, hi vọng có thể cho ông đi. Mới đầu Bình Nguyên quân không đồng ý, bởi vì ông từ trước đến nay chưa hề nghe cái tên Mao Toại này. Đưa một người "vô danh tiểu tốt" đến nước Sở để hoàn thành một việc lớn như thế, chẳng lẽ là chuyện trò đùa chăng ? Nhưng Mao Toại lại vẫn biện bạch cho mình một cách đến nơi đến chốn, ông nói : Bình Nguyên quân, Ngài xưa nay chưa từng nghe tên của tôi. Đó là vì Ngài từ trước đến nay cũng chưa cho tôi một cơ hội nổi tiếng. Ví như một chiếc dùi, Ngài chỉ có bỏ nó vào túi áo, nó mới có thể bộc lộ khả năng, đâu mũi nhọn ra ngoài. Hiện tại, tôi cũng giống như chiếc dùi đó, mong ngài hãy đem tôi đặt vào trong túi áo. Binh Nguyên quân cảm thấy ông ta nói tất có lí, liền đáp ứng lời thỉnh cầu của ông. Như vậy, Mao Toại trở thành Sứ giả thứ 20. Các môn khách khác sau khi biết được sự kiện này, đều ngầm chê cười Mao Toại. Nhưng ông vẫn theo Bình Nguyên quân đặt chân lên đất nước Sở. Vừa đến nước Sở, Bình Nguyên quân đã triển khai biện luận về "Hợp tung" với các đại thần nước Sở. Cuộc biện luận vô cùng kịch liệt, từ sáng sớm mãi đến tận trưa vẫn không thể thu được ý kiến nhất trí. Các môn khách của Bình Nguyên quân cũng đều không có kế gì có thể đưa ra, đành phải đợi chờ một cách sốt ruột. Lúc này, Mao Toại đưa ra một hành động không ai có thể nghĩ tới. Ông cầm kiếm bước lên bậc thềm, đi đến trước mặt Sở vương nói to lên : "Việc lợi hại của "Hợp tung" chỉ vài câu đã có thể nói rõ ràng, các ông ở đây lại lãng phí thời gian ngồi để mất thời cơ tốt. Nghĩ lại năm đó, nước Sở luôn luôn nhìn thêm thuồng như hổ đói hùng cứ thiên hạ, từ sau khi nước Tần nổi dậy nhiều lần đánh bại quân của nước Sở, Sở Hoài vương vì thế mà buồn rầu đến chết. Đất Yên và đất Sính nói tiếp nhau sa vào tay giặc bị buộc phải dời đô. Đây là một nỗi nhục trăm đời đến trẻ con đều biết, chẳng lẽ Đại vương ngài không đặt "quốc sĩ" vào trong lòng mình chăng ?" Sở Hoài vương cảm thấy Mao Toại nói đúng, bản thân cũng rất hổ thẹn. Nhưng không nhắc đến việc của "Hợp tung". Mao Toại liền hỏi dồn tiếp, ông hỏi : "Chủ ý "Hợp tung" của đại vương đã nắm chắc rồi chứ ?" Sở vương đành phải nói : Nắm chắc rồi, Mao Toại tức khắc bưng chiếc đĩa giơ lên, quỳ trước mặt Sở vương nói "Đại vương là trưởng của "Hợp tung" ưóc, xin hãy mút máu ăn thề trước, người sau là Quân chủ của tôi, người sau nữa là Mao Toại tôi". Thế là "Hợp tung" ước đã thành công. Thành công tự mình hiển hiện của Mao Toại, đã cung cấp cho những người có chí đời sau một con đường thành công đáng quý. Trong xã hội phức tạp rối ren, Bá Lạc là không thường có, do đó không nên đem hi vọng hiển hiện hoàn toàn gửi gắm vào Bá Lạc. Bởi vì bạn không nhất định có một vận tốt. Nghe nói, có nhiều người đã từng dắt đến nhiều ngựa để Bá Lạc xem. Bá Lạc không phát hiện ra được con nào kì lạ, rất thất vọng. Lúc này có một con ngựa tự nó hí ầm lên, Bá Lạc đã từ tiếng hí của con ngựa này nghe ra đây là một con "thiên lí mã", liền vội vàng cho người dắt nó đến. Người chủ ngựa cho rằng con ngựa này vốn không chịu học điệu kêu lắm, bèn để nó ở một nơi khác, cho nên Bá Lạc chưa phát hiện ra. Chỉ có nghe được tiếng hí của nó mới nhận ra nó. Cho nên, về sau có người từng than thở nói : giá như lúc đó bản thân con ngựa này không hí lên thì sao ? Ngô Khởi mưu cầu làm tướng Tài năng của ông được Lỗ hầu tán thưởng. Nhưng vì chưa có cơ hội, tài năng của Ngô Khởi thật ra chưa hoàn toàn biểu hiện ra. Do đó chức vị của ông không cao lắm. Có một năm, nước Tề xuất quân đánh nước Lỗ. Phải đánh nhau, anh hùng mới có đất dụng võ. Lỗ hầu nghĩ đến Ngô Khởi, muốn để cho ông làm đại tướng chỉ huy quân chống Tề. Nhưng có người nói : Vợ Ngô Khởi là con gái tông thất của nước Tề, sợ ông lại tư thông với nước ngoài. Nhìn thấy một cơ hội tuyệt đẹp sắp sửa mất đi, Ngô Khởi rất nóng ruột. Ông trở về nhà, hỏi vợ mình : 'Mọi người xem việc có vợ hay không rắt nặng nề là vì nguyên cớ làm sao ?" Người vợ hiền trả lời : "Bên trong phải có vợ, bên ngoài có chồng mới có thể gọi là một gia đình. Điều quý trọng là có người vợ tốt mới thành gia lập nghiệp chứ !". Ngô Khởi lại nói : "Chồng làm quan đến Quốc khanh hai nước, bổng lộc vạn chung, công ghi sử sách, lưu danh thiên cổ, thanh danh của nó khá lớn, đây há chẳng phải là điều mà người vợ trông mong chồng mình có thể làm được ư ?" Người vợ gật đầu bảo là phải. Ngô Khởi nói : Tôi có một việc tốt muốn yêu cầu bà, mong bà hoàn toàn đồng ý với tôi. Hiện nay nước Tề đánh Lỗ, Lỗ hầu muốn để tôi làm tưởng quân nhưng vì bà là con gái tông thất của nước Tề, cho nên nghi ngờ tôi không dùng. Nếu như tôi có thể xách đầu bà đi gặp Lỗ hầu, như thế thì, sự nghi ngờ của Lỗ hầu sẽ có thể tiêu tan, công danh của tôi cũng sẽ đến tay. Vừa nói dứt lời, ông đã rút kiếm ra giết chết luôn vợ của mình. Sau đó ông đã xách đầu người vợ đi gặp Lỗ hầu. Lỗ hầu trong lòng rất không tán thưởng cách làm theo đuổi danh lợi này của Ngô Khởi, nhưng lại sợ một nhân tài như ông bị nước khác dùng, thì đối với nước mình không lợi, liền đáp ứng cho Ngô Khởi làm đại tướng. Ngô Khởi cuối cùng đã đạt được cơ hội này. Sau đó, ông đã dùng tài năng của mình chỉ huy quân đội của ông đã đánh bại kẻ thủ xâm lược. Đây là một hiển hiện đẫm máu, mặc dù nó đã thành công. Nhưng lại gieo hạt giống Ngô Khởi sau này bị diệt vong. Không lâu, Lỗ hầu lại mượn lí do khác để gạt đuổi Ngô Khởi. Vì một con người đến vợ của mình còn dám hi sinh, liệu có ai dám yên tâm đối với ông ta ? Khi Ngô Khởi đang theo học, chính vì không dám về nhà thăm mẹ và chịu tang nên gặp phải sự ghét bỏ của thầy học của ông là Tăng Tử. Nhưng Ngô Khởi lại là một người có lòng gang dạ sắt để đạt được mục đích mà bất chấp thủ đoạn. Tinh thần vì sự theo đuổi của mình dám hi sinh của ông là rất đáng được đề xướng. Chỉ là sự hi sinh này một khi vượt quá giới hạn nhất định, sẽ có thể đi sang mặt trái, dẫn đến sự việc trái với nguyện vọng. Về sau, Ngô Khởi một mạch đi liền mấy nước, lần đầu tiền tài năng của ông đều được Quốc vương các nước coi trọng, nhưng cuối cùng ông vẫn không có được kết quả tốt đẹp. Có một câu chuyện tương tự như chuyện Ngô Khởi. Nhân vật chính của câu chuyện này là Nhạc Dương tử. Ông dẫn quân đi đánh nước Trung Sơn, nhưng Trung Sơn vương lại đem người con trai của Nhạc Dương đang làm quan ở nước ông ra làm con tin, bị trói và treo trên cổng thành lấy đó để cản trở việc tiến quân của Nhạc Dương. Nhạc Dương rất do dự. Nhưng lúc này, Quốc vương lại đưa đến mệnh lệnh tiến công. Nhạc Dương không có cách nào hơn, ngày hôm sau tự tay mình dùng tên bắn chết con trai của mình. Sau đó quân đội của ông tiến công lên lầu thành. Sau thắng lợi trở về, Quốc vương cho Nhạc Dương làm một chức quan nhỏ và tống đi đến một nơi xa ở bên ngoài. Có người thấy bất bình thay cho Nhạc Dương, một người thông minh đã giải thích : Nhạc Dương, con người này đến con trai đều có thể giết chết, còn có ai không thể giết nữa ? Quan Vân Trường chốc lát chém chết Hoa Hùng Nhắc đến vị anh hùng xuất thế này, thì nhất định phải kể qua câu chuyện có màu sắc thần kì rượu còn nông đã chém chết Hoa Hùng. Khi 18 lộ chư hầu tập họp để lên án Đổng Trác, đại tướng Hoa Hùng, thủ hạ của Đổng Trác lấy uy thế giết liền 3 tướng làm cho các lộ không ai không kinh sợ. Minh chủ là Viên Thiệu liên tục than vãn, nói "Đáng tiếc là hai thượng tướng của ta là Nhan Lương và Văn Sú chưa đến ! Được một trong hai người đó thì sợ gì Hoa Hùng !" Trước sự thách thức của Hoa Hùng, Quan Vũ đã tự xin đi ứng chiến. Tiếc rằng khi đó ông chưa hề có một chút thanh danh , thậm chí chư hầu các lộ cũng không có ai quen ông. Viên Thiệu rất bực mình, nói : Anh là một tên cung thủ cỏn con, mà lại dám nói những lời ngông cuồng, dám khinh thường các nước chư hầu của ta không có đại tướng chăng ? Kết quả là ông ta bảo người đuổi Quan Vũ đi. May có Tào Tháo ngồi bên cạnh lên tiếng can ngăn : tôi xem người này dáng mạo phi phàm, Hoa Hùng chắc đâu đã biết anh ta chính là cung thủ, hãy để cho anh ta đi thử cũng được. Quan Vũ lại cũng xin lại một lần nữa : Nếu không thắng, xin chém đầu tôi đi ! Tào Tháo liền sai người mời một chén rượu nóng để Quan công uống xong rồi lên ngựa xuất chiến. Lức này, Quan Vũ đã đưa ra một chọn lựa táo bạo, ông nói với Tào Tháo : Hãy khoan hãy rót, tôi đi về ngay thôi. Nói xong liền xách đao ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa. Ở đây, "Tam quốc diễn nghĩa" dùng thủ pháp hư cấu để viết, đã miêu tả : Các chư hầu thấy bên ngoài cửa quan tiếng trống vang lừng, tiếng người hò reo ầm ầm như trời long đất lở, núi đổ non nghiêng, mọi người đều kinh sợ. Đang muốn thám thính xem sao thì nghe tiếng nhạc nhong nhong, ngựa đã chạy vào đến quân trung, Vân Trường tay xách chiếc đầu Hoa Hùng ném xuống đất. Chén rượu vẫn còn nóng hổi. Đời sau có người viết thơ khen Quan Vũ : Khi Ngô Khởi đang theo học, chính vì không dám về nhà thăm mẹ và chịu tang nên gặp phải sự ghét bỏ của thầy học của ông là Tăng Tử. Nhưng Ngô Khởi lại là một người có lòng gang dạ sắt để đạt được mục đích mà bất chấp thủ đoạn. Tinh thần vì sự theo đuổi của mình dám hi sinh của ông là rất đáng được đề xướng. Chỉ là sự hi sinh này một khi vượt quá giới hạn nhất định, sẽ có thể đi sang mặt trái, dẫn đến sự việc trái với nguyện vọng. Về sau, Ngô Khởi một mạch đi liền mấy nước, lần đầu tiền tài năng của ông đều được Quốc vương các nước coi trọng, nhưng cuối cùng ông vẫn không có được kết quả tốt đẹp. Có một câu chuyện tương tự như chuyện Ngô Khởi. Nhân vật chính của câu chuyện này là Nhạc Dương tử. Ông dẫn quân đi đánh nước Trung Sơn, nhưng Trung Sơn vương lại đem người con trai của Nhạc Dương đang làm quan ở nước ông ra làm con tin, bị trói và treo trên cổng thành lấy đó để cản trở việc tiến quân của Nhạc Dương. Nhạc Dương rất do dự. Nhưng lúc này, Quốc vương lại đưa đến mệnh lệnh tiến công. Nhạc Dương không có cách nào hơn, ngày hôm sau tự tay mình dùng tên bắn chết con trai của mình. Sau đó quân đội của ông tiến công lên lầu thành. Sau thắng lợi trở về, Quốc vương cho Nhạc Dương làm một chức quan nhỏ và tống đi đến một nơi xa ở bên ngoài. Có người thấy bất bình thay cho Nhạc Dương, một người thông minh đã giải thích : Nhạc Dương, con người này đến con trai đều có thể giết chết, còn có ai không thể giết nữa ? Quan Vân Trường chốc lát chém chết Hoa Hùng Nhắc đến vị anh hùng xuất thế này, thì nhất định phải kể qua câu chuyện có màu sắc thần kì rượu còn nông đã chém chết Hoa Hùng. Khi 18 lộ chư hầu tập họp để lên án Đổng Trác, đại tướng Hoa Hùng, thủ hạ của Đổng Trác lấy uy thế giết liền 3 tướng làm cho các lộ không ai không kinh sợ. Minh chủ là Viên Thiệu liên tục than vãn, nói "Đáng tiếc là hai thượng tướng của ta là Nhan Lương và Văn Sú chưa đến ! Được một trong hai người đó thì sợ gì Hoa Hùng !" Trước sự thách thức của Hoa Hùng, Quan Vũ đã tự xin đi ứng chiến. Tiếc rằng khi đó ông chưa hề có một chút thanh danh , thậm chí chư hầu các lộ cũng không có ai quen ông. Viên Thiệu rất bực mình, nói : Anh là một tên cung thủ cỏn con, mà lại dám nói những lời ngông cuồng, dám khinh thường các nước chư hầu của ta không có đại tướng chăng ? Kết quả là ông ta bảo người đuổi Quan Vũ đi. May có Tào Tháo ngồi bên cạnh lên tiếng can ngăn : tôi xem người này dáng mạo phi phàm, Hoa Hùng chắc đâu đã biết anh ta chính là cung thủ, hãy để cho anh ta đi thử cũng được. Quan Vũ lại cũng xin lại một lần nữa : Nếu không thắng, xin chém đầu tôi đi ! Tào Tháo liền sai người mời một chén rượu nóng để Quan công uống xong rồi lên ngựa xuất chiến. Lức này, Quan Vũ đã đưa ra một chọn lựa táo bạo, ông nói với Tào Tháo : Hãy khoan hãy rót, tôi đi về ngay thôi. Nói xong liền xách đao ra khỏi trướng, nhảy lên mình ngựa. Ở đây, "Tam quốc diễn nghĩa" dùng thủ pháp hư cấu để viết, đã miêu tả : Các chư hầu thấy bên ngoài cửa quan tiếng trống vang lừng, tiếng người hò reo ầm ầm như trời long đất lở, núi đổ non nghiêng, mọi người đều kinh sợ. Đang muốn thám thính xem sao thì nghe tiếng nhạc nhong nhong, ngựa đã chạy vào đến quân trung, Vân Trường tay xách chiếc đầu Hoa Hùng ném xuống đất. Chén rượu vẫn còn nóng hổi. Đời sau có người viết thơ khen Quan Vũ : Uy chấn Càn Khôn đệ nhất công, Doanh môn trống trận nổi tung tung. Vân Trường dừng chén thì anh dũng, Rượu còn nóng hổi chém Hoa Hùng. Thông qua hình ảnh rạng rỡ tuyệt đẹp lần này, thanh danh của Quan Vân Trường liền lừng lẫy, làm cho ông từ một cung thủ không tiếng tăm trước đây đã trở thành dũng tướng mọi người đều biết. Vì thế có thể nói đây là một lần hiển hiện thành công. Nghiên cứu nguyên nhân thành công của nó. Quan công đã lựa chọn Hoa Hùng, một người trong một lúc đã giết liền ba đại tướng làm đối thủ để đọ sức. Việc này cũng giống như trận đấu thách thức với võ sĩ vô địch quyền Anh hiện nay. Một số võ sĩ quyền Anh có thực lực để nổi danh, chuyên thách đầu với võ sĩ vô địch lần trước. Nếu thắng thì mình sẽ giành được danh hiệu vô địch. Chọn người nổi tiếng nhất để thi đấu, đây là con đường thành công mang tính kích thích. Việc lựa chọn của Quan công là chính xác. ít nhất là bước vào thời kì hiển hiện cao hơn một tầng nấc sớm hơn. Từ việc lựa chọn thời cơ, việc lựa chọn của Quan Vũ cũng rất khéo. Khi Hoa Hùng chém liền ba viên đại tướng trước, 18 lộ chư hầu đã một thời không ai dám ra ứng chiến, Quan Vũ đã đứng ra, hình ảnh rạng rỡ đã hiện ra trước mắt 18 lộ chư hầu. Việc này làm cho mức độ nổi danh của ông được nâng lên nhiều lần so với việc chiến đấu ở lúc bình thường. Điều có tính truyền kì nhất là "Quan Vũ dừng chén thi anh dũng". Trước mắt 18 lộ chu hầu, ông muốn làm sáng lên một hình tượng đẹp đẽ. Làm như thế cũng phù hợp tính cách thích hư vinh của Quan Vũ. Tổng hợp lại là việc lựa chọn của thời hiển hiện là phải có ý đồ thật tốt để lựa chọn một lần. Trước tiên, phải chọn một người danh tiếng hơn bạn rất nhiều làm đối thủ. Sau khi đại đao của Quan Vũ vạch ra con đường danh lợi, người ta đều tôn kính nó và xem nó như Thần. Người ta thường cười những người đời sau đòi đao là đòi đại đao trước của Quan công. Thực ra người đòi đao muốn đòi nổi tiếng thì nên đến trước cửa Quan công để đòi. Hai là, phải chọn một trường hợp có lợi để nâng cao mức độ nổi tiếng của bạn. Cần để cho càng nhiều người biết đến, điểm này rất quan trọng. Ba là, phải chọn một hình thức biểu hiện có mẩu sắc truyền kì. Còn trước lúc này, bạn cần phải có thực lực tuyệt đối, có cơ sở chắc thắng một trăm phần trăm. Bất cứ lòng kiêu hãnh nào đều không nên có ! Tây Môn Báo trị vì Nghiệp huyện Ngụy Văn hầu nghe theo tiến cử của người khác đã phái Tây Môn Báo đến quản lý Nghiệp huyện. Tây Môn Báo nhận nhiệm vụ mới sẽ hiển hiện mình ra sao ? Là nhà chính trị phải lấy chính nghiệp làm gốc, nghiệp thì lấy dân làm chủ. Sau khi Tây Môn Báo đến nhậm chức, quan sát hỏi han làm sáng tỏ cái khổ của nhân dân ở đây, chính là hàng năm phải cưới vợ cho há bá Lúc đầu, vùng Nghiệp huyện này không biết từ tháng nào năm nào đặt ra một lệ, mỗi năm phải quăng xuống sông một cô gái nói là làm vợ cho hà bá. Nếu không như thế hà bá nổi giận sẽ dâng nước lên to. Làm cho mùa màng mất hết, dân chúng không có gạo để ăn. Thực ra đây là một trò bịp mà hàng năm các thân hào câu kết với các bà mo, lừa để lấy tiền tài của dân chúng. Tây Môn Báo quyết định bắt đầu từ sự việc này. Lại đến ngày cưới vợ cho hà bá, Tây Môn Báo cũng đến nơi để tiễn cô dâu. Ông nói là phải tự mình vì dân chúng cầu khấn và cầu được thần minh bảo hộ. Nghe nói Huyện lệnh mới nhậm chức cũng đến dự, cho nên năm nay việc cưới vợ cho hà bá làm với quy mô lớn hơn những năm qua. Người đến xem cũng rất đông. Đầu tiên ông bảo người cho người trúng tuyển vợ hà bá lại, tự mình xem qua. Xem xong, ông nói : "Hà bá là bậc tôn thân, người vợ của ông ta nhất định phải là "tuyệt sắc giai nhân" mới được. Ta xem cô gái này diện mạo không đẹp lắm, e rằng hà bá chưa chắc đã bằng lòng. Bà mo có thể thay ta tiện thể nói với hà bá là mấy ngày sau nữa sẽ tìm lại một cô gái xinh đẹp hơn, gửi đi sau”. Nói xong, ông cho người đem bà mo ném xuống sông. Còn ông tự mình đứng bên bờ sông với vẻ hết sức cung kính đợi chờ bà mo quay về. Được một lát, ông lại nói : "Cái bà mo già này làm việc sao lâu đến thế, các đệ tử sẽ đi thúc giục xem sao !". Tiếp theo, lại ném xuống ba bốn bà mo trẻ nữa. Đợi một hồi lâu, lại không thấy động tĩnh gì. Ông bèn nói : "Các bà mo đều là loại đàn bà, làm không nên việc lớn. Hay là thầy lí chịu khó đi một keo nhé !" Nói xong, đem ông lí cũng ném xuống sông. Ông vẫn cung kính như trước đứng đợi ở bên bờ sông, lại chờ đợi một hồi lâu nữa, Tây Môn Báo lại nói : ”Tại sao hà bá đều giữ các khách này lâu đến thế ?" Đành làm phiền Đình duyên và Hào trưởng đi một phen thôi". Đình duyên và Hảo trưởng nghe xong khiếp vía quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa với Tây Môn Báo xin tha tội chết. Lúc này, Tây Môn Báo mới nói một cách răn dạy : Nước sông cuồn cuộn không ngừng, ngày đêm chảy về Đông, đâu có hà bá nào, đã oan uổng giết đi sinh mệnh nhiều cô gái của các gia đình lương thiện. Từ nay về sau, nếu có ai lại dám nói đến việc lấy vợ cho hà bá, sẻ cho là đặt điều mê hoặc dân chúng để trị tội. Đến đây, vị quan nhỏ vừa mới nhậm chức này đã hiển hiện mình trước mọi con mắt của nhân dân toàn huyện, dựng lên một hình ảnh ông quan liêm chính. Khổng Tử nói : Trước tiên muốn đứng vững được ở nơi không thất bại, bí quyết hiển hiện cũng chính là tại nơi đây. Nhiều người vừa nhậm chức đã vội vàng làm việc tựa như là phái ông ta đến chính là làm một số việc. Thực tế, những việc này không phải là ngoài ông ta ra, người khác sẻ không thể làm được. Vấn đề ở chỗ chưa có người làm. Nguyên nhân của việc chưa có người làm là gì ? Giải quyết ra sao, đây mới là việc mà bạn, một vị quan mới phải làm. Tây Môn Báo đã phát hiện ra tục lệ xấu của Nghiệp huyện là cưới vợ cho hà bá. Trò bịp này vừa hãm hại người, vừa lừa kiếm tiền, nhưng vì là ông lí và một số người có quyền thế làm, không ai dám nói, dám hỏi đến. Tây Môn Báo liền tự mình ra tay giải quyết. Ông đã ném ông lí xuống sông, lại trấn áp được Đình duyên và Hào trưởng, như thế, đã vứt bỏ được những hòn đá vướng chân mình, quét sạch trở ngại, đã mở ra con đường cho chính nghiệp sau này. Điều đáng nói ở đấy là Tây Môn Báo đã giết hết những người này, mà giết rất khéo léo. Làm cho họ không thể không chết, lại còn không nói ra nổi nửa lời báo oán. Việc cưới vợ cho hà bá là việc bản thân họ làm. Hãy để cho chính họ đi gặp hà bá mới là việc đương nhiên. Tây Môn Báo không trị tội họ ở chốn Nha môn, đã tránh được xung đột chính diện. Đây là chỗ ông thông minh hơn người. Ở thời hiển hiện, về nguyên tắc phải trước mông không thắng mà sau thắng, cố gắng hết sức tránh giao chiến chính diện. Bởi vì lúc này vây cánh của bạn chưa nhiều. Bạn cần phải khuyên răn mình điều này. Tư Mã Nhương Thư chỉnh quân Lúc này, Chính khanh Yến Anh bèn tiến cử với Tề Cảnh công Tư Mã Nhương Thư, một người xuất thân từ địa vị hèn mọn. Chỉ cần có thể đánh bại kẻ thủ, Tề Cảnh công không để bụng ông ta xuất thân hèn mọn hay không, nên đã triệu kiến Tư Mã Nhương Thư. Từ việc gặp mặt để xem xét, người này đích thực có thể làm đại tướng dẫn quán đánh trận. Tề Cảnh công quyết định bổ nhiệm Tư Mã Nhương Thư. Nhưng Tư Mã Nhương Thư đề xuất với Tề Cảnh công một yêu cầu : Vì mình xuất thân hèn mọn, đột nhiên nắm giữ binh quyền sợ quân sĩ không nghe lời chỉ huy, dân chúng không tín nhiệm, cho nên xin quốc quân cử cho một người đáng tin cậy đến quân trung để giám đốc. Đây là một ý tốt, Tề Cảnh công liền đáp ứng ngay, liền cử bề tôi sùng ái của mình là Trang Giả đi theo quân đội.Thế là Tư Mã Nhương Thư ước hẹn với Trang Giả ngày mai phát binh, giữa trưa sẽ gặp tại quân môn, mời giám quân đến đúng giờ. Buối sáng hôm sau, Tư Mã Nhương Thư đến quân môn trước, ông cho quân dựng lên một thanh cọc gỗ dùng đế quan sát bóng mặt trời, dùng nó để định thời gian. Tiếp đó, ông cử người đôn đốc Trang Giả khẩn trương đến kịp quân môn. Trang Giả tự cho mình là bề tôi sùng ái của Cảnh công, bình thường vô cùng kiêu ngạo ngang ngược. Lần này làm Giám quân, càng không coi vị tướng quân vô danh ra gì. Cho mãi đến lúc bóng mặt trời đã xế về Tây, Trang Giá mới đến quân môn trong tư thế say bí tỉ. Tư Ma Nhương Thư liền hỏ : Giám quân sao đến muộn thế ? Trang Giả nói một cách thản nhiên : bạn bè thân thích bày tiệc tiển đưa tôi, cho nên lỡ hẹn mất một lúc. Nhương Thư nổi giận nói : Khi đại tướng quân nhận lệnh thì nên quên gia thất của mình ; giám quân đã ước hẹn thì nên quên bạn bè thân thích của mình, khi đã gióng trống kéo cung thì nên quên đi tính mạng nguy hiểm. Hiện tại kẻ thù đã xâm nhập, trong nước rối loạn, sĩ tốt phơi xương đẩy biến ải, nhà vua ăn không ngon, ngủ không yên, sinh mệnh của dân chúng đều treo trông tay ông, mà ông vẫn còn nói nào là tiễn đưa ! Sau đó, ông gọi quan quân pháp đến hỏi : theo quân pháp, tướng sĩ không đến đúng giờ nên xử hình phạt thế nào ? Quan quán pháp trả lời ; "Nên chặt đầu !" Nhương Thư không nói thêm lời nào nữa, cho người chém đầu Trang Giả để ba quân nhìn thấy. Người của Trang Giả vội vàng đi báo cáo Cảnh công. Cảnh công nghe xong rất bàng hoàng liền sai Lương Khưu Cứ mang' "thủ lệnh" xá miễn cho Trang Giả đến trung quân cứu Trang Giả. Nhương Thư xem xong "thủ lệnh" nói : Tướng ở bên ngoài, lệnh vua có thể không tiếp nhận. Kết qua là lấy cớ Lương Khưu Cứ chạy rong ruổi trong trung quân làm loạn quân doanh, muốn giết luôn cả Lương Khưu Cứ. Nhưng vì ông ta mang lệnh vua đến, không dễ dàng trực tiếp dùng hình phạt, bèn phá hủy xe của ông ta để biểu thị trừng phạt. Nhương Thư, binh mã chưa động đã chém hai người trước, oai phong lừng lẫy ba quân. Sự việc này truyền đến trung quân Tấn và Yên, tướng lĩnh hai nước vô cùng kinh sợ, cho rằng tướng lên như thế dẫn binh là không thể thắng nổi, thế là chưa đánh đã tự rút lui. Quân Tề thừa cơ đã thu hồi toàn bộ đất đã mất. Nhương Thư chém Trang Giả trước nha môn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc quản lý quân đội. Từ khía cạnh khác, đối với việc hiển hiện của bản thân ông cũng rất quan trọng. Ông trước tiên nghĩ đến mình xuất thân thâp hèn, vừa nhảy lên đà thành đại tướng, sự có thất bại, đây là sự khôn khéo của Nhương Thư. Ông không bị thành công đột nhiên đến mà làm cho choáng vàng đầu óc. Cho nên, điều ông suy nghĩ trước hết không phải là làm thế nào đánh bại tiến công của kẻ thủ mà là mình làm thế nào không bị đánh bại. Ông thỉnh cầu với Tề Cảnh cóng cử một bề tôi sùng ái làm trợ thủ của mình. Làm như thế là đế trước hết tìm được tự bảo vệ. Nhưng làm như thế có một sai lầm lớn nhất chính là làm cho việc chỉ huy của mình bị hạn chế. Nhương Thư, con người thông minh như thế không thể không biết nghĩ đến điểm này. Ông liền hẹn định với Trang Giả ở ngay trước mặt Cảnh công là ngày mai sẽ gặp mặt tại quân môn. Lúc này, một kế hoạch đá hình thành. Ngày hôm sau, việc đầu tiên Nhương Thư làm trước đó là dựng cọc gốc để xem thời gian. Cọc gỗ được dựng lên, thì giá tử hình của Trang Giả cũng xem như đã dựng luôn. Trang Giả không phải là không chết thì không được. Nhưng vì sao Nhương Thư lại cứ phải chém đầu ông ? Bởi vì Nhương Thư muốn xác lập một kiểu uy tín. Nếu không thì ông ta sẽ không ngóc đầu lên được, không có cách nào để hiển hiện tài năng quân sự của mình. Từ xưa đến nay, một ông tướng thành danh, hàng vạn xương phơi. Đây không phải là nói làm người tướng đều muốn giết người, mà là sau khi đã giết người mới có thể trở thành tướng. Giống như Nhương Thư giết hai người đã làm cho quân hai nước Tần, Yên chưa đánh mà phải rút lui, thu hồi nhiều đất đai đã mất. Đây là một thắng lợi vô cùng lớn, Dùng trả giá sinh mệnh nhỏ nhất đổi lấy thắng lợi lớn nhất, mãi mãi là mục tiêu theo đuổi của các nhà quân sự. Tôn Tẫn đua ngựa Điền Kị tiếp đãi Tôn Tẫn rất tốt, hai người thường thường không rời nhầu như hình với bóng. Tôn Tẫn lúc này đã là nguời tàn phế, không còn cách nào để thi thố tài năng dẫn quân đánh trận của mình nữa. Nhưng, Tôn Tẫn không vì thế mà sống im hơi lặng tiếng. Đương thời, một loại binh chủng mới đang càng lớn mạnh, đó chính là kị binh, các nước đều tiến hành thi đua ngựa. Điền Kị cũng thích đua ngựa, thường thường cùng với Tề Uy vương và những người khác đua thi đánh cuộc. Nhưng ông thường thua Quốc vương. Một hôm, Điền Kị dẫn Tôn Tẫn đến trường đua ngựa xem ông đua ngựa với Tề vương. Theo quy tắc đua phân thành 3 hạng : thượng, hạ, trung mỗi lần đua ba cuộc thắng hai. Tôn Tẫn phát hiện ngựa của Điền Kị kém ngựa của Tề vương không nhiều. Nhưng nếu ngựa hạng "thượng" đua với ngựa hạng "thượng", ngựa hạng "trung" đua với ngựa hạng "trung" , ngựa hạng "hạ" đua với ngựa hạng "hạ", thì ngựa của Điền Kị sẽ không được, đành phải chịu thua Tề Vương. Tôn Tẫn bèn nói với Điền Kị : tôi có thể làm cho ông thắng Tề vương. Điền Kị hỏi làm thế nào mới có thể thắng. Tôn Tẫn nói : dùng ngựa hạng "thượng" của ông đua với ngựa hạng "trung" của Tề vương, dùng ngựa hạng "trung" của ông đua với ngựa hạng "hạ" của Tề vương, dùng ngựa hạng "hạ" của ông đua với ngựa hạng "thượng” của Tề vương. Như thế, ông sẽ có thể thua một cuộc mà thắng hai cuộc. Quả nhiên, Tề vương đã thua Điền Kị. Tề vương không hiếu nổi, những ngày trước đây các con ngựa này đều thắng cá, lần này tại sao lại thua ? Điên Kị nhân cơ hội tiến cử Tôn Tẫn với Tề vương. Ông nói "ngày hôm nay thắng, không phải là do sức của ngựa, mà là tinh toán hay của Tôn Tẫn''. Tôn Tẫn thông qua lần đua ngựa này chỉ mới đưa ra một kế làm mọi người kinh ngạc. Tề Uy vương liền triệu kiến ông ta rất nhanh. Qua lần phỏng vấn trực tiếp về binh pháp, Tề Uy vương phát hiện Tôn Tẫn là một thiền tài quân sự kiệt xuất, liền hạ lệnh bổ nhiệm ông làm quân sư của Tề quốc. Từ đó, Tôn Tẫn từ một người tàn phế bị bỏ đi, nhảy một hước trở thành nhân vật thống soái "thiên quân vạn mã". Sự hiển hiện của ông đã làm biến đổi cả tiến trình lịch sử của giai đoạn giừa thời Chiến quốc. Trận đánh Quế Lăng và trận đánh Mã Lăng nổi tiếng, nước Tề đánh bại nước Nguy, uy danh lừng lẫy các nước chư hầu đã giành được địa vị làm bá chú Trung Nguyên. Hiển hiện của Tôn Tẫn ở nước Tề thật đáng ngẫm nghĩ. Ông không dùng phương thức hiển hiện như khi đi đến nước Ngụy, mặc dù ông ở nước Tề cũng có Điền Kị thân thiết không dời như hình với hóng, ông đã rút được bài học Bàng Quyên dạy ông ta, không hiển hiện tài năng quán sự ở trước người khác, mà đem tài năng vận trù quân sự ứng dụng khéo léo vào việc đua ngựa. Đôi khi để người khác phát hiện mình, so với tự mình biểu hiện còn tốt hơn nhiều. Hơn nữa cái hay của việc làm như thế là không thể chuốc lấy sự ghen ghét và nguy hại của người khác. Thời Tam quốc, Bàng Thống qua người khác dẫn đến tiếp kiến Lưu Bị. Lưu bị đã dùng Khổng Minh làm quân sư, lại không biết tài năng của Bàng Thống như thế nào, thế là liền để cho ông ta làm Huyện lệnh Lai Dương.Bàng Thống sau khi đến nhậm chức, suốt ngày uống rượu, ông làm Huyện lệnh, tại sao ông đem mọi việc trong huyện đều xao nhàng hết cả thế này ? Bàng Thống cười nói : một cái huyện nhỏ nhoi này, có việc gì khó làm đâu. Nói xong, gọi người đem tất cả văn thư ôm đến, trên công đường Bàng Thống tai nghe miệng phân, phải trái rõ ràng, đem toàn bộ văn thư ùn lại hơn một trăm ngày chưa đầy một lát mọi việc đều xử lí xong xuôi. Ông liền đặt bút, hỏi Trương Phi : "Nào, cuối cùng tôi đã làm xao nhàng công việc gì của chúa công ?" Trương Phi giật mình sửng sốt, quay về chỗ Lưu Bị nói : "Bàng Thống là một. người rất có tài". Được vài hôm, Lưu Bị lại nhận được thư của Lỗ Túc, đại tướng Đông Ngô gửi đến. Trong thư nói : "Bảng Sĩ Nguyên không phải là người tài trong một huyện, chỉ có để cho ông làm chức quan trị trung, biệt giá nhất cấp, mới có thể phát huy tài năng của ông ta. Gia Cát Lượng cũng tiến cử Bàng Thống, Lưu Bị mới tấn thăng Bàng Thống làm "trị trung tòng sự", Tôn Tẫn và Bàng Thòng đều có "tài cái thế", nhưng họ không phải ngồi chờ người khác phát hiện mà là lợi dung phương pháp khéo léo để tự tiến cử. Một phương pháp hữu hiệu của thuật hiển hiện chính là để cho chính đối phương cho bạn là có tài năng, để cho anh ta tự cảm thấy là anh ta đã phát hiện ra bạn. Mọi người đều mong mình là Bá Lạc. Việc mà bạn phải làm chính là thỏa mãn một cách khéo léo điều mong muốn này của ông ta. Thương Ưởng biến pháp Trong hơn 400 năm này, đủ mọi nhân vật quan trọng tranh giành đọ sức với nhau. Trên vũ đài lịch sử trên vùng đất Trung Nguyên rộng lớn này đã diễn ra lâm li sâu sắc và vô cùng náo nhiệt. Nói về chiến tranh, chiến trận chiến xa đều bị kị binh thay thế; chiến trường từ trên đất liền đã mở rộng đến trên sông, hồ, biển ; quy mô chiến tranh không ngừng mở rộng; Vũ khí chiến đấu cũng từ việc chế tạo bằng đồng chuyển thành đồng sắt. Nói về học thuật, các nhà có học thức đưa ra các thuyết, trăm nhà đua tiếng. Đạo học của Lão Tử, Nho học của Khổng Tử, Mặc học của Mặc Tử, Pháp học của Hàn Phi Tử, họ phát huy văn hóa Trung Hoa đến mức sôi nổi sảng khoái đã khơi dòng cho các học thuật. Sau khi tự do lên tiếng cần phải có trí tuệ lớn. Mấy chuyện nhỏ dưới đây đều là những nhân vật nổi tiếng đương thời họ dùng tài trí thông minh của họ để lưu danh vào sử sách. Câu chuyện thứ nhất : Năm 350 trước công nguyên, chủ trương chính trị của Thương Ưởng cuối cũng được Tần Hiếu công tiếp nhận. Pháp lệnh mới sắp được ban bố ở nước Tần. Nhưng Thương Ưởng sợ dân chúng không tin tưởng, không thể thực hành theo pháp lệnh mới. Ông đã nghĩ ra một biện pháp. Tại cửa Nam Môn của thành Hàm Dương, ông cho người dựng lên một cột lớn, bảo với mọi người rằng nếu ai có thể bê được chiếc cột này đến cửa Bắc Môn thì sẽ thưởng anh ta 10 dật vàng (một dật bằng 20 lượng). Dân chúng nghe nói đều cảm thấy hơi lạ, nhiều người đều xúm lại, vẫn không có người nào bằng lòng bê cây cột này đi. Thương Ưởng lại cho người nâng tiền thưởng lên đến 50 dật. Dân chúng nghe được giá thưởng mới lại càng hoài nghi hơn. Bê một cây cột thì có thể được 50 dật, điều này liệu có thể có không ? Lúc này, có một anh chàng hăng hái đứng ra nói : nước Tần xưa nay chưa bao giờ đưa ra trọng thưởng. Nay phát ra lệnh này nhất định trong đó có nguyên nhân. Dù tôi không được 50 dật, cũng còn hơn một xu không được. Nói xong, anh ta liền bê cây cột gỗ này đến cửa Bắc Môn. Nhiều người đều theo anh ta đi đến cửa Bắc Môn một cách hiếu kì. Thương Ưởng đã tiếp kiến anh chàng này tại cửa Bắc Môn và nói với anh ta : "Anh có thể nghe và phục tùng mệnh lệnh của quốc gia, quả thật là một người dân tốt". Ngay lập tức lấy vàng ra phát cho anh ta như số lượng đã nói. Sự việc này không cánh mà bay, mọi người toàn thành Hàm Dương đều biết hết. Mọi người đều nói: dân thường hễ có lệnh sẽ làm, có thưởng tất sẽ tin, trước khi làm nói rất rõ ràng làm cho mọi người đều tin. Ngày hôm sau, Thương Ưởng liền ban bố pháp lệnh mới. Câu chuyện thứ hai : Khổng Tử năm xưa dạy học ở nước Lỗ, học sinh của ông về sau ngày càng ít dần. Vốn là có một người tên là Thiếu Chính Mão, rất không tôn trọng việc dạy học của Khổng Tử, đã cử người đem học sinh của Khổng Tử đều thu hút vào môn đệ của mình. Khổng Tử rất phẫn nộ đối với Thiếu Chính Mão, nhưng mình vẫn kiên trì tư tưởng dạy học của mình. Về sau, Khổng Tử làm Đại tư khấu của nước Lỗ, đã lấy danh nghĩa Thiếu Chính Mão tuyên truyền "dị giáo tà thuyết" đem giết chết. Đương thời, học sinh của Khổng Tử là Tử cống hỏi thầy dạy : "Thiếu Chính Mão là người nổi tiếng của nước Lỗ. Thầy đem giết ông ta đi liệu có thể có hậu quả xấu chăng ?" Khổng Tử nói : "Người ta có 5 điều xấu, mà việc trộm cắp không tính vào đây : một là lòng dạ đạt đến mức nham hiểm, hai là hành động không ngay thẳng mà lại kiên quyết, ba là lời nói giả dối mà lại biện bạch, bốn là ghi nhớ toàn những việc xấu xa mà lại phong phú, năm là thuận theo những điều sai trái để trượt dài. Năm điều xấu này chỉ cần có một thứ trong người thì đã không thể là người quân tử, huống hồ Thiếu Chính Mão đều có cả. Kẻ tiểu nhân hung bạo này không thể không tiêu diệt được." Hai câu chuyện này đều nói khi một tư tưởng mới đưa ra cần phải làm như thế nào. Pháp gia xưa nay xem chính quyền như hổ, chí nghiên cứu khía cạnh cứng rắn của cơ cấu quốc gia; Nho giáo thì lấy nhân nghĩa làm chính trị, chủ trương bậc quân vương phải thi hành điều nhân chính. Nhưng, có người có thể sẽ lấy điều đó để chỉ trích Thương Ưởng và Khổng Tử, đó là sai. Sai là anh ta xem tất cả đều quá thơ ngây. Những người thuộc phái Pháp gia để biến pháp thường dùng phương pháp ôn hòa, còn Khổng Tử để làm cho tà thuyết không che khuất cửa của ông, không ngần ngại đã giơ đao lên để diệt. Đây chính là hiện thực của cuộc sống. Cho nên cần phải sống một cách hiện thực. Như thế, bạn mới có thể hiển hiện ra ở thời cơ thích đáng, Lí Thế Dân dấy binh dựng Đường Ông không tiếc vung tài sản riêng tư của mình đế kết giao với những người có triển vọng, còn mình thì chịu cúi mình để thu nạp hiền tài, rất được cảm tình của các nhân sĩ. Huyện lệnh Tấn Dương là Lưu Văn Tỉnh thấy Lí Thế Dân có hoài bão lớn liền kết bạn sống chết bên nhau với ông, thường xuyên nói với mọi người: "Lí Thế Dân tuy tuổi còn trẻ, nhưng có tài cứu giúp cho đời". Hồi đó, Lí Mật mưu chiếm Tùy thất bại, vì hai nhà Lưu và Lí thông gia với nhau, nên Lưu Văn Tĩnh bị liên lụy, do đó bị bắt giam vào ngục. Lí Thế Dân đã đi đến thăm ông ta. Lưu Văn Tĩnh nói: "Hiện nay thiên hạ đại loạn, không phải là người bình thường có thể bình định đuợc nó". "Ông làm sao biết không có người tài cứu giúp cho đời?" Lí Thế Dân nói: "Tôi đến thăm ông, chính là muốn cùng với ông bàn bạc việc lớn, nghe thử cách suy nghĩ của ông". Lưu Văn Tĩnh nói: "Hiện tại Hoàng đế đang đi thị sát vùng Giang Hoài, Lí Mật xuất binh vây Đông quận, hiện có gần vạn người cùng bọn. Trong lúc này nếu có người có thể điều khiển họ giành lấy thiên hạ thi dễ như trở bàn tay. Hiện nay, dân chúng của Thái Nguyên đều chạy trốn loạn lạc dời vào trong thanh cư trú, tôi đã từng làm Huyện lệnh Tấn Dương nhiều năm, quen biết không ít các nhân sĩ hào kiệt trong đó. Một khi chiêu tập họ lại, có thể được đến hàng mười vạn người. Binh mã mà ông đang nắm giữ cũng có mấy vạn, chỉ cần ông ra lệnh một tiếng, thi ai dám không nghe theo ông? Sau đó, thửa cơ dấy binh tiến vào cửa quan, ban phát hiệu lênh cho thiên hạ, dùng không hết thời gian nửa năm, đế nghiệp nhất định thành.. Lí Thê Dân cho rằng; Lưu Văn Tĩnh phân tích có lí, bèn sắp xếp người hành động riêng. Nhưng ông lo cha ông là Lí Uyên không đồng ý, ông liền tìm đến người bạn của cha ông là Bùi Tịch nhờ ông ta thuyết phục cha mình. Lúc bấy giờ đang là lúc người Đột Quyết xâm nhập Mã ấp, đốt nhà giết người và cướp bóc. Lí Thế Dân nói riêng với cha mình: "Hiện nay Hoàng đế không thi hành nhân đạo, muôn dân gặp tai hoạ, ngoài thành Tấn Dương khắp nơi đều là chiến trường. Nếu nhu cha cứ giũ mãi tiểu tiết, dưới thì giặc giã làm loạn, trên thì có quốc pháp nghiêm hình, chẳng mấy chốc họ Lí chúng ta sẽ phải rơi vào diệt vong. Chi bằng thuận theo lòng dân, đại cử nghĩa binh chụyển hoạ thành phúc. Bây giờ đang là thời cơ tớt trời ban cho chúng ta !" Lí Uyên nghe xong lời con trai nói hết đỗi kinh hoàng, ông không ngờ tới con trai mình lại nói ra nhũng lối đại nghịch vô đạo như thế. Sau một đêm ngẫm nghĩ vị lão tướng đã từng vì Tùy đế đánh nhiều trận mạc này, cũng quyết tâm làm theo lời của con. Ông đã từng nói với con trai mình một câu nói nổi tiếng : "Việc hôm nay, nghe theo con để làm, nhà tan người chết là do con, mà biến nhà thành nước cũng là do con". Cuối cùng, Lí Uyên đã khởi binh chống Tùy tại Thái Bình. Về sau, chiếm được cả thiên hạ, lập nên vương triều Đại Đường. Từ xưa, thời thế loạn xuất hiện hào kiệt. Khi thời thế loạn, liệu có người dám đúng lên, vượt lên mạo hiểm tính mạng để thực hiện chí hướng của mình. Việc này sẽ đòi hỏi phải có gan. Nhiều người đều không thích mạo hiểm. Bởi vì mạo hiểm có nghĩa là có thể mất cả những gì hiện có. Họ không dám làm như vậy, vì họ đã thỏa mãn những cái họ được. Còn những người có triển vọng, chí hướng của họ không ở những thứ có thể nhìn thấy. Họ chỉ là muốn tỏ rõ giá trị sinh mệnh của mình, thực hiện lí tưởng của mình. Bởi thế, khí bạn ở vào thờn kì hiển hiện, khi kết hợp với những người có triển vọng, bạn nhất thiết chớ nên quên điểm này. Nếu không thì về sau này các bạn có thể vì thế mà chia tay nhau. Hồi ấy, khi Tần Thủy Hoàng đi thị sát, Hạng Võ trông thấy ông ta khí phách lẫy lừng như thế, liền nói : bậc đại trượng phu có thể thay thế. Còn Lưu Bang sau khi trông thấy lại nói : "Bậc đại truợng phu nên sống ở trên đời như thế". Chí hướng của hai người chỉ một câu nói đã biểu hiện ra được. Cho nên, sau khi họ khởi nghĩa ở Trần Thiệp, kế theo đều khởi binh chống Tần tại quê hương mình. Một tiền đề quan trọng để thực thi thuật hiển hiện chính là phải phát triển được thời cơ phát sinh biến đổi trong xã hội. Nhanh chóng nắm chắc được thời cơ không quá dài, lại không thật hấp dẫn người ta chú ý này, đế dũng cảm đứng lên biểu hiện chí hướng và tài năng của mình. Mao Trạch Đông trong bài từ đượm khí thế hùng vĩ bao la của ông nói: Bơi ngang qua biển xanh, mới hiện rõ bản sắc anh hùng. Không có xã hội bấp bênh "bơi ngang qua biển xanh" như thế, sẽ không thể có anh hùng vĩ đại xuất hiện. Chỉ có đem sự nghiệp của mình đặt vào trong bối cảnh biến đổi xã hội to lớn này, bạn mới có thể trở thành hình tượng vĩ đại của thời đại đó. Trời phù hộ Địch Thanh đưa quân ra Quế Lâm. Đường đi vô cùng hiểm trở, đi rất khó khăn. Các binh si đều rất không muốn đi, lại sợ bị địch mai phục. Nhìn thấy binh sĩ như thế, Địch Thanh quyết định trước hết phải giải quyết vấn đề tâm lí của binh sĩ. Ông liền gọi mọi người lại, nói : "Chúng ta tiếp tục tiến lên hay là dừng lại không tiến nữa, hiện tại chúng ta đều không có cách gì quyết đoán được, đành phải nhờ thần minh quyết định. Nếu như cuộc hành quân này không uổng, ngựa chiến đến đâu thành công đến đó thì 100 đồng tiền mà ta ném xuống đều phải mặt ngửa lên phía trên, nếu là không thể được kết quả này, thì chúng ta đành rút quân quay về triều". Có tướng quân khuyên can : "Nếu như thật sự không như ý, chẳng lẽ chúng ta lại thật sự chống lại mệnh lệnh của Hoàng đế mà quay vê kinh đô ư ?" Địch Thanh không nghe theo lời khuyên can của họ, liền lấy ra 100 đồng tiền. Các tướng sĩ đều nhún vai đứng nhìn không biết kết quả rồi sẽ ra sao. Chí thấy Địch Thanh vừa tung tay lên, 100 đồng tiền liền rơi xuống mặt đất, tất cả đều mặt ngửa lên trời. Tất cả mọi người có mặt ở đó đều hoan hô một cách hẽt sức vui mừng vang động cả núi rừng. Địch Thanh cũng mừng vui khôn xiết, bảo thủ hạ của mình mang đến 100 chiếc đinh đem đóng ghim tất cả các đồng tiền lên mặt đất. Ông tự mình dùng vải lụa mỏng màu xanh da trời chùm phủ lên trên, rồi nói với mọi người : đợi khi chúng ta thang trận trở về, nhất định sẽ tưới rượu để tế thần minh. Sau khi dẹp xong loạn, ông đã lấy lại 100 đồng tiền như cũ. Nhưng vốn hai mặt trên và dưới của các đồng tiền đều là mặt ngửa hết. Địch Thanh dùng biện pháp này đế điều động tinh thần của các binh sĩ, đã xác lập uy quyền lãnh đạo của mình. Mượn thần minh để dựng lên uy tín của mình, đây là một cách làm thông minh, sức mạnh thần bí của nó có thể giúp bạn "khởi tử hồi sinh" Chu Nguyên Chương thuở nhỏ nhà rất nghèo, cha ông phải đưa ông đến nhà chùa làm sư. Về sau, ông đến Hảo châu tham gia vào quân khởi nghĩa Nông dân của Quách Tử Hưng. Quách Tử Hưng nhìn thấy tướng mạo của ông kì lạ khác với lớp người bình thường, qua trao đối rất hâm mộ đối với ông ta, đã cho ông làm người lính gãn gũi của mình. Hễ có chiến sự đều lệnh ông đến, thế là đánh là sẽ thẳng. Lúc đó, Quách Tử Hưng nuôi một đứa con gái của một người bạn, thường ngày đều xem như con gái đẻ của mình. Ông trông thấy Chu Nguyên Chương có tiền đồ lớn lao, liền đem người con nay gả cho Chu Nguyên Chương. Hai người con trai của Quách Tử Hưng đều khinh thường Chu Nguyên Chương, bèn muốn dừng rượu độc giết hại ông. Không ngờ, Chu Nguyên Chương biết trước âm mưu của họ, nên luôn đề phòng. Thế là ông đã hẹn hai người này cùng đi ra một nơi ở ngoài. Ba người đi đến nửa đường, Chu Nguyên Chương đột nhiên nhảy lên ngựa chạy, ngửa mặt lên trời giống như người nhìn thấy một cái gì đó, rồi chửi hai người kia ầm lên: "Vừa rồi Thiên, thần bảo tôi: Các anh muốn dùng rượu độc giết chết tôi. Tôi có chỗ nào đối xử không tốt với các anh? Hai anh em nhà họ Quách nghe xong giật nảy mình, cho rằng Chu Nguyên Chương thực sự có thần tiên bảo hộ, do đó sẽ không dám sinh ra ý nghĩ dùng rượu độc giết Chu Nguyên Chương nữa. Sau khi sự việc này lan truyền đi, mọi người khác đều nói Chu Nguyên Chương có thần tiên bảo hộ, tương lai nhất định có thể có phú quý lớn. Những người thuộc hạ của Chu Nguyên Chương đều bằng lòng tình nguyện nghe lời chi huy của ông ta. Thần tiên mãi mãi tồn tại trong lòng người ta. Người vô thần cũng chỉ là xua đuổi nó vào trong tiềm ý thức mà thôi, một khi bạn kích ý thức này của anh ta lên thì một sức tín ngưỡng to lớn sẽ nổ tung ra. THỜI KÌ TRƯỞNG THÀNH - THUẬT PHÒNG HỌA (Người quân tử suốt ngày hiện thần thái rắn rỏi, sớm hôm phải cẩn thận cảnh giác, thì nếu có lâm nạn cũng khỏi lo). Hào thứ 3 của quẻ Càn này nói rõ người quân tử có sẵn trí tuệ và đức hạnh, đã hiển hiện ; nhận được sự chú ý đã rơi vào địa vị nguy hiểm. "Kiền kiền” chính là”kiện kiện"(khỏe mạnh) cố gắng không ngừng. "Thích" là cảnh giác. "Lệ" là cẩn thận nghiêm ngặt. "Cừu" là tai nạn. Hào ba dương, vì đã tách khỏi trung lập, lên đến vị trí cao nhất của quẻ Hạ, vì thế có thể có nguy hiểm, chỉ có ngày đêm phai cánh giác, cẩn thận từng li từng tí mới có thể tránh được tai họa hoặc giảm bớt mức độ tai họa. Hào ba đương rơi vào trong nguy hiểm là vì bản thân nó quá cương trực tạo nên. Lúc này, cần phải háng hái, cố gắng không mệt mỏi ngày đêm cánh giác, liên tục không ngừng tập trung sức vào việc hoàn thiện đạo đức và phẩm hạnh, cẩn thận hết mức mới có thể tránh được tai họa dồn đến. Nếu như kiêu ngạo tự đại, cậy tài coi khinh người khác, thì có thể dẫn đến tai nạn. Khổng Tử nói : "Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín sớ dĩ tiến đức dã. Tu từ lập kì thành sơ di cư nghiệp dã. Tri chí chí chi, khả dữ kỉ dã, tri chung chung chi, khả dĩ tồn nghĩa dã. Thị cố cư thượng vị nhi bất kiêu, tại hạ nhi bất ưu, cố kiền kiền nhân kì thời nhi tịch, tuy nguy vô cừu dã”. (Người quân tử tiến đức tu nghiệp. Lấy điều trung tín là để tăng tiến phẩm đức. Trau chuốt ngôn từ lấy thành tín làm gốc, lập nghiệp. Biết thời cơ đến phải đón nhận kịp mới nắm chắc cơ hội. Biết khi nào nên ngừng thì phải ngừng dứt khoát, mới có thể giữ được đạo nghĩa, ở vị trí đứng đầu không kiêu ngạo, khi ở địa vị phụ thuộc cũng không lo lắng bàn khoăn. Vì vậy phải hăm hở, vì ứng thời cơ mà cảnh giác, dù gặp lúc nguy hiểm cũng có thể thoát nạn) Hào ba đương này nằm ở vị trí trên cùng của quẻ Hạ, đức của người quân tử vốn đã biểu hiện ra, ở chỗ nguy hiểm này liên phải làm gì ? Khổng Tử nói phải "suốt ngày hăm hở" phấn đấu không ngừng. Phấn đấu về cái gì ? Khổng Tử nói chính hì "tiến đức tu nghiệp". Tiến đức và tu nghiệp là đề phòng tai họa. Tiến đức là phải làm tốt việc tu dưỡng nội tâm, còn tu nghiệp là phải làm tốt sự nghiệp. Khổng Tử còn chỉ thêm ra con đường tiến đức tu nghiệp như thế nào. Trước hết phái nói đến điều trung tín để tăng tiến phẩm đức. Trung tín là một tinh thần phải thiết thực, cụ thể. Một kiểu theo đuối lý tưởng cần phải có tinh thần thiết thực, cụ thể, như thế mới có thể không ngừng tiến bộ. Đó là tiền đề đầu tiên. Thứ hai là phải tu từ. Tu từ tức là ngôn ngữ, bởi vì ngôn ngữ là cái người ta có thể trực tiếp diễn đạt tư tưởng nhất, nhưng lại thường không được người ta coi trọng. Mục đích của tu từ là dựng nên điều thành tín, cũng như trước đã nói là "trung tín". Sau khi có tinh thần thiết thực cụ thể. Trong việc tiến thủ của sự nghiệp sẽ có thể làm được: biết thời cơ đến thì dốc hết sức lực để đón nhận mới có thể nắm chắc được thời cơ (tri chí chí chi). Biết lúc nào nên ngừng, mới có thể nắm chắc chừng mực, dứt khoát ngừng lại (tri chung chung chi). Vì thế khi ở địa vị lãnh đạo hoặc khi thành công mới không thể tự cao tự đại, khi ở địa vị bị lãnh đạo hoặc khi chưa thành công, cũng không thể lo buồn ("cư thượng vị nhi bất kiêu", “cư hạ vị nhi bất ưu”. Ở thời kì trưởng thành có thể tự vươn lên không mệt mỏi, nên ứng thời cơ, luôn luôn đề cao cảnh giác, tuy có gặp nguy hiểm cũng có thể chuyển nguy hiểm thành bình an. Bát trưng pháp của Khương Thái công Tương truyền, Khương Thái Công sau khi giúp Chu vương đánh bại Trụ vương, đã viết quyển binh thư "Lục thao". Trong quyển binh thư này, Thái công đã tổng kết tám phương pháp quan sát nhân vật. Chủ ý của con người luôn ẩn giấu rất sâu, nhất là những người giỏi thuật quyền mưu, chi quan sát bề ngoài của họ khó có thể phất hiện ra nội tâm chân thực của họ. "Bát trưng pháp" của Thái công nhắc nhở chúng ta: để nhận biết được chủ ý của nó, phải thúc đẩy họ hành động. Căn cứ phản ứng của anh ta trong hành động để nhận biết bộ mặt chân thực của anh ta. Tám phương pháp này là : (1) Phương pháp nêu câu hỏi. Trước kia, khi thi đình Hoàng đế đã dùng phương pháp này đế xem xét người. Phương pháp này dứt khoát thẳng thừng, cũng rất đơn gián. (2) Phương pháp truy hỏi. Đôi khi, phương pháp nêu câu hỏi và phương pháp truy hỏi đồng thời sử dụng. Như thế, hiệu quả có thể càng tốt hơn. Đặc biệt là khi nêu lên câu hỏi mà chưa đạt được kết quả vừa ý, dùng phương pháp truy hỏi có thể giúp cho việc khảo sát của bạn. (3) Phương pháp thăm dò. Nhưng cách thăm dò này nhất định phải nắm vững chửng mực, bằng không thì rất để dàng làm cho sự việc đi ngược lại nguyện vọng. Thăm dò còn cần phải giữ bí mật, tuyệt đối không thể để cho quá nhiều nguời biết. (4) Phương pháp tâm sự. Cùng trao đổi tâm sự thẳng thắn với anh ta, như vậy có thể làm thay đổi tâm lí đối địch hoặc tâm lí phòng ngừa giữa hai người. Thông qua trao đối thẳng thắn để khảo sát đức hạnh của người này ra sao (5) Phương pháp cám dỗ. Thông qua một số phương thức nào đó, cho anh ta có dịp tiếp xúc với tiền tài, xem anh ta liệu có tham tiền tài hay không. Người ta thưởng vì tiền tài raà thay đổi, vì tiền tài mà bị chết. Con người như thế thì không thể dùng được. (6) Phương pháp dùng mĩ nhân. Dùng phụ nữ xinh đẹp để câu dẫn anh ta, khảo sát anh ta giữ tiết tháo ra sao. Tục ngữ có câu: Anh hùng khó vượt qua cửa ải mĩ nhân. Dùng sắc đẹp đàn bà để làm tiêu tan ý chí nghị lực của anh ta, thường thường vừa thử đã thấy hiệu quả ngay. Người ham sắc là người ý chí không kiên định, họ quá xem nặng tình cảm với phụ nữ, nên dễ dàng tiết lộ những điều bí mật. Và vậy, không thể để cho những ngưòri như thế tham dự vào việc quyết sách điều cơ mật. (7) Phương pháp tạo nguy nan. Nói cho anh ta biết khó khăn, xem anh ta liệu có dũng khí vưựt qua hay không. Điều này rất quan trọng. Đối với một trang nam nhi, tri và dũng là hai cái vai của anh ta, thiếu đi một thứ đều khó đứng ra đương đầu một mình, khó thành việc lớn. Nhưng, sau khi biết, được nhược điểm của anh ta, có thể thông qua người khác để bù đắp vào thêm, cùng phối hợp với người khác chọn hợp lí, cùng chung làm việc. (8) Phương pháp làm cho say rượu. Khi uống rượu, hãy chuốc rượu thật nhiều cho anh ta để cho anh ta uống say. Lúc đó, con người mới sẽ dễ dàng bộc lộ bộ mặt thật của mình ra. Từ trong cử chỉ và lời nói của anh ta, bạn có thể phán đoán lại anh ta lần nữa. Rượu có thể gột rửa mọi loại ngụy trang mà người ta phải dày công tô vẽ ở trên con người họ. Khương Thái công đã đặt "Bát trưng pháp" trong phần "Long thao" trong sách "Lục thao", đủ thấy Thái công rất coi trọng đối với phương pháp quan sát này. Quan sát là tiền đề quan trọng đầu tiên để biết mọi biến đối. Người giỏi dự đoán cũng đều là những người cẩn thận. Từ những câu chuyện dưới đây, chúng ta có thể xem được những ví dụ thành công về phương diện này. Hãy chú ý phía sau quà tặng Ở chốn quan trường thực hiện việc tặng quà cấp không có cách gì khảo cứu, ở chốn thương trường cũng thế, các trường hợp khác cũng không giải thích rõ được. Tóm lại, việc tặng quà đã thâm nhập sâu vào mọi ngóc ngách cuộc sống của chúng ta. Tặng quà nói chung diễn đạt hai ý : một là có việc nhờ vả bạn ; hai là đáp tạ sự giúp đỡ của bạn Quà tặng hậu hĩnh hoặc đạm bạc phải thích đáng với công việc cần nhờ và thân phận của người tặng quà. Nếu không, thì có thể có dụng ý khác rồi. Xin hãy xem một ví dụ của thời Chiến quốc: Trí Bá, nước Tấn định đổ bộ vào nước Vệ, để làm tê liệt vua nước Vệ, đầu tiên sai người đưa đi tặng bốn con ngựa rừng và 100 hạt ngọc bích. Vua Vệ nhận được đồ tặng vô cùng sung sướng. Phần đông khi nhận được quà tặng của người khác ai ai cũng đều vui vẻ. Trung Quốc có câu nói cổ : Quan không đánh người đem biếu. Nhưng, Nam Văn tử lại buồn rầu không vui. Vua Vệ nói : Nước Tấn là nước lớn, biểu thị hữu hảo với chúng ta, hai bên hòa hợp, còn ông lại không vui, là vì sao ? Nam Văn tử nói : không có công mà nhận thưởng, không bỏ sức ra mà lại được đem lễ đến, không thể không xem xét kĩ được. Ngựa rừng bốn con, ngọc bích bốn trăm hạt, đây phải là đồ lễ của nước nhỏ dâng lên nước lớn. Mà nay Trí Bá nước Tấn lại đem tặng chúng ta, thì thật lòng dạ họ khó lường, mong bệ hạ hãy cảnh giác liệu bề lo liệu sớm. Vua Vệ nghe xong, cảm thấy rất có lí, bèn hạ lệnh quân đội nâng cao cảnh giác, giữ nghiêm thế trận để chờ lệnh. Trí Bá quả nhiên dẫn quân đến đánh úp, phát hiện nước Vệ đã có chuẩn bị bèn than thở nói : "Nước Vệ có người hiện đang tại ngôi, nên dã biết trước mưu tính trước của ta, không thể tấn công gượng ép". Thế là đành phải dẫn quân quay về. Khi tiếp nhận quà biếu của người khác, con mắt của bạn không nên nhìn vào những đồ vật đó, mà phải nhìn vào mắt của anh ta. Con mắt của anh ta chính là cửa sổ tâm linh của anh ta. Duới đây, chúng tôi lại nêu ra một ví dụ tương phản. Một chuyện vì tham lợi nhỏ mà phải mất nước. Phần đất phía Nam của nước Vệ tiếp giáp với hai nước nhỏ. Một là nước Ngu, một nước nữa là nước Quắc. Nước Ngu và nước Quắc là cùng họ, hơn nữa còn là nước làng giềng, quan hệ tương đối thân thiết như môi với răng. Vua nước Quắc hiếu chiến mà kiêu ngạo, đã từng mấy lần xâm lấn biên giới của nước Tấn. Năm 658 trước công nguyên, Tấn Hiến công quyết định đánh dẹp nước Quắc. Xem xét đến quan hệ mật thiết giữa hai nước Ngu và Quắc, khi đánh Quắc thì nước Ngu có thể viện trợ nước Quắc. Tuân Tức bèn nghĩ ra một kế : Ngu công, con người này rất tham lam, nếu như dùng ngọc quý và ngựa tốt biếu cho ông ta, xin nhờ đường đi đánh nước Quắc, ông ta nhất định sẽ đáp ứng. Chỉ cần ông ta đáp ứng, chúng ta sẽ có thể thắng lợi tiêu diệt nước Quắc, rồi sau đó quay về sẽ tiêu diệt luôn nước Ngu. Thế là, Tấn Hiến công phái người đem ngọc quý và ngựa tốt đi tặng cho Ngu công. Ngu công nhìn thấy vô cùng mừng rỡ, liền đáp ứng ngay việc thỉnh cầu của Tấn Hiến công. Quân lính của Tấn Hiến công đã thông qua nước Ngu một cách thuận lợi, kéo đến tận biên giới của nước Quắc. Quân nước Quắc tưởng là quân đội của nước Ngu, cho nên không phòng bị đã bị tiêu diệt. Đội quân mang theo thắng lợi trở về, trên đường đi qua nước Ngu, Tấn Hiến công nói phải cảm tạ Ngu công, bèn tạm cho dừng quân lại. Ngu công đã nhiệt tình thết đãi kẻ thù của mình. Tấn Hiến công hẹn với Ngu công cùng đi ra ngoại thành săn bắn, ngầm phái quân đội đánh úp Ngu đô. Sau khi quân Tấn phá xong Ngu đô, Tuân Tức đã lấy lại ngọc quý từ trong kho, một tay dắt ngựa tốt đến trước mặt Tấn Hiến công nói : Thần trước đây đã nói, đem ngọc quý gửi nhờ vào kho người khác, ngựa tốt nhờ nuôi ở chuồng ngựa của người khác, hôm nay có may mắn đã thực hiện được lời hứa này. Bây giờ ngọc quý vẫn là ngọc quý trước đây, chỉ có điều là con ngựa này đã lớn lên hơn mấy tuổi. Kết quả là Tấn Hiến công không mất một thứ gì, được liền một lúc hai nước, trong lòng vô cùng vui sướng. Khi bạn nhận quà tặng của người khác, nhất định phải xem xét cẩn thận việc mà anh ta nhờ bạn làm xem có chính nghĩa không, xem đối với bạn có hại hay không. Nếu như kết quả của sự việc chỉ có lợi đối với anh ta, mà đối với bạn không có tổn thất, thì bạn có thể tiếp nhận một cách thích đáng. Còn nếu kết quả của sự việc, đối với bạn và anh ta đều có lợi, bạn có thể làm hết sức mình. Nếu kết quả của sự việc, chỉ có lợi đối với anh ta mà gián tiếp có hại đối với bạn, bạn nhất định không nên đáp ứng. Vì đây chắc chắn là một cái thòng lọng. Những người câu cá đều biết, muốn câu được cá nhất định phải chuẩn bị mồi câu tốt. Tất cả mọi con cá bị câu lên, đều là vì tham ăn nên bị người ta ăn thịt. Mỗi khi ăn cá, bạn đều nên nhắc nhủ mình : không nên mắc vào lưỡi câu. Mỗi người đều có lúc vứt bỏ vai diễn của mình Tử Cống, đệ tử của Khổng Tử, đứng ở bên đã quan sát tỉ mỉ từng cử động khi hành triều của hai ông vua nước Lỗ và nước Chu. Chu Từ khi dâng đồ ngọc quý cho Định công, dáng vẻ vô cùng ngạo mạn. Còn Định công, khi nhận đồ ngọc quý Chu tử dâng thì biểu lộ tình cảm rất thấp hèn. Tử Cống sau khi nhìn thấy nói : hai ông vua hai nước này trong tương lai không xa nữa sẽ có thể xa lìa cõi trần gian. Những người khác không hiểu, Tử Cống liền giải thích thêm nói : lời nói việc làm, nhất cử nhất động, quay trái quay phải, tiến thoái, cúi xuống ngẩng lên của một người đều phải phù hợp với yêu cầu của lễ tiết. Triều hội, tế tướng, tang tễ, chinh chiến cũng phải dùng lễ tiết để quan sát nó. Giờ đây, đang trong tháng giêng, cùng nhau triều kiến đều không hợp với quy định của lễ tiết. Trong lòng hai ông vua hai nước đã không còn giữ lễ tiết nữa. Triều hội không hợp với lễ tiết thì đâu còn có thể sống lâu nữa ? Đầu ngẩng cao và hơi ngửa, đây là dấu hiệu của kiêu ngạo; còn cúi thấp và hơi gục, đó là dấu hiệu của suy thoái. Kiêu ngạo gần với rối loạn, còn suy thoái gần với bệnh tật. Vua là người đứng đầu của một nước, e rằng có thể chết trước ! Mùa hạ năm đó, Định công vì có bệnh nên đã chết. Lời của Tử Công chẳng may đoán trúng. Trong chuyện này, Tử công đã nêu ra một biện pháp và nguyên tắc quan sát người : hãy xem người đó có chú ý lễ phép không. Lễ phép là biểu hiện bề ngoài của thế giới nội tâm của một người. Kĩ xảo quan sát của Tử cống là ở chỗ : từ lễ phép ở bề ngoài nhìn thấu nỗi lòng ở bên trong. Nói chung, người ta đều chú ý lễ phép, thậm chí còn dùng để làm một thứ ngụy trang. Nhưng, chỉ có ở khi anh ta hoàn toàn rơi vào trạng thái ứng chiến căng thẳng, anh ta mới có thể ngụy trang thành công. Dũng khí của một chiến sĩ chỉ cở trên chiến trường mới biểu hiện được rất chân thực triệt để. Còn khi anh ta rời khỏi chiến trường, dũng khí sẽ tiêu biến đi. Bất cứ người nào cũng không thể mãi mãi nằm trong trạng thái căng thẳng này. Còn quan sát đối với một người, thường thường phải vào lúc anh ta ra chiến trường. Mỗi người đều đang diễn vai diễn của mình. Sau khi anh ta bước vào vai diễn, nói chung người ta rất ít có thể nhận ra anh ta rõ ràng được, Nhưng khi anh ta vừa từ vai diễn bước ra, bạn sẽ có thể biết anh ta là như thế nào. Một nhà quyền mưu qua nhiều năm mài luyện, hầu như đã nhào nặn mình với vai của anh ta đóng thành một thể, khiến cho bạn căn bản không có cách nào tìm ra cơ hội đế hiểu thấu được anh ta. Nhiều người đều cho rằng Chu Ân Lai là một người thận trọng hòa nhã dễ gần. Trên thực tế, ông cũng là một người thật đáng kính trọng như thế. Trong cuộc đời đấu tranh cách mạng mấy mươi năm, ông đã mài luyện mình thành một con người như thế. Nhưng, những người hiểu rõ ông lại nói : ông là một người nóng tính, đôi khi thậm chí phát cáu. Trong thời kì cách mạng văn hóa, ông đã từng tiến hànhnhiều trận giao phong với các tiểu tướng Hồng vệ binh. Đã mấy lần ông đã phải kêu la họ, phát cáu lên. Hơn thế, thái độ này ngược lại bị những Hồng vệ binh có ý đồ riêng dùng để công kích ông. Ví dụ này không phải là nói Chu Ân Lai là một người khéo ngụy trang, mà là nói mỗi người đều có lúc vứt bỏ vai của mình diễn. Chính lúc này bạn sẽ có thể phát hiện ra những cái mà anh ta che giấu. Mà những cái anh ta che giấu chính là những cái chí mạng của anh ta. Điều cần phải nhắc nhở là bạn sau khi phát hiện được điểm yếu chí mạng của đối phương, nhất định không nên nói cho người khác. Tử Cống sau khi không may đoán trúng, Khổng Tử, thầy học của ông, liền nói "Tử cống vì sự việc này mà trở thành người lắm lời". Người lắm lời thường thường mình hay rước lấy tai họa, bản lĩnh "tri biến" của Khổng Tử rõ ràng cao hơn các đệ tử của ông. Theo cách tư duy của Tử cống học được cách quan sát; Nghe lời của Khổng Tử học được cách im miệng không nói. Nên biết cái gì anh ta chán ghét nhất. Làm sao biết được anh ta là người như thế nào ? Dưới đây có hai câu chuyện : Họ Trung Hành của nước Tấn trong cuộc đấu tranh tông tộc với họ Triệu bị thất bại, ông ta đành phải trốn khỏi nước Tấn. Một hôm, trên đường chạy trốn ông đi qua một huyện ấp, những người tùy tòng của ông nhắc nhở ông : "Sắc Phu làm quan ở đây. Ông ta đã từng là bạn cũ của ông tại sao không đến phủ của ông ta để nghỉ chân. Như thế, chúng ta còn có thể chờ xe ngựa còn tụt lại phía sau đuổi kịp nữa". Văn Tử nói : ”Ta đã từng rất thích âm nhạc, sắc Phu đã tặng ta một cây "minh cầm", ta thích đeo ngọc bội trên người, ông ta lại đã tặng ngọc bội cho ta. Ông ta làm như thế là để ta đã sai lại thêm sai, lấy việc đó để cầu xin sự bao dung của ta. Bây giờ nếu như lại đến phủ đệ của ông ta nghỉ chân, e rằng ông ta sẽ có thể tóm lấy chúng ta để lấy lòng người khác". Nói xong, ông vội vàng ra lệnh mọi người rời khỏi nơi đây. Sau đó đoàn xe ngựa rớt lại phía sau đuổi kịp, quả nhiên đã thiếu mất hai chiếc xe. Hóa ra chính là sắc Phu phái người bắt giữ lại để lấy lòng chủ mới của ông ta. Nhất định phải cảnh giác những người mang cái tốt đến với bạn. Khi bạn đang ở chức vụ, thì họ luôn luôn nịnh nọt bạn ; Khi bạn thất thế thì họ lại đem bạn đi làm lấy lòng người khác. Những người nịnh nọt lấy lòng, bất kể anh ta làm như thế nào vẫn không phải vì bạn tốt, mà là vì để bản thân anh ta tốt. Có một lần, Tào Tháo tiếp nhận hai hàng tướng của kẻ thù, đồng thời thông qua hai người này đã đánh bại kẻ thù. Sau thắng lợi, không những ông ta không khen thưởng họ, trái lại cho người giết chết họ. Người khác hỏi ông ta tại sao làm như vậy, Tào Tháo đã nói một câu rất sáng trí : "Hôm nay, họ làm phản lại chủ của mình, có một ngày nào đó cũng sẽ phản lại ta". Đối với kẻ tiểu nhân, chỉ có thể tạm thời lợi dụng, quyết không thể trọng dụng lâu dài. Giá trị của họ cũng giống như con dao mổ, sử dụng một lần thì phải vứt bỏ đi. Đây không phải là lãng phí, mà là một sự tiết kiệm lớn hơn.. Kĩ xảo "tri biến" yêu cầu chúng ta : phải luôn luôn chú ý những người lúc bình thường thường nịnh bạn. Khi bạn thất thế, họ rất có thể trở thành người đào mồ chôn bạn. Trung Quốc đương đại đã từng xảy ra một việc làm cho nhiều người Trung Quốc và các nhà chính trị không thể nào quên được : sự phản bội của Lâm Bưu đối với Mao Trạch Đông. Người bình thường từ việc đó nhìn thấy sự hiểm trá của lòng người, nhận thức của nhà chính trị lại không đơn giản như thế. Cái mà họ thu nhận được là bài học chứ không phải là lời ta thán. Họ sẽ phải luôn chú ý những người bên cạnh mình, xem thử họ phải chăng có thể phản bội mình. Một hậu quả tồi tệ mà cuộc đại cách mạng văn hóa mang lại cho người Trung quốc chính là : người ta biết được điều vong ân bội nghĩa. Nhiều bà vợ đã phản bội lại chồng mình ; nhiều người thế hệ sau đã tố giác lớp người cha ông của mình; nhiều người đá bán rẻ bạn bè của mình. Vì vậy, bất kể là ai, bạn đều phải chăm chú khảo sát những người bên cạnh bạn. Câu chuyện dưới đây chính là thuyết minh : Hiểu biết người khác làm cho mình tránh được tai họa. Phạm Tuy vốn là người nước Ngụy. Vì bị Đại phu là Tu Giả bức hại, phải trốn tránh trong dân gian. Đối tên là Trương Lục. Lúc đó, Tần Chiêu vương cử Vương Kê đi sứ sang nước Ngụy, nghe nói Phạm Tuy rất có tài, bèn bí mật dùng xe chở ông về nuớc Tần. Vừa đi vào đất Tần thì nhìn thấy ỏ phía xa có một đoàn người ngựa. Phạm Tuy hỏi Vương Kê : "Người đang đến, đó là ai ?" Vương Kê phán đoán một lát rồi nói : "Đó là Tướng quốc Nhương Hầu của chúng tôi đi đến phía Đông tuần du các quận huyện". Phạm Tuy nói : "Tôi nghe nói Nhương Hầu vượt quyền Tần Chính, rất ghét chiêu nạp bầy tôi các nước chư hầu làm "khách khanh’’. Hôm nay nếu như bị gặp, e rằng có thể gặp phải ô nhục. Hãy để cho tôi ẩn nấp vào trong xe !". Khi Nhương Hầu dẫn đoàn người ngựa đi tái, uý lạo Vương Kê vài lời xong, liền hỏi : "Trên xe có chở bầy tôi của chư hầu không ?” Vương Kê nói : "Tôi làm sao dám chở ? Nhương Hầu không hòi gì thêm, dẫn quân đi. Thấy Nhương Hầu đã đi khỏi, Phạm Tuy vội vàng từ trong xe chui ra nói : "Nhương Hầu, con người này rất thông minh chỉ có là gặp việc phản ứng hơi chậm một chút. Vừa rồi, ông ta vừa nghi ngờ trên xe có người, nhưng lại không lục soát, một lát sau nhất định sẽ hỏi lại, tất nhiên sẽ cử rgười quay lại để lục soát lại !”. Thế là, ông ta liền xuống xe đi bộ, đã đi được vài dặm đường để trốn. Nhương Hầu quả nhiên đã phái một đoàn quân mã lại đế lục soát, cho mãi tới khi tin là không có người trên xe mới chịu đi khỏi. Phạm Tuy có thể thoát thân, là vì ông ta hiểu rõ cách đối xử của Nhương Hầu : tức là cái mà ông ta ghét nhất. Cái mà người ta đã kích, thường thường là cái mà anh ta ghét nhất. Biết được cái mà anh ta ghét nhất thì bạn có thể trốn tránh được, không cho anh ta cơ hội để ghét bạn. Cách nhìn hai mặt của âm dương Các nhà hiền triết xưa cho rằng : Âm và Dương không phải là cố định không biến đối. Dương có thể biến thành âm, mà âm có thể biến thành dương. Trong âm có dương, trong dương có âm. Loại trí tuệ này được các nhà hiền triết xưa phát huy trong tất cả mọi việc. Người tài đức, thông minh trước khi làm việc, đều phải dự kiến trước một cách đầy đủ. Nếu như đầy thì phải nghĩ đến tràn ra ; nếu như bình yên thì phải nghi đến nguy hiếm; nếu như yên ổn thì phải nghĩ đến nguy nan ; nếu như khúc khuỷu thì phải nghĩ đến thẳng thiu. Cứ như vậy suy nghĩ ra tất cả mọi tình huống, đề phòng qua loa. Có thể làm được điều này, thế thì dù làm bất cứ việc gì đều không thể thất bại được. Từ lúc vừa bắt đầu đã phải nghĩ ngay đến sự vật có thể chuyển hóa về phía trái ngược, đồng thời đưa ra đối sách xác định. Về chiến lược việc này gọi là đi trước một nước. Đề phòng tai họa cũng cần loại trí tuệ này. Phải trước khi tai họa chưa xảy ra đã dự kiến đến, đồng thời có thể đưa ra đối sách tương ứng hoặc để tránh hoặc để làm cho tai họa giảm đến mức thấp nhất. Mã Siêu là một mãnh tướng của Tây Lương để báo thù cho cha, đã dấy binh tấn công Tào Tháo, quân hai bên đã quyết chiến ở Đồng Quan. Trận đánh đầu tiên Mã Siêu đã đánh Tào Tháo thua to. Xét bề ngoài Mã Siêu tăng quân đối với Tào Tháo rất bất lợi, nhất là trong tình huống trong đánh nhau lần đầu đã thất lợi. Nhưng Tào Tháo là một nhà quân sự lão luyện, ông đã từ trong cục diện bất lợi phát hiện ra nhân tố có lợi. Đầu tiên, quân Tây Lương vượt qua một chặng đường dài, đã phạm vào điều kiêng kị của nhà binh ; Thứ hai là quân Tây Lương nhiều, nhưng là đội quân hỗn tạp từ khắp nơi điều đến, tâm trạng quân lính không như nhau, không thể thống nhất tập trung tác chiến ; Thứ ba là quân Tây Lương đông như thế, nhưng lại không có một người chỉ huy có đầu óc mưu lược. Mã Siêu tuy dũng cảm, nhưng lại không hiểu chiến lược. Cuộc chiến tranh to lớn như thế lại do một "dũng phu" chi huy kháng cự với Tào Tháo tính toán mưu kế sâu xa, chắc chắn sẽ phải thất bại. Tào Tháo đã nhận ra những nhân tố có lợi này, chuyên tâm suy tính mưu kế, trước tiên tránh nhuệ khí của nó không ra giao chiến ngay, dùng tĩnh để khống chế động, trong thế cầm cự, đột nhiên thay đổi cục diện địch hơn ta kém. Sau đó lợi dụng nhược điểm quân địch người đông nhưng lòng dạ không giống nhau, đã lợi dụng thành công kế phản gián, giành được thắng lợi cuối cùng. Mã Siêu cũng suýt nữa thì mất mạng. Để giành được thắng lợi cuối cùng, Mã Siêu đã liên tiếp không ngừng từ Tây Lương điều binh khiển tướng tạo nên thế diệt Tào to lớn. Các tướng sĩ trong doanh trại Tào trông thấy quân Tây Lương ùn ùn kéo tới trong lòng mọi người đều hoảng loạn. Nhưng Tào Tháo lại rất vui sướng. Mỗi khi nghe tin giặc thêm quân thì lộ rõ vui mừng trên nét mặt, thậm chí còn bày ra yến tiệc trong trướng chúc mừng. Những người thuộc hạ đều không rõ nguồn vui của Tào Tháo từ đâu đến. Mãi tới sau khi Đồng Quan đại thắng, Tào Tháo mới lộ ra chân tướng của sự việc. Tào Tháo giải thích : "Quan Trung ở nơi xa xôi, nếu bọn giặc cứ chiếm đóng ở các nơi hiểm yếu, để dẹp được ít nhất phải mất một hai năm mới thu phục được ; Nay lại từ các nơi khác kéo đến, quân họ tuy đông nhưng lòng người bất nhất, rất dễ lí gián, chỉ cần đánh một lần là tiêu diệt được : Ta vì thế mà vui ! Mọi quân tướng nghe xong đều tâm phục khẩu phục, ca ngợi mãi không thôi. Sự phân tích của Tào Tháo chính là dựa trên cách nhìn hai mặt của âm dương đế xử lí biến đối địch ta. Lại còn một chuyện nữa cũng thuyết minh vấn đề này : Sở Trang vương một mực muốn đánh chiếm nước Trần, bèn trước tiên sai người đi trinh sát tình hình của nước Trần. Người đi trinh sát trở về báo cáo : "Nước Trần tường cao hào sâu, phòng vệ nghiêm ngặt, mà còn dự trữ dồi dào". Xét từ nguồn tình báo này, nước Sở không thể phát động tấn công được. Nhưng Sở vương lại không nhìn như thế. Ông đoán rằng : "Nước Trần có thể đánh được !". Tiếp đó, ông giải thích : "Nước Trần có dấu hiệu mất nước. Một nước nhỏ như nước Trần, lại dự trữ quân nhu dồi dào như thế thì quân nhu dồi dào đành phải lấy từ thuế má nặng nề. Thuế má nặng nề tất nhiên sẽ gây nên nỗi oán hờn của dân chúng. Một nước nhỏ như vậy, mà tường cao hào sâu tất nhiên sẽ sử dụng quá mức công sức của dân, dân chúng nhất định đã quá mỏi mệt rồi”. Do đó, nước Sở phát động cuộc tấn công, chẳng bao lâu đã đánh bại nước Trần. Hai chuyện này đều thuyết minh một tư tưởng : không nên bị hiện tượng bề ngoài bưng bít, phải xem xét từ hai mặt của âm dương. Hơn nữa, phương pháp này đối với dự kiến lâu dài có thể phát huy tác dụng hơn đối với dự kiến ngắn hạn. Liệt Tử vô cùng cảm kích, nhưng không nhận lương thực Tử Dương đem đến. Đợi người mà Tử Dương phái đến đi khỏi, vợ Liệt Tử mới báo oán chồng mình, nói : "Tôi nghe nói người có Đạo, vợ của ông ta cùng cùng với ông ta sống những ngày sung sướng. Hiện nay tôi lại đang cùng ông sắp chết đói đến nơi rồi, người ta tốt lòng tốt ý tặng ông lương thực, thì ông lại đẩy ra khỏi cửa, chẳng lẽ ông đang muốn làm tôi chết đói phải không ? Liệt Tử nói : "Tử Dương không phải là bạn thân ông ta không hiểu tính nết của tôi, mà là nghe lời người khác mới bố thí cho tôi. Hôm nay ông ta mượn miệng của người khác cho tôi ăn, mai đây cũng có thể mượn miệng của người khác trị tội tôi. Đó chính là lí do tôi không tiếp nhận lương thực của ông ta". Những lợi ích mà người khác cho bạn, hoặc những ấn tượng đối với bạn đã quyết định hình ảnh của bạn ở trong lòng của anh ta. Nhưng hình ảnh này từ đâu đến là vô cùng quan trọng. Nói chung, những việc tự mình từng trải qua sẽ tin tưởng sâu sắc mà không nghi ngờ; còn những việc chi nghe nguời khác nói thì sẽ bán tín bán nghi. Cho nên, bạn cần phải nhận rõ nguồn gốc của hai hình tượng tính chất khác nhau này. Nhất thiết không nên cho rằng đấy là cùng một việc. Bạn chưa từng cùng làm việc với anh ta, bạn sẽ không thể thật sự được tín nhiệm của anh ta. Cho dù anh ta cho bạn nhiều lợi ích, nhưng đây đều không phải là thật lòng. Giá như có một ngày nào đó, anh ta cho rằng bạn là sự uy hiếp của anh ta, thì anh ta sẽ không một chút luyến tiếc khử bạn đi, cũng giống anh ta đã từng khẳng khái cho bạn những đồ vật kia. Hồi ây Khổng Minh đã hai lần thoái thác lời thỉnh cầu của Lưu Bị, mục đích là muốn thử thách lại lòng thành của Lưu Bị đối với mình ra sao. Nói cách khác, ông ta chiếm được địa vị ra sao trong lòng Lưu Bị. Có một số người trong đầu óc của người nào đó chỉ là một cái bóng, mà có một số người trong đầu óc của ông ta lại là một thân tượng có ấn tượng sâu sắc. Ví dụ nói, nhiều người đều có sự từng trải đã từng yêu mấy lần. Thế thì xin hỏi bản thân bạn hình ảnh khó quên nhất trong lòng bạn liệu được mấy người ? Người mà khó quên nhất, thường là người bạn yêu sâu sắc nhất. Nhất định phải biết ấn tượng chân thực nhất của bạn trong lòng đối phương là cái gì ? Năm ấy, Tướng quốc của người Ngụy là Công Thúc Toạ bị ốm nặng, không lâu sẽ có thể chết. Ông nói với Ngụy vương : "Công Tôn Ưởng tuổi còn rất trẻ, nhưng lại có kì tài. Sau khi tôi mất, mong Quốc vương đem chính sự của quốc gia giao cho ông ta quản lý, Nếu như Quốc vương không muốn trọng dụng ông ta thì tốt hơn hết nên giết chết ông ta đi, xin đừng để ông ta chạy sang nước khác, thế thì sẽ bất lợi rất nhiều cho đất nước chúng ta". Huệ vương không tỏ thái độ dứt khoát, chí nói : "Được, sẽ làm theo lời ông". Sau khi Ngụy Huệ vương đi khỏi, Công Thúc Tọa liền vội vàng cho gọi Công Tôn Ưởng đến, tạ tội nói : "Tín điều làm việc của tôi trước hết là vua, sau đến bạn bè. Cho nên trước hết tôi vạch mưu kế cho vua, sau đó mới đem lời chân tình nói với ông. Mong ông có thể hiểu cho tôi. Bây giờ, ông phải nhanh chóng chạy trốn đi, bằng không thì ông sẽ mất mạng mất”. Công Tôn Ưởng trả lời lại với vẻ thờ ơ : "Giá như Quốc vương không thể nghe lời khuyên của ông trọng dụng tôi, lại làm sao có thể nghe lời ông giết tôi được ?" Kết quả là ông ta không rời khỏi nước Ngụy, vừa không được trọng dụng, cũng không bị giết chết. Về sau Tần Hiếu công cầu hiền, Công Tôn Ưởng đã đến nước Tần, đã làm nên một loạt sự nghiệp lớn. Ông chính là Thương Ưởng. Thương Ưởng đã đưa ra quyết sách lưu lại về sau chính là căn cứ vào nguyên lí của ấn tượng đưa ra phán đoán. Ấn tượng của ông trong lòng Ngụy vương rất mờ nhạt, vừa không có ấn tượng tốt, cũng không có ấn tượng không tốt, không có ấn tượng tốt cho nên ông ta không thể được trọng dụng ; không có ấn tượng không tốt, cho nên ông ta không thể bị giết chết. Khi bạn ở một đơn vị nào đó hoặc cộng sự với một người nào đó, bạn nhất định phải biết ấn tượng chân thực của bạn ở trong lòng anh ta. Như vậy, bạn có thể biết bạn nên làm như thế nào. Tương tự, nếu như bạn muốn có được ấn tượng tốt đẹp của một người, trước khi bạn chưa cộng sự thật sự với anh ta, biện pháp tốt nhất là tìm người nói những điều tốt đẹp của bạn trước mặt anh ta để bù vào những chỗ trống vắng của bạn trong đầu anh ta. Một tờ giấy trắng khi còn trống không, bạn có thể viết lên cái gì đều được. Nhưng đã viết lên cái gì rồi thì không để dàng sửa lại. Đây chính là một cơ hội. Trên một mảnh đất hoang, bạn gieo xuống hạt giống gì thì sẽ mọc lên sức sống đó đơm hoa kết trái. Hãy lưu ý tới từng việc bên mình Gia Cát Lượng rất giỏi quan sát người khác. Một lần, có một người khách lạ đến chỗ Lưu Bị, hai người bàn tán rất cởi mở. Lúc này, Gia Cát Lượng bỗng nhiên xông vào, người khách kia rất hoang mang, liền đứng dậy nói tôi muốn đi đến chỗ vệ sinh. Lưu Bị đợi sau khi ông ta đi ra chỗ vệ sinh liền khoe người này rất có tài học. Gia Cát Lượng lại nói : "Tôi xem người này diễn đạt tình cảm lơ mơ không rõ ràng, lại hiện ra vẻ hỏang hốt trong lòng, không dám ngước mắt lên nhìn tôi, khi đi còn ngoái đầu lại vài ba lần nhìn tôi, đây là vẻ gian lộ ra bên ngoài, ẩn chứa tà tâm ở bên trong, chắc chắn là thích khách của Tào Tháo phái đến. Nói xong, liền cho người đi bắt, quả nhiên người đó đã trốn thoát. Gia Cát Lượng từ dáng vẻ bề ngoài và hành động đã khám phá ra bộ mặt thật của con người này, làm cho Lưu Bị tránh được một lần sự kiện bị ám sát xảy ra. Đây là một kĩ xảo "tri biến’’ ngoài "bát trưng pháp”. Dưới đây chúng tôi lại muốn thông qua một câu chuyện để mọi người tự lĩnh hội lấy kĩ xảo lưu ý. Tướng quốc của nước Trịnh là Tử Sản, một buổi sáng đi làm việc, xe đi qua nha môn của Đông Tượng, nghe thấy tiếng khóc thất thanh của một người đàn bà. Tử Sản trước tiên vịn vào tay của người đánh xe nghiêng tai lắng nghe, cảm thấy có điều gì là lạ. Ông bèn bảo những người thủ hạ gọi người đàn bà kia lại xét hỏi. Qua xét hỏi, nguời đán bà kia thú nhận tội của bà ta là đã treo cổ chồng mình. Về sau, người đánh xe hỏi Tướng quốc : "Ngài làm thế nào mà có thể nghe được người đàn bàn kia là hung thủ giết người ?" Tử Sản nói : "Phần nhiều người ta đối với người thân khi mới vừa mắc bệnh thì cảm thấy lo lắng, khi sắp chết thì rất hoảng sợ, khi đã chết thì vô cùng đau buồn. Người đàn bà kia khóc người đã chết, không đau buồn mà lại hoảng sợ, cho nên ta đoán chắc là trong đó có gian tình". Việc phán đoán chuẩn xác thực sự bắt nguồn từ việc lưu ý quan sát đối với cuôc sống. Nhiều người đều đã từng trải qua những việc người thân bị đau ốm và tạ thế. Nhưng rất ít lưu tâm đến sự biến đối tâm lí của mình với người thân. Cho mãi sau khi nghe Tử Sản phân tích mới bỗng nhiên tĩnh ngộ. Vốn là như thế. Cần nghiên cứu tỉ mi đối với "Vốn là như thế", bạn có thể sẽ có một bản lĩnh phi thường. Ví dụ, bây giờ chúng tôi làm một thử nghiệm, kiểm tra những bạn đọc của chúng tôi thích đọc sách và đã từng đọc rất nhiều sách xem xem việc tìm hiểu của họ đối với sách như thế nào. Xin bạn bạn đọc của chúng tôi, hãy chuẩn bị một cái thiếp kẹp sách, đem nó kẹp vào giữa trang 99 và 100 của quyển sách này, sau đó, ngày mai lại rút ra kẹp vào giữa hai trang 199 - 200. Xem đến đây, bạn sẽ như thế nào ? Bạn có thật sự có thể tìm được một chiếc thiếp kẹp sách, sau đó đem nó theo yêu cầu kẹp vào trong sách được không ? Nếu như bạn thật sự làm được như thế, thì bạn đã nhầm rồi. Bởi vì trong quyến sách này của chúng tôi giữa trang thứ 99 và 100 căn bản không có cách nào có thể kẹp thiếp đó vào trong sách được. May thay, bạn có được kinh nghiệm này thì không thể ngày hôm sau lại làm một việc ngu xuẩn nửa. Bởi vì trang thứ 199 và 200, tương tự cũng không thể kẹp chiếc thiếp kẹp sách này vào được. Giả thiết bạn việc gì cũng không làm, bạn biết làm như thế là không có khả năng, biểu thị rõ bạn rất hiểu cách xếp số trang của sách. Bạn hãy lưu tâm những sách bạn thường đọc. Cho nên nói, hãy lưu tâm đến mọi việc ở bên mình, thì có thế tránh được bị mắc lừa, tránh được một số tai họa phát sinh. Giả thiết bạn đang ngậm điếu thuốc là đi vào trong nhà chứa đầy khí ga, bạn nên làm như thế nào. Vội vội vàng vàng chạy vào nhà chăng ? Tôi thấy, bạn có thể muốn tự mình nhen lên đốm lửa tự nổ cho mình. Nếu là bạn có kinh nghiêm, bạn nên lui ra ngoài, đem tắt thuốc là đi đã, rồi sẽ mở toang cửa số bếp ra. Chờ một lát, bạn mới đi vào khoá van khí ga lại. Những việc này đều là việc nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, nhưng hàng năm những việc nhỏ như thế này luôn có rất nhiều, rất nhiều. Bạn chớ nên đợi đến khi nằm trên bàn mổ mới tổng kết lại những bài học xương máu. Bây giờ hãy nghe lời khuyên của chúng tôi : Hãy lưu ý đến từng việc nhỏ xung quanh mình. Khi bạn phát hiện có một chút gì đó là lạ, bạn phải nên đề cao cảnh giác. Hãy kiềm chế sự bành trướng lòng hám danh lợi Danh lợi là kết qua của loài người phát triển đến giai đoạn lịch sử đặc biệt. Danh lợi trở thành chủ đề của đời sống cá nhân của giai đoạn này. Cho nên, việc may, việc rủi ro trong đời sống cá nhân cũng đều sản sinh ra từ đây. Việc rủi ro cũng giống như việc may có thể rơi xuống đầu bạn bất cứ lúc nào. Để tránh việc rủi ro, sẽ phải thích đáng hạn chế ham muốn danh lợi của mình. Bắc Hải vương Lưu Mục thời Đông Hán rất thích đọc sách, cũng rất chiêu hiên đãi sĩ, rất được Quang Vũ đế và Hán Minh đế yêu thích. Khi đó, Tây Vực giao hảo với vương triều Đông Hán, Thiện Thiện vương đưa con trai của mình đến Lạc Dương làm con tin. Theo quy định, Bắc Hải vương phải cử Trung Đại phu đến kinh sư đế chúc mừng. Khi Trung Đại phu sắp sửa đi, Lưu Mục gọi ông ta đến trước mặt hỏi : "Nếu Hoàng thượng hỏi đến tôi thì ông sé nói như thế nào ?" "Đại vương trung thuận hiếu đễ, nhân từ lương thiện, kính trọng người hiền, thần đâu dám không nói sự thực ?". "Không”. Lưu Mục liền phản bác lại nói : "Ông nói như vậy tôi sẽ rất nguy hiểm. Đó chỉ là việc mưu cầu tiến thủ khi tôi còn nhỏ thôi. Nếu như ông có tính liệu cho tôi, chỉ nên nói tôi từ khi kế cấp vương vị đến nay, ý chí suy thoái, tiêu khiển với tiếng hát ca ngâm, vui chơi với chó ngựa. Như vậy tôi mới có thể tránh khỏi họa hoạn”. Tại sao Lưu Mục làm như thế ? Ông đã sớm nhìn thấu sự việc trong cung đình. Con em Hoàng gia khi được phong vương, càng là không có uy tín thì Hoàng đế càng an tâm ; uy tín công cao thì uy hiếp đối với Hoàng đế cũng càng lớn, Hoàng đế cũng càng có lòng đề phòng hơn. Cho nên, có khi hiếu danh đối với mình không nhất định là có lợi, đành phải giấu danh đế tìm được an toàn. Đại cách mạng văn hóa là đế làm thay đổi tư tưởng phong kiến, phi xã hội chủ nghĩa trong đầu óc người Trung Quốc đương thời nên tiến hành một phong trào hình thái ý thức. Nhưng’ biểu hiện của phong trào lại là một cuộc đấu tranh giành quyền của tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Trong một cuộc đấu tranh như thế, rất khó nói ai giành được quyền lực, cũng không thể dự tính được ai mất quyền lực. Bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng đều là phúc họa pha trộn mỗi thứ một nửa. Thế là, nhiều người đều đang hành động, đều đang bận rộn, đều đang thi thố thuật quyền mưu. Một lớp người mà Lưu Thiểu Kì, Đào Chú, Đặng Tiểu Bình là đại biểu bị đoạt mất quyên lực chính trị. Còn Giang Thanh, Lâm Bưu v.v giành được quyền lực mới lớn hơn. Trong cuộc đấu tranh song phương, bên này bên kia đều chịu tổn hại ở mức độ khác nhau. Tổn hại này đôi khi là trước mắt, trực tiếp, có một số lại là về sau này, gián tiếp. Trong cuộc cách mạng này, chỉ có hai người thật sự giành được thắng lợi. Một là Mao Trạch Đông, người thứ hai chính là Chu Ân Lai. Mao Trạch Đông là người điều khiển của đại cách mang văn hóa. "Mao Trạch Đông dựa vào Chu Ân Lai và liên minh lớn mạnh do Lâm Bưu xây dựng đại biểu cho quân đội, đã đoạt lại quyền lãnh đạo của ông từ trông tay Lưu Thiếu Kì". (Trích sách "Truyện. Chu Ân Lai", nhà xuất ban Quân Giải Phóng)Chu Ân Lai là một trong mấy người ít ỏi không bị cướp quyền trong Đại cách mạng văn hóa. Ông sở dĩ ngồi trong thuyền chao đảo trong phong ba mà không bị lật là ở chỗ ông đã sáng suốt che đậy thanh danh của mình đến mức độ thấp nhất. Ông đem việc này lưu lại cho những người muốn vớt vát chút vốn liếng chính trị như Lâm Bưu và Giang Thanh. Nghe nói "Đương thời một tổ chức liên hợp của các phái Hồng vệ binh Quảng Đông (liên hợp này của họ là do Chu Ân Lai xúc tiến thành công) đã tổ chức đại hội chào mừng tổ chức này thành lập một năm đế chào mừng chuyến đi Quảng Đông của Chu Ân Lai một năm trước đây. Ông đã lập tức đánh điện báo đi nói ông chỉ là căn cứ chỉ thị của Mao Chủ tịch làm được một chút công việc, trong đại hội có "một bộ phận người" mượn cách làm kỉ niệm thành lập tròn một năm "nêu bật tên của tôi" là đã phạm một sai lầm lớn..." Đây là đi trái ngược với tinh thần của đại cách mạng văn hóa tôi kiên quyết phản đối cách làm này" ("Truyện Chu Ân Lai") Cách làm của Chu Ân Lai bị Nixson về sau thăm Trung Quốc ví là : "Ông' ta vẫn luôn cẩn thận kín kẽ nhường ánh đèn chiếu trên vũ đài chiếu lên người Mao Trạch Đông". Từ thời Đại cách mạng văn hóa cho măi đẻn lúc tạ thế, khi xuất hiện ớ các trường hợp công khai, Chu Ân Lai đều mặc một bộ y phục bằng len may rất đẹp và công phu, trên cài một huy hiệu màu đỏ không lớn, trên chiếc huy hiệu ngoài tượng Mao Chủ tịch ra, còn có một câu mà trong cách mạng văn hóa rất thịnh hành, cùng là khẩu hiệu mà ông thích nhất, đó là : Vì nhân dân phục vụ. Trên những chi tiết về cuộc sống này, Chu Ân Lai rất đặc biệt chú ý, làm cho ông giành được tín nhiệm của Mao Trạch Đông. Nhất là sau khi Lâm Bưu chết, Mao Trạch Đông hầu như đem toàn bộ Trung Quốc giao cho ông quản lý. Do phẩm đức của ông và sự cống hiến đối với Trung Quốc, thậm chí sau khi ông tạ thế, nhân dân Trung Quốc vẫn còn tưởng nhớ ông sâu sắc. So sánh với Giang Thanh, Lâm Bưu đắc thế điên cuông thời cách mạng văn hóa, Chu Ân Lai là một người thắng lợi vĩ đại, thậm chí ý nghĩa thắng lợi này cao hơn thắng lợi mà Mao Trạch Đông giành được. Đôi khi, phương pháp giành được danh lợi to lớn hơn không ở chỗ ra sức theo đuối đối với danh lợi, mà là ở chỗ hạn chế hữu hiệu đối với nó. "Âm ở trong Dương, không ở nơi đối lập với dương. Thái dương (Mặt trời), Thái âm (Mặt trăng)" Phép khai thông thuận thế Trong quân Lục Lâm, quân lính Thung Lăng do anh em họ Lưu cầm đầu có chiến công hiển hách. Thế là mọi việc rủi ro liền lặng lẽ rơi xuống đầu hai người anh em này. Canh Thủy đế đã sinh ra nghi kị đối với anh em họ Lưu, sợ sau khi đánh bại Vương Mãng, mình không đạt được ngôi Hoàng đế. Năm 23 dương lịch, Lưu Tú dùng binh lực 9000 người cùng với thủ lĩnh quân Lục Lâm là Vương Thường và Vương Phượng đã đánh bại 40 vạn quản của Vương Mãng tại Côn Dương. Đại chiến Côn Dương đã làm cho sự uy hiếp của Vương Mãng đối với chính quyền Canh Thủy đã bị loại bỏ. Lưu Tú lại dẫn quân đánh xuống Dĩnh Dương. Tin vui thắng lợi dồn dập truyền tới Canh Thủy đế, mà nó đáp lại cho Lưu Tú lại là một tờ cáo phó : anh trai của Lưu Tú bị Canh Thủy đế giết chết tại Uyển thành. Người bị giết lần sau, chẳng nghi ngờ gì nữa phải là Lưu Tú rồi. Canh Thủy đế và những người tay chân xung quanh ông đều đang chú ý tối Lưu Tú, chờ đợi thời cơ giết chết.. Lưu Tú vừa mới xuất hiện đã lâm vào nguy hiểm có thể bị giết chết bất cứ lúc nào. Lúc này, ông ta vô cùng bình tĩnh liền vội vàng đến Uyển thành đế tạ tội với Canh Thủy đế. Những người tay chân của anh lũ lượt kéo đến chỗ ở của Lưu Tú để chia buồn với thủ lĩnh đã mất. Trong trò chuyện, Lưu Tú không hề lộ ra tư tình của mình, nhiều lần bày tỏ tội lỗi của mình. Ông ta cũng không để tang phục cho anh, ăn uống, nói cười như lúc bình thường. Cách biểu diễn này của Lưu Tú đã loại bỏ được nỗi nghi ngờ của Canh Thủy đế và mọi người, thậm chí còn làm cho bản thân Canh Thủy đế cũng cảm thấy có một số điều có lỗi với ông ta. Ông ta bèn phong Lưu Tú làm phá Lỗ đại tướng quân và Vũ Tín hầu. Hoạ sát mình đã tránh được như vậy. Ba tháng sau, ông ta lấy tư cách làm phá Lỗ đại tướng quân thực hành quyền lực Đại Tư mã đến Hà Bắc. Thu nạp nhân tài, "chiêu binh mãi mã" đã bắt đầu sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc. Khi họa lớn đến, điều quan trọng đầu tiên là bình tĩnh. Bình tĩnh mới có thể nghĩ ra được kế bảo vệ mình. Kĩ xáo của ứng biến còn ở chỗ tránh họa trước khi họa đến. Trước khi đối thủ còn chưa kịp ra tay, đã nghĩ ra được phương pháp làm thay đổi mục đích của anh ta. Những người đánh cờ vây đều hiểu được câu ngôn ngữ trong nghề : thà nhường ba quân, con hơn nhường một quân vượt trước. Đi quân cờ lên trước là phương pháp đánh cờ của các kì thủ ở thế phải đi. Khi bạn rơi vào thế bị động, bạn sẽ phải tranh thủ chủ động. Giành chủ động có đủ mọi kĩ xảo, trong đó có một kĩ xảo là thuận đà đấy nó theo chiều phát triển tốt. Canh Thủy đế muốn giết chết Lưu Tú, Lưu Tú bất lực chống đối, liền dùng biện pháp phục theo, không làm cho cơ hội giết của đối thủ bộc lộ ra được. Trong những năm nạn Hồng thủy lan tràn, ông Cổn đã từng được đưa đến để trị thủy. Theo nguyên lí Thổ có thể khắc Thủy đã đắp lên đê đất ở hai bên bờ sông Hoàng Hà. Nhưng thế của nước lũ mạnh dữ, những con đê đất không ngăn cản nổi. Nước lũ lụt lại tạo ra tai họa một lần nữa. Ông Cổn đã thất bại, ông đã bị giết chết. Con trai ông là Vũ lại bị cử đến để trị thủy. Vũ tiếp nhận bài học của cha, không dùng phương pháp cũ nữa. Ông ra lệnh cho những người thuộc hạ đã đào nhiều kênh rạch ở hai bên bờ sông Hoàng Hà, sau đó lại đem dẫn nước sông vào, như thế thế nước được hòa hoãn. Liền trong nhiêu năm, nước sông đều không tràn ngập. Thời đại thơ ấu của nhân loại, không có năng lực đủ sức chống chọi với thiên nhiên. Cho mãi tới ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển cao mà chúng ta vẫn chưa thể nói một cách tự tin : con người nhất định thắng thiên nhiên. Thắng không nói, không có nghĩa là không thắng. Các tai họa từ thiên nhiên đến của những năm gần đây cũng chưa thể làm cho nhân loại diệt vong. Nghiên cứu nguyên nhân của nó, điều quan trọng nhất trong đó chính là nhân loại thuận ứng với thiên nhiên, mà không phải là làm trái với thiên nhiên. Ông Vũ đã làm thay đổi cách làm quật cường thơ ngây của cha ông, dùng phương pháp khai thông, đã làm yếu thế cuộn trào dữ dội của nước lũ lụt. Ông không thắng nổi nước lũ lụt, nhưng ông lại làm cho nước lũ lụt cũng không thắng nổi mình. Việc này bất kể là nói ở thuở ấy, thậm chí nói ở hiện tại cũng là một thắng lợi không nhỏ. Mục đích thuật phòng họa ở chỗ không vì thắng mà bị mê muội. Lừa dối qua ải Trong cơn tai nạn đó chỉ có một mình Ngũ Tử Tư là chạy trốn thoát. Đầu tiên ông trốn sang nước Tống, lại gặp được Thái tử Kiến cũng chạy để thoát thân. Hai người lại cùng chạy trốn sang nước Trịnh. Thái tử Kiến mưu đồ mượn lực lượng của nước Tấn đế cướp vương vị của nước Trịnh, cuối cùng bị giết chết. Ngũ Tử Tư đành dẫn con trai của Thái tử Kiến là Công tử Thắng trốn khỏi nước Trịnh Họ chuẩn bị chạy trốn sang nước Ngô. Nhưng phải đi qua ải Chiêu quan mới có thể đến đường thủy thông đến nước Ngô. Ải Chiêu quan nằm giữa hai ngọn núi, địa thế hiểm yếu. Nước Sở phái trọng binh canh giữ chủ yếu truy soát Ngũ Tử Tư. Ngu Tử Tư và Công tử Thắng ẩn trốn tại nhà Đông Cao Công, đợi chờ cơ hội qua cửa ải. Nhưng trên cửa ải treo bức tranh hình Ngũ Tử Tư, việc qua ải thực tế là rất nguy hiểm. Ngũ Tử Tư lo lắng suốt đêm không ngủ được, kết quả là sáng hôm sau vừa nhìn thấy đầu tóc đã bạc trắng ra hết. Đông Cao Công vừa nhìn thấy vô cùng vui vẻ, nói ''Việc này có thể đã có cách qua ải rồi". Ông tìm đến một người bạn của mình tên là Hoàng Phủ Nạp - Hoàng Phủ Nạp lớn lên rất giống Ngũ Tử Tư. Đông Cao Công bèn trang điểm cho cả hai người một hồi, Hoàng Phủ Nạp ăn mặc thành Ngũ Tử Tư, còn Ngũ Tử Tư thì đóng vai người hầu. Một toán người xuất phát từ lúc hoàng hôn đến tảng sáng thì vừa tới ải Chiêu quan. Quản sĩ canh giữ ải thoáng đã nhận ra Ngũ Tử Tư do Hoàng Phủ Nạp đống. Hoàng Phủ Nạp bị tóm ngay, truy soát rồi thả ra, Ngũ Tử Tư và Công tử Thắng cấp cơ lẫn lộn vào và ra khỏi ải. Đây chính là câu chuyện "Ngủ Tử Tư qua Chiêu quan, một đêm lo lắng tóc đầu bạc phơ". Ngũ Tử Tư đã trà trộn qua được cửa ải, đã tránh được một phen tai họa. Trong một trận chiến đấu, Chu Đức và bộ đội của ông bị đánh bại. Bọn địch bắt đầu vây bắt tàn binh khắp nơi. Đương nhiên, trước tiên họ nghĩ đến, chính là bắt Chu Đức. Chu Đức đã không còn đường đế chạy nữa, ông liền trốn vào một chùa nhỏ. Ở đó, ông đã tự hóa trang cho mình. Dùng tàn hương để trang điểm cho mình, chính lúc này thì bọn địch truy lùng đến. Tiện tay ông cầm chiếc làn tre đựng bánh bao đặt ở trên mặt đất lên. Chu Đức bèn đi ra khỏi cửa. "Này, ông giầ nấu bếp", bọn địch truy lùng gọi ông là một ông già nấu bếp. "Bên trong có người không ?" "Không, đến nhà sư cũng đều chạy cả. Bánh bao của tôi đều không có người ăn nữa". Chu Đức vừa nói vừa mở ngay mảnh vải đậy để cho họ nhìn những chiếc bánh bao để ở trông làn. Bánh bao còn đang xông lên hơi nóng. Bọn địch đương nhiên không tin những lời của ông già này, họ phải tìm cho ra Chu Đức, cuối cùng vẫn là đi vào trong chùa. Chu Đức đã xuống núi đi khỏi, không còn ai hỏi ông nữa. Về sau, Chu Đức đã khôi hài nói : "May mà có bộ râu này của tôi, bằng không thì tôi sẽ không đóng nổi vai ông già nấu bêp kia rồi”. Việc rủi ro, thật ra không phải là không thể tránh nổi. Lưu Tú và Chu Đức đều có thể nói như thế. Kĩ xảo quan trọng của thuật phòng họa là ở chỗ ngụy trang, kiểu ngụy trang này khác với ngụy trang của thời kì ẩn náu. Điều cần thiết là phái che giấu lâu dài mục đích của mình. Cái mà thuật phòng họa thường cần là phải nhanh trí. Cái nhanh trí này thường có hiệu quả ngay trong thời gian ngăn. Nó cũng chính là hiệu quả theo đuổi trước mắt. Dùng kĩ xảo này đế tránh họa, chủ yếu là ở chỗ "lừa dối" “lẫn lộn" vào. Lừa dối là ngụy trang, lẫn lộn vào là làm hỗn loạn. Không có ngụy trang không được, nhưng ngụy trang có lúc dễ bị khám phá ra, cho nên phải tạo nên một cục diện lẫn lộn. Bịa đặt ra một cảnh tượng giả để mọi người tin Để phòng ngừa họa hoạn xảy ra, ông đã dày công tửng bịa đặt ra hai chuyện. Một chuyện là "giết người trong mơ" mà chúng tôi đã kế ở phía trước, còn một chuyện nữa là sẻ kể ra ở dưới đây Một lần, Tào Tháo nói với người ta rằng : Nếu như có người muốn mưu hại tôi, thì trong lòng tôi sẽ run run lên. Đế chứng thực lòng ông ta run lên sẽ có thể biết trước có người muốn mưu hại ông ta. Ông ta gọi một thị vệ thân tín đến, nói với anh ta : "Anh dắt một con dao trong người lén lút đến bên mình ta, ta nói lòng ta đã run run lên, các thị vệ sẽ tóm giữ anh lại. Đến lúc anh thật thà nói muốn ám sát ta. Ta sẽ bảo đảm anh không thể xảy ra việc đó, hơn thế ta còn sẽ cho anh một khoản tiền lớn. Người thị vệ thân tín đã tin ngay. Thế là cứ theo việc Tào Tháo đã đạo diễn trước như thế, người thị vệ kia bị tóm lại và áp giải đến nơi hành hình với tội ám sát Thừa tướng, người thị vệ cũng chẳng nói điều gì, anh ta chuyên tâm chờ đợi Tào Tháo có thể theo lời hứa trước cứu giải cho anh ta. Cho mãi tới lúc đầu anh đã rơi xuống đất, anh ta vẫn không biết mình đã mắc vào tròng của Tào Tháo. Mọi người khác đều không biết chân tướng của sự việc, nên đều tin Tào Tháo có thể phát giác người khác hành thích mình. Về sau, những người muốn ám sát Tào Tháo, đều không dám manh động nữa. Bịa đặt ra trước một cảnh tượng giả để mọi người khác không dám dễ dàng đụng chạm đến bạn. Để cho người khác thấm thỏm, hồi hộp trong cảnh tượng giả đó, còn bạn thì lại được bình an thật sự. Khi bịa đặt ra cảnh tượng giả, chỉ có thể có hai người biết. Như tục ngữ nói : Trời biết, Đất biết, bạn biết, tôi biết. Làm như thế là để bảo đảm tính chân thực của cảnh tượng giả. Vì để làm cho mọi người tin đây là thực, Tào Tháo đã nhẫn tâm đem giết người thị vệ. Làm như vậy có thể hơi quá đáng một chút, nhưng hiệu quả mà nó mang lại lại rất tốt. Trần Thắng và Ngô Quảng muốn tổ chức 900 tân binh tạo phản, nhưng lại rất sợ tạo phản thất bại. Nếu như không có người tin tưởng họ, họ sẽ có thể bị bắt và đem giết. Hai người nông dân không cam chịu cuộc sống khốn cùng này, bèn lén lút tiến hành công việc chuẩn bị tỉ mỉ. Ngô Quảng lợi dụng cơ hội làm cơm, đem một dải lụa có viết chữ "Trần Thắng vương" nhét vào trong bụng cá tươi. Khi người đầu bếp làm thức ăn đã phát hiện ra dải lụa. Các tân binh rất kinh ngạc bàn tán xôn xao mãi về Trần Thắng. Trần Thắng là một người rất có hoài bão. Thời trẻ, ông đã từng làm tá điền cho nhà giàu. Một hôm, lúc nghỉ ngơi nói với bạn bè xung quanh : Từ nay về sau, chúng ta nếu ai phú quý lên, đều không nên quên nhau". Các bạn bè đều cười chế giễu ông ta, nói : "Hiện tại chúng ta đang làm thuê cho người ta, còn nói gì đến phú quý nữa ?" Trần Thắng nói một cách than vãn : "Chim yến tước làm sao có thể biết được chí của chim hồng !?" Một uy tín đang lặng lẽ phát sinh. Nhưng Trần Thầng cảm thấy còn chưa đủ sức, ông để cho Ngô Quảng nấp trong nghĩa địa cách nơi ở của tân binh không xa giả làm ma quỷ, miệng phun lửa, toàn thân xanh lè, miệng luôn la lên : "Trương Sở hưng, Trần Thắng vương !" Lần này, người tin càng nhiều hơn, Một hôm, Ngô Quảng cố ý chọc tức quan lại đội áp giải, bị bọn quan lại đánh đập tàn nhẫn. Nhiều người đều đến nói hộ, nhưng đều vô hiệu. Lúc đó, Trần Thắng đã anh dũng đứng lên giết chết tên quan lại đáng ghét kia, phanh ngực hô lớn "Vương hầu khanh tướng há phải có nòi chăng ?". Cuộc bạo động nông dân với quy mô lớn lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã nổ ra như thế đó. Mà còn dựng lên được chính quyền Trương Sở. Trần Thắng, cuối cùng đã thực hiện được nguyện vọng của ông : thành vương thành hầu, sóng cuộc đời phú quý. Việc bịa đặt cảnh tượng giả không phải chỉ có một kiểu. Nó có thể là một chuyện hoang đường, cũng có thể là một chuyện tưởng tượng hão huyền, cũng có thể là một chuyện thần thoại. Bất kể nó là gì đi nữa, nó đều phải làm cho người ta không nghi ngờ. Cảnh tượng giả của bạn một khi bị người ta vạch trần, thì việc rủi ro của bạn sẽ thật sự đến. Phòng họa khi chưa xảy ra Lưu Bị sau khi chiếm được Từ Châu, đã để Trương Phi ớ lại canh giữ, còn mình thì dẫn Quan Vũ đến đóng quân ở Tiểu Bái Một đêm, Lã Bố nhân Trương Phi say rượu, chỉ một trận đánh chiếm được Từ Châu. Từ đó, Lưu Bị và Lã Bố đều mang hận thù nhau, cùng đề phòng lẫn nhau. Lúc đó Tào Tháo gửi đến cho Lưu Bị một là thư, để Lưu Bị ở gần sẽ tiêu diệt Lã Bố. Không ngờ, lá thư này bị người tay chân của Lã Bố giành được. Lã Bố bèn đánh trước đế giành phần thắng, phát động tiến công về phía Lưu Bị. Lưu Bị đành phải cầu viện Tào Tháo. Tào Tháo tự dẫn đại quân đến đánh Lã Bố. Đại quân của Tào Tháo bao vây Lã Bố ở trong thành Hạ Phì. Đồng thời quyết định tháo nước sông Nghi và sông Tứ cho chảy vào trong thành. Các tướng lĩnh dưới quyền của Lã Bố không thể chịu nối sự ngang ngược của Lã Bố và sự diệt vong sắp ập đến, thế là bắt Lã Bố trói lại, từ trên mặt thành quăng xuống, hiến dâng cho Tào Tháo. Nhìn thấy Tào Tháo, Lã Bố định chạy trốn, liền cầu xin nói : "Trói chặt quá, xin hãy nới lỏng cho một chút,”. Tào Tháo cười nói: "Trói hổ không thể không trói chặt được". Một kế không thành, Là Bố lại tìm ra một kế khác, nói : "Điều ông lo, chính là lo tôi không nghe lời chỉ huy của ông. Hôm nay, tôi đã phục tùng ông, thiên hạ không còn gì phải lo nữa. Sau này, tôi sẽ phò tá ông bình định thiên hạ là việc không có gì khó nửa". Lần này Tào Tháo đã xiêu lòng. Lã Bố nói rất thành thực. Hiện nay chỉ có một Lã Bố, dũng không ai địch nổi không phục tùng ông, bây giờ đã đầu hàng. Lã Bố là một võ sĩ thiên hạ vô địch, lợi dụng ông la có thể giúp mình đánh chiếm thiên hạ. Nhưng Lưu Bị đứng ở bên cạnh nói một câu "Chẳng lẽ ông đã quên Đinh Kiến Dương và Đổng Thái sư rồi chăng ?" Tào Tháo đã tinh ngộ, ngay lập tức sai đao phủ đem Lã Bố đi giết. Vốn là, năm xưa Lã Bố đã từng nhận Đinh Kiến Dương là nghĩa Phụ, về sau đã giết Đinh Kiến Dương và nương nhờ vào Đổng Trác. Sau đó lại vì Điêu Thuyền đã giết Đổng Trác nương nhờ Vương Doãn. Tào Tháo, con người một đời đa nghi đã hiểu rất rõ đạo lí "dưỡng hổ vi hoạn", lại được Lưu Bị vạch thêm nên kiên quyết hạ quyết tâm. Nhưng Tào Tháo lại không đề phòng dụng ý thật của Lưu Bị. Lưu Bị sợ Tào Tháo thu phục được Lã Bố, về sau trở thành đối thủ mạnh của mình. Ông đã mượn tay của Tào Thao giết chết Lã Bố, khác nào đã loại bỏ được tai họa cho mình. Chỉ có Lã Bố trước cái chết mới hiểu rõ được dụng ý của Lưu Bị, ông ta chửi không ngớt : "Thằng giặc tai to kia, quá nhẫn tám !" Nhưng, chửi không thể tránh được họa sát thân. Lã Bố đành kết thúc một đời vừa anh dũng lại đáng thương của ông ta. Trên đường tiến lên, luôn có thể có những hòn đá vướng chân. Trong tình huống có thể, bạn phải sớm loại bỏ, quét sạch mọi chướng ngại cho việc tiến lên sau này. Chu Du là một danh tướng của Đông Ngô, ông luôn luôn cho rằng Gia Cát Lượng tương lai có thể trở thành đối thủ mạnh của ông thống nhất thiên hạ. Đã mấy lần bày kế phải giết Gia Cát Lượng, nhưng mỗi lần đều bị Gia Cát Lượng khám phá ra. Trước trận đánh lớn Xích Bích, mọi việc đều đã sẵn sàng nhưng chỉ thiếu gió Đông. Gia Cát Lượng lại vì Chu Du mượn một đêm gió Đông. Chu Du cũng không thể chú ý đến những cái khác được nữa, vội vã sai người đi giết Gia Cát Lượng, nhưng Gia Cát Lượng đã lén chuồn sang một chiếc thuyền nhỏ chuẩn bị từ lâu. Vì thế, Chu Du và Gia Cát Lượng đã kết thành mối thù hằn không tháo gỡ được. Kết quả cuối cũng là Chu Du vẫn là tức Gia Cát Lượng mà chết được. Cho mãi tới trước lúc chết, Chu Du vẫn nói một cách tức giận : "Trời đã sinh Du, sao lại còn sinh Lượng ?" Bởi vì trước đó không thể tiêu diệt được trở ngại của mình, cuối cùng đã ngã lên trên nó. Đây là điều đáng tiếc suốt đời của một người tài giỏi. Quét hết mọi trở ngại, ở thời kì trưởng thành vây cánh chưa đông, phương pháp lí tưởng nhất là mượn đao giết người. Mượn đao giết người có thể không làm cho mâu thuân trở nên gay gắt về phía mình, tránh được tai họa giáng xuống, đồng thời lại có thể bảo tồn được thực lực của mình, ở thời kì trưởng thành, bộc lộ quá sớm, quá nhiều thực lực của mình là rất nguy hiểm, việc này khác nào mình đếm tiền ở ngay giữa đường phố, thu hút bọn xấu đến cướp, đến ăn cap. Ngược lại, bạn nên dẫn dắt kẻ giặc về phía đối thủ của bạn. Hãy để cho cấp trên cho rằng bạn không có dã tâm Việc trọng dụng của bất kể cấp trên nào đối với cấp dưới, chủ yếu cần xem không phải là bạn có tài hay không, mà là bạn có được việc hay không. Đây là lời tổng kết của một người nhiều năm ở chốn quan trường. Không có ai thích người không thích mình cả. Người ta là như thế, mà bạn cũng vậy. Ví như bạn không thể kết hôn với một cô gái mà bạn không yêu, mà cô ta cũng không yêu bạn trừ phi bạn có một ý đồ khác. Sự tín nhiệm của cấp trên là điều kiện tiền đề của bạn được trọng dụng. Lưu Tú sau khi bắc phạt Yên Đại, Khấu Tuần liên tục đóng giữ tại Hà Nội. Ông sửa sang võ bị, tuyển luyện binh sĩ, rất được lòng dân. Sau khi đánh phá quân đội của Tô Mậu, uy danh càng lừng lẫy bốn phương. Hà Nội đã trở thành căn cứ địa của Lưu Tú. Quân lương đều phải vận chuyển từ nơi đây. Lưu Tú thường xuyên sai người đến tìm hỏi ông ta. Lúc đó, một người dưới quyền của Khấu Tuần tên là Đống Sùng, nói với Khấu Tuần : "Hoàng đế vừa mới lên ngôi, bốn phương chưa định, mà ông lại chiếm cứ quận lớn, bên trong được lòng người, bên ngoài phá tan được kẻ địch mạnh, công danh tuyệt vời, đây chính là lúc kẻ sàm nịnh lấm lét oán họa". Khấu Tuần lập tức tỉnh ngộ ra, liên hỏi ngay làm thế nào mới có thể xua tan được sự không tín nhiệm của Hoàng đế đối với mình. Đống Sùng nói : "Năm ấy, Tiêu Hà vì Hán Cao tổ đóng giữ ở Quan Trung, Hán Cao tổ cũng mấy lần đi tìm hỏi ông ta. Trên thực tế là Hán Cao tổ không yên tâm đối với Tiêu Hà. Qua lời khuyên, ông bèn đem con trai của mình và anh em đều phái đến quân trung của Hán Cao Tổ". Khấu Tuần đã hiểu rõ ý tứ của Đống Sùng, thế là liền thỉnh cầu Lưu Tú, muốn cùng đi theo chinh chiến. Còn Lưu Tú lại không đồng ý : Hà Nội chưa an định, ông không thể dời khỏi được" Đế tránh nghi ngờ của Lưu Tú, Khấu Tuần noi gương cách làm của Tiêu Hà năm xưa, cử cháu nội, cháu ngoại của mình đến quân trung của Lưu Tú làm tiên phong. Việc này Lưu Tú rất hài lòng, không giống trước đây luôn cử người đến tìm hỏi nữa. Dưới đây, chúng ta lại xem thử Tư Mã Ý đã giành ân soái như thế nào. Gia Cát Lượng lại ra Kì Sơn, liên tục đánh Trần Thương, Tán Quan. Nước Ngô cũng làm ra vẻ muốn đánh Ngụy. Lúc này, Đại đô đốc Ngụy là Tào Chân đang bị ốm phải điều trị. Ngụy Minh đế vô cùng lo lắng, bàn bạc với Tư Mã Ý rút quân ra sao. Tư Mã Ý đã phân tích cục diện trước mắt, Ngụy Minh đế rất vừa lòng, liền phong ông ta làm Đại đô đốc. Đồng thời sai người đến nhà Tào Chân Lấy ấn soái. Nhưng Tư Mã Ý lại yêu cầu tự mình đi lấy. Ông ta đến nhà Tào Chân, nói với Tào Chân: "Quân Thục lại vừa ra Kì Sơn, ông biết không ?" Tào Chân nói : "Không biết. Tình huống nguy cấp như thế, Hoàng đế tại sao còn không cử ông làm đô đốc đi ngăn chặn quân địch ?" Tư Mã Ý nói "Tôi học thức nông cạn, không xứng với chức đó, việc này làm thế nào đây ?" Tào Chân cuống lên, bảo người lấy ấn soái ra đưa cho Tư Mã Ý. Tư Mã Ý lại không chịu nhận. Tào Chân lại càng sốt ruột hơn, nói : "Ông không dẫn quân đi chống địch, thế thì Trung Nguyên sẽ nguy cấp mất. Tôi phải gượng bệnh lên chầu để tiến cử ông với Hoàng đế".Đến lúc này, Tư Mã Ý mới nói ra lời chân thực : "Hoàng đế đã xuống ân chiếu, nhưng tôi vẫn không thể tiếp nhận”. Tào Chân nghe xong, chuyển lo thành vui, bảo Tư Mã Ý đem ấn soái mang về. Tư Mã Ý thoái thác nhiều lần, nhưng cuối cùng đã tiếp nhận. Tai sao Tư Mã Ý không chịu nhận chức ? Vốn là ông ta biết rõ Ngụy Minh đế không tin tưởng mình, không thể đem ấn soái thật lòng giao cho ông ta. Lần xuất chinh này, ông chẳng qua là làm thay cho Tào Chân mà thôi. Ông ta làm như thế, vừa được lòng của Tào Chân lại vừa biểu thị mình không có dã tâm nắm ấn vơ quyền vào mình. Phải cố gắng làm cho cấp trên của bạn tín nhiệm bạn, điều quan trọng nhất là làm cho ông ta cho rằng bạn là người không có dã tâm.
THỜI KÌ LỚN MẠNH - THUẬT LỚN MẠNH Hoặc được tại uyên, vô cữu. (Hoặc nhảy tại vực sâu, không có tội lỗi) Hào thứ tư của quẻ Càn chỉ rõ rồng đã từ các giai đoạn ân náu, nằm trên ruộng, sớm hôm phải cảnh giác tiến vào giai đoạn ”ở vực sâu". "Hoặc" là một từ bất định. "Được” là nhảy vọt. Nhảy vọt chưa phải là bay vút lên, mà lại là động tác chuẩn bị bay vút lên cao, tức ở trạng thái muốn bay mà vẫn chưa bay. "Uyên" là chỗ nước sâu nhất. Nghe nói rồng ở dưới đáy nước. "Tại uyên“ (ở nơi nước sâu) chỉ rõ lúc này rồng đã có nơi an cư của mình rồi. Tiến thoái có căn cứ, muốn thử nhảy vọt lên. Rồng của hào dương bốn "ở vực sâu", xét vẻ bề ngoài không cao băng vị trí "ở trên ruộng". Nhưng lúc này rồng đã có nước, rồng chỉ có được nước mới có thể vừa nhảy vọt đã bay lên trời. Do đó "ở vực sâu" là khởi điểm của việc bay vút lên ở bước sau. Mặc dù đã có khởi điểm nhưng rồng của hào dương bốn lúc này vẫn chưa có quyết tâm bay vút lên, mà đang còn tìm thời cơ. Do đó, đây cũng là lúc có nhiều điều sự. Chỉ có chờ thời cơ đế hành động, nắm chắc thời cơ có lợi nhất khi tiến khi lui, thì không thể có tai họa. Khổng Tử giải thích hào từ này nói : "Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã, tiến thoái vô hằng, phi li quần dã. Quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thời dã, cố vô cữu". ("Lúc lên lúc xuống, lên xuống thất thường, nhưng không phải vì ý tà ác ; khi tiến khi lui cũng thất thường, nhưng đây không phải là tách rời quần chúng. Người quân tử tiến đức tu nghiệp, đều muốn hành động của mình gặp thời, cho nên đều không có gì sai lầm). Ở đây, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của thời cơ. Chỉ cần thời cơ đáng tiến thì phải tiến, thời cơ đáng lùi thì phải lùi, tất cả đều phải tùy thời mà không thể khẳng định. Bởi vì người quân tử xét đến cùng là phải tiến, vào lúc này tiến đức tu nghiệp sẽ nhất định phải thích ứng thời cuộc, như thế mới có thể làm lớn mạnh lực lượng của mình. Vì thế. điều mấu chốt nhất ở thời kì lớn mạnh là phai nắm vững thời cơ hữu hiệu. Tào Tháo cấp thắng tiến quân, bị bại ở Xích Bích Sau khi mời được Gia Cát Lượng ra đi, Lưu Bị đã đánh bại cuộc xâm lấn của đại quân Tào Tháo ở gò Bác Vọng. Tào Tháo rất bực liền tự mình dẫn đại quân đi đánh Lưu Bị, hòng đánh một trận phá tan tập đoàn quân sự Lưu Bị vừa mới hình thành. Gia Cát Lượng đã dùng sách lược chủ động rút lui, trước tiên bỏ Tần đã. Sau đó lại liên tiếp bỏ Phần Thành, Đương Dương, cuối cùng rút đến Hạ Khẩu. Trong cuộc rút chạy lớn và truy đuổi lớn này, Lưu Bị tổn thất mặc dù không lớn, nhưng ông đã để mất vùng căn cứ vừa mới xây dựng lên. Đứng trước nguy hiểm diệt vong. Gia Cát Lượng đã dùng quyết sách chiến lược "Liên Ngô chống Tào", tự mình sang Giang Đông thuyết phục Tôn Quyền, kí kết Liên minh Ngô Thục lần thứ nhất. Đại đô đốc Chu Du trẻ, nhưng dẩy hứa hẹn của Đông Ngô với sự phối hợp của đội quân chủ lực của Lưu Bị, đà düng phương pháp "hỏa cộng" đánh bại 83 vạn quân Tào ở Xích Đích. Tào Tháo nhân lúc cao hứng mà đến cụt hứng thì về, còn suýt nữa thì mất mạng. Từ trong thất bại của Tào Tháo, chúng ta có thể thấy khi thắng lợi liên tục, người lãnh tụ cần phải giữ được đủ tỉnh táo không thể tiến bừa. Sự lớn mạnh thực lực cần phải có mấy giai đoạn để hoàn thành, không thể dựa vào khí thế thịnh nhất thời mà thích việc lớn hám công to. Giá như sau khi Tôn Quyền và Lưu Bị liên hợp với nhau, Tào Tháo có thể dùng cầm cự tác chiến hoặc rút lui thì có thể tránh được trận đánh Xích Bích nổ ra. Một là, căn cứ phân tích thực lực đương thời để xét, Tào Tháo trên đường truy đuổi, lại không tiêu diệt được quân chủ lực của Lưu Bị. Điểm này, Tào Tháo chưa nhận thức được. Hai là, sau khi Tôn Quyền liên hợp với Lưu Bị, thì địa lợi và nhân hòa đã bị chiếm mất. Tào Tháo chỉ dựa vào lợi thế của thiên thời là người nhiều, thế mạnh quyết đánh bại kẻ địch bằng được. Ông đã đưa ra quyết sách tác chiến sai lầm. Ba là, đại quân của Tào Tháo đánh thắng một mạch đã là đến mức cuối cùng của sức mạnh quân sĩ, cần phải nghỉ ngơi chấn chỉnh lại đội ngũ, mà Tào Tháo lại sai khiến họ lên những chiếc thuyền gỗ dùng xích sắt nối lại với nhau. Vì vậy, sau khi giành được thắng lợi, người lãnh tụ phải suy nghĩ xem có nên "thấy lợi thì vơ" hay không. Không nên để cho tình cảm mãnh liệt bột phát của thắng lợi gây nên manh nha kiêu ngạo. Từ xưa các nhà quân sự đã nói: Tướng không nên đếm trận thắng, đếm trận thắng ắt sẽ kiêu ngạo. Điểm này, rất nhiều người sau khi thành công không thể khống chế hữu hiệu. Tào Tháo là người như thế, ngay cả đến Chu Du đánh bại được Tào Tháo cũng chưa thể làm được. Ông ta lại cũng di theo con đường thất bại của Tào Tháo. Sau khi đánh bại Tào Tháo, Tôn Quyền và Lưu Bị bắt đầu bận rộn để mở rộng thành quả thắng lợi của mình. Nam Quận đã trở thành nơi phải giành lấy bằng được. Cấp thắng tiến quân, đây là một trong những thủ đoạn cần thiết của thời kì lớn mạnh. Lấy một lần thắng biến thành nhiều lần thắng, lấy thắng nhỏ biến thành thắng lớn, lấy thắng lợi cục bộ biến thành thắng lợi toàn cục. Cách làm của hai ông Tôn Quyền và Lưu Bị không nghi ngờ gì nữa là đúng đắn. Vấn đề dưới đây chính là làm thế nào để giành thắng lợi mới, đánh chiếm được thành Nam Quận, cơ sở quân sự quan trọng. Khi bị bại phải rút lui, Tào Tháo đã làm tốt việc chuẩn bị phòng ngự. Ông đã lưu Đại tướng Tào Nhân ở lại giữ Nam Quận, và đưa cho cẩm nang diệu kế. Khi Đại đô đốc Chu Du trẻ của Đông Ngô dẫn quân đến áp sát dưới thành Nam Quận, Tào Nhân làm theo kế của Tào Tháo ra lệnh cho quân sĩ cắm quân kì la liệt trên thành và dẫn người bỏ thành đi. Chu Du cho rằng Tào Nhân dùng kế "tìm cách thoát thân", liền đốc quân xông vào cửa Nam không có người canh giữ để vào thành. Không lâu, một tiếng mõ vang lên, cung nỏ hai bên đều bắn ra như mưa rào. Những người tranh vào thành trước đều rơi nhào cả vào trong cạm bẫy. Khi Chu Du thúc ngựa quay trở lại, liền bị một phát tên bắn trúng sườn bên trái ngã lộn nhào khỏi mình ngựa. Ngưu Kim từ trong thành đánh ra đến bắt Chu Du, hai tướng Từ Thịnh và Đinh Phụng phải liều mình mới cứu thoát. Quân Tào ở trong thành đánh ra, quân Ngô giẫm đạp lên nhau, người rơi xuống thành hào không biết bao mà kể, nhân lúc thu quân gấp, Tào Nhân và Tào Hồng phân thành hai cánh quân đánh giết. Quân Ngô đã thua to. Chu Du, vừa mới trải qua cơn sóng to gió dữ, lại bị lật thuyền trong một nhánh sông nhỏ. Phép biện chứng của cuộc sống chính là thế này :thành công lớn chứa đựng mầm mống của thất bại, trong thất bại lớn lại ẩn chứa cơ hội thắng lợi.Vì thế, ở thời kì lớn mạnh, cấp thắng tiến quân nhất thiết phải kiêng kị mong chóng thành công, muốn nhanh được lợi và thích việc lớn hám công to. Cấp lúc người ta nguy cấp Chúng ta rất ít nghe người nói: Tôi đã nắm được cơ hội. Thường nghe nhiều nhất lại là: "Sinh bất phùng thời", "Vận tôi tồi quá !“ Trong cuộc cạnh tranh, cơ hội cho mọi người đều như nhau. Bạn không thế oán trách nó chọn người khác mà không chọn bạn Bởi vì là bạn chọn cơ hội, chứ không phải là cơ hội chọn bạn. Sau khi Liền minh Ngô Thục bị phá vỡ, giữa hai nước bất cứ lúc nào đều có thể xảy ra đánh nhau. Tình thế này đối với Tào Ngụy nằm ở phía thứ ba trong cuộc đấu tranh tay ba mà xét là rất hiếm có. Tào Ngụy có thể liên minh với bất cứ một bên nào đế tiêu diệt phía bên kia. Có thể nói, đây là một thời cơ mà một đời Tào Tháo đều đang chờ đợi. Nhưngí Tào Tháo không đợi được đã ốm chết. Cơ hội này cùng với cả vương vị đều lưu lại cho con trai ông là Tào Phi. Tào Phi vừa mới xưng vương, không đưa ra phản ứng gì. Mưu thần của ông đã nhắc nhở ông, nói : "Thục Ngô đánh nhau là trời diệt họ. Nay sai Thượng tướng đem theo may vạn quân vượt sông tấn công Ngô, quân Thục đánh vòng ngoài, còn quân Ngụy đánh ở vòng trong, thì nước Ngô bị diệt vong chỉ trong vòng mươi hôm là cùng. Ngô bị diệt vong thì tất Thục sẽ cô lập. Tại sao bệ hạ không toan tính nó sớm đi ? Tào Phi lại nói : "Tôn Quyền vừa lấy lễ để phục trẫm, nếu trẫm lại đánh ông ta là làm cản lòng người muốn hàng trong thiên hạ; chi bằng tiếp, nhận họ là hơn". Trên quan hệ Ngô Thục, ông đã dùng cách "vừa không giúp Ngô, cũng không giúp Thục" hòng ngồi trên núi xem hổ quần nhau. Kết quả là quân Ngô đã đánh bại quân Thục ở xứ Hào Đình, Tào Phi mới hạ lệnh xuất quân, nhưng thời cơ đã mất, ba đường đại quân của ông ta hết thảy đều bị quân Ngô đánh bại. Tào Phi đã kế cấp ngôi vương của cha lại không kế cấp tư tưởng chiến lược của ông ta. Tào Tháo khi còn sống cho rằng: Muốn hoàn thành sự nghiệp lớn thống nhất thiên hạ thì phải chia rẽ liên minh Ngô Thục, cuối cùng tiêu diệt từng nước một. Trên thực tế chiến tranh Ngô Thục là do Tào Tháo khi sống đạo diễn. Đây là ông ta nhận thức được từ trong bải học trận đánh Xích Bích. Sau khỉ Quan Vũ mất, Tào Tháo đã từng thử dùng "kế di họa" gây ra cuộc đấu tranh lớn hơn giữa hai nước Ngô Thục. Mà sau đó "Thục thắng thì đánh Ngô, mà Ngô thắng thì đánh Thục". Ý đồ của Tào Tháo là: Liên hợp với kẻ thắng của hai nước Ngô Thục để tiêu diệt kẻ thua. Đạo lí "lấy hai chọi một" rất đơn giản, nhưng nhận thức được điều này thật không dễ dàng, cần phải có suy nghi chỉnh thể đối với toàn cục. Tào Phi không thể nhận thức được chĩa rẽ hai nước đối với mình là một cơ hội chủ động tấn công, mà lại dùng sách lược chờ đợi bị động. Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng xây dựng lại Liên minh Ngô Thục. Cơ hội của Tào Phi không còn nữa, cũng như cha mình, ông ta đành mang theo nuối tiếc đến lúc chết. Tào Phi đã cho chúng ta một gợi ý : Khi giữa mấy đối thủ của bạn sinh ra chia rẽ, cơ hội của bạn sẽ đến. Lúc đó, bạn phải giống như con hổ vồ về phía con bò rừng đế tiêu diệt một bên ở trong họ. Trước khi tiến công, bạn vẫn phái liên hợp với một bên hoặc vài bên trong họ. Như vậy sẽ từ gốc đã cắt đứt được khả năng do sự tiến công của bạn mà làm cho họ liên hợp lại với nhau. Bạn có thể liên hợp với người yếu trong họ đế đối phó với người mạnh, để tiêu diệt nó một cách triệt để. Như thế, bạn sẽ có thể giảm bớt được một đối thủ cạnh tranh lớn mạnh. Bạn vẫn có thể liên hợp với người mạnh trong họ để đánh kẻ yếu trong họ. Từ đó làm cho thế lực của người mạnh trong họ cô đơn. không có chỗ dựa như trước. Tập trung chú ý vào mây đối thủ của bạn tìm ra nhân tố có thể chia rẽ giữa họ với nhau, sau đó tạo ra được chia rẽ lớn hơn. Cuối cùng sẽ đánh một cú đấm của bạn thật mạnh mẽ. Khi đối thủ của bạn phát sinh nguy cấp, thời cơ của bạn đã đến. Mao Trạch Đông nhân cơ hội nắm thời cơ Lúc này, Mao Trạch Đông đã triệu tập hội nghị tại Lô cốt Ngoã giáo, xác định chiến lược: "Xây dựng Mặt trận thống nhất dân tộc chống Nhật". Mao Trạch Đông đã báo cáo: "Bàn về sách lược chống đế quốc Nhật. Trong báo cáo này, đầu tiên ông phân tích đặc điểm cơ bản của tình hình trước mắt, là bọn đế quốc Nhật muốn biến Trung Quốc thành thuộc địa của nó. Tình huống này đã nêu ra cho tất cả mọi giai cấp và tất cả mọi lực lượng chính trị của Trung Quốc một vấn đề "Làm thế nào", phải bắt tay hành động tiến hành đấu tranh kiên quyết với họn đế quốc Nhật hay là làm kẻ nô lệ mất nước, hoặc là do dự giữa hai cái đó. Mao Trạch Đông lại tiến hành phân tích đối với các giai cấp của Trung Quốc. công nhân và nông dãn Trung Quốc kiên quyết yêu cầu chống Nhật. Gia cấp tiểu tư sản cũng yêu cầu chống Nhật. Đặc điếm của giai cấp tư sản dân tộc là dao động, lại ợ cách mạng triệt để, trong tình thế chính trị mới, một bộ phận trong họ có yêu cầu chống Nhật, một bộ phận khác có thể dùng thái độ trung lập. Tiếp theo, Mao Trạch Đông lại phân tích đảng Quốc dân đảng Trung Quốc, đảng chấp chính. Ông dự đoán: Nội bộ của Quốc dân đảng có thể sẽ phát sinh chia rẽ. Bởi vì Nhật Bản muốn độc chiếm Trung Quốc, sẽ tất nhiên làm tăng thêm mâu thuần của 2 đế quốc Anh, Mĩ với Nhật Bản, sẽ nhất định có thể gây nên cuộc đấu tranh giữa phái thân Anh Mĩ và phái thân Nhật trong nội bộ Quốc dân đảng. Cuối cùng, Mao Trạch Đông bàn đến nhiệm vụ của Đảng Cộng sản chính là đem hoạt động của Hồng quân hợp lại với tất cả mọi hoạt động của công nhân, nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc của Trung Quốc trở thành một Mặt trận cách mạng dân tộc thống nhất. Mặt trận này phải do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, Đảng Cộng sản và Hồng quân phải làm người khởi xướng của Mặt trận thống nhất dãn tộc chống Nhật, phải trở thành trụ cột của Chính phủ chống Nhật. Bài này của Mao Trạch Đông cũng giống nhữ "Đối sách Long Trung" của Gia Cát Lượng năm xưa, đem việc lớn của thiên hạ phân tích rất thấu triệt, đã chỉ ra cho Đảng Cộng sản và Hồng quân đường lối đánh chiếm thiên hạ như thế nào. Dựa trên tư tưởng chiến lược này, sau sự biến Tây An làm chấn động trong và ngoài nước, Mao Trạch Đông biết nhìn xa trông rộng đã cử Chu Ân Lai đến Tầy An đốc thúc Tưởng Giới Thạch chống Nhật và hòa bình giải quyết sự biến Tây An. Thế là Mao Trạch Đông đã giành được một phần mấu chốt nhất ở Tưởng Giới Thạch và trong lòng nhân dân Trung Quốc. San sự biến Lư Câu Kiều "7-7", cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa rắp tâm từ lâu đã khai triển toàn diện. Ngọn lửa chiến tranh Hoa Bắc đà đẩy nhân dân toàn Trung Quốc bước lên con đường chống Nhật cứu nước. Lúc này, Mao Trạch Đông đã nêu lên tuyên ngôn Quốc Cộng hợp tác, đông thời lại một lần nữa cử Chu Ân Lai và một số người nữa đàm phán với Quốc dân đảng, dự định thực hiện xây dưng Mặt trận thống nhất dân tộc chống Nhật. Nhưng, Tưởng Giới Thạch đang dao động. Ông ta đang chọn người đối mặt trên bàn đãm phán: Là Chu Ân Lai hay là người Nhật bản. Quân lính Nhật không dừng vó ngựa, lại cưỡng ép tiến công Thượng Hải phòng thủ dày đặc, ép sát Nam Kinh. Lòng tự tôn của Tưởng Giới Thạch bị thương hại rất lớn. Ông đã quyết không để cho người Nhật giễu võ giương oai dưới con mắt của ông ta. Ông đã chọn Đảng Cộng sản, chọn Hồng quân mà suýt nữa ông đã quét sạch. Hồng quân chủ lực của Tây Bắc đã đổi tên thành Quân đoàn 8 quân cách mạng quốc dân. Thế là mới có chuyện mọi người lính Nhật đều biết nói một câu tiếng Trung Quốc: "Tu bà lủ de gàn huo? " (Bát lộ địa phương làm việc ở đâu?) Mao Trạch Đông đã thành công lợi dụng được lòng bất mãn của Tưởng Giới Thạch đối với người Nhật Bản. Trong lúc Tưởng Giới Thạch đang dao động, ông đã giơ tay hợp tác ra, làm cho Tường Giới Thạch buộc phải cấp nhận địa vị hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong chiến đấu với quân Nhật, Hồng quân đã được rèn luyện và phát triển chưa từng có, đặt nền móng địa vị ngang nhau với Tưởng Giới Thạch. Bản thân Mao Trạch Đông về cuối đời cũng cảm thắy vui vẻ đối với quyết sách này của mình. Ông nói: "Đời tôi đã từng làm hai việc, một việc là đuổi hết người Nhật Bản, một việc nửa là phát động Đại cách mạng văn hóa". Gia Cát Lượng nhờ lửa để cướp Nếu như bạn nằm giữa kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại, dùng sách lược cứng rắn là không thích hợp. Một là quá lộ liễu dã tâm của bạn, hai là có thể sẽ vấp phải sự giáng trả của kẻ chiến thắng. Nhưng, bạn lại không thể ngồi nhìn một cách bàng quang. Bởi vì sau một trận đánh lớn, thế cục đã phát sinh đổi thay, bạn vừa đúng lúc có thể lợi dụng dịp biến đổi này phát huy ưu thế của mình, thu được một vài lợi ích. Thời cơ, tại dịp cục thế biến đổi. Sau trận đánh lớn ở Xích Bích làm thay đổi thế cục Tam quốc lúc đó, mưu lược mà Gia Cát Lượng dùng rất có chừng mực. Khí thế Chu Du ầm ầm cảnh cáo Lưu Bị: Nam Quận là của tôi, không cho phép ông đánh. Gia Cát Lượng không phản bác. Liên minh của họ không thể vì Nam Quận mà bị phá vỡ. Huống hồ Chu Du đã đóng quân ở duới thành, có thể tiêu diệt nó bất cứ lúc nào. Ông ta đã dùng thái độ nhượng bộ: "Trước hãy để cho Đông Ngô đi lấy, nếu lấy không được, chúa công hãy lấy" Chu Du đã nhận được trả lời vừa ý, an tâm và mạnh dạn đi đánh chiếm Nam Quận. Không lâu, ông ta đã trúng kế mai phục được sắp đặt trước khi Tào Tháo rút ở Nam Quận. Bản thân Chu Du cũng trúng tên độc. Sau trận đánh đầu thất bại, Chu Du nén lòng chịu đau kế mai phục sắp đặt ở trong doanh, đã đánh bại Tào Nhân. Khi ông ta mang theo tin vui của thắng lợi và nỗi đau đớn của vết thương lại một lần nữa đến dưới thành Nam Quận, lại nhìn thấy cảnh tượng tinh kì bảy ra la liệt khắp thành, trên thành địch có một tướng nói: "Thật có tội với Đô đốc ! Tôi vâng lệnh Quân sư đã lấy thành xong. Tôi là Thường Sơn Triệu Tử Long đây”. Tiếp theo lại có thám mã đến báo: " Gia Cát Lượng tự nhiên lấy được Nam Quận, lại dùng binh phù, đêm hôm giả điều động quân mà giữ thành Kinh Châu đến cứu, lại cho Trương Phi đánh úp Kinh Châu." Một lát, lại một thám mã chạy đến báo: "Hạ Hầu Đình ở Tương Dương bị Gia Cát Lượng sai người ôm binh phù trá xưng Tào Nhân cầu cứu dẫn đến việc dẫn binh ra, lại cho Quan Vân Trường bất ngờ đánh chiếm Tương Dương". Đây quả là: Thành trì mấy quận chẳng có phần, Một phen gian khổ cho ai hưởng ! Gia Cát Luợng đầu tiên để cho Chu Du đánh Nam Quận, đã tính đến Tào Tháo nhất định thua, cho nên để cho hai họ Tào Ngô đánh nhau, còn mình "Ngồi không ngư ông đắc lợi”, thửa cơ đánh vào liền lấy được ba thành, cuối cùng làm cho Lưu Bị vốn không có mảnh đất để đứng chân đã có cả một vùng căn cứ tương đối khả quan. Sau trận đánh lớn Xích Bích đã xác định cục diện thế chân vạc của ba nước. Trong trận đọ sức này, người bị thất thiệt lớn nhất là Tào Tháo, người tổn hao lớn nhất là Tôn Quyền, còn người thu hoạch lớn nhất lại là Lưu Bị. Làm lớn mạnh mình không chỉ có"thừa thắng tiến quân”, mà cũng có "nhờ lửa để cướp", ý chinh cửa "nhờ lửa để cướp” là nhân khi nhà người ta cháy, rơi vào lúc nhất thời hỗn loạn, tự lo cho mình còn chưa xong thì đến cướp đồ đạc. Mưu cao của Gia Cát Lượng là ở chỗ ông đã khéo léo để cho Chu Du là người thắng giao chiến với quân Tào là người bại một lần nữa, còn mình lại đàng chờ lúc cả hai đều thiệt hại, từ đó kiếm một mẻ lớn. Điều đáng suy ngẫm là trong chiến dịch này Gia Cát Lượng đã hai lần sử dụng mưu kế "nhờ lửa để cướp". Lần thứ nhất sử dụng mưu kế này làm chiến lược. Sau khi đánh bại Tào Tháo, Gia Cát Lượng liền đem quân lính đời đến Du Giang làm ra vẻ muốn đánh chiếm Nam Quận. Cho nên Chu Du đang chuẩn bi đánh chiếm Nam Quấn tự nhiên sẽ hiểu liền đi bắt chẹt Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng trong buổi tiệc đã kích Chu Du đánh chiếm Nam Quận, đồng thời biểu thị thái độ của mình khi Chu Du không đánh chiếm nổi thì mình nhất định đi đánh chiếm Nam Quân. Chuẩn bị cái cớ cho việc xuất quân sau này. Chu Du, người tràn ngập lòng tin chỉ nghĩ đến có thể lấy Nam Quận dễ dàng, lại không nhận thức ra Gia Cát Lượng "ngồi không ngư ông kiếm lợi". Sau thành công "nhờ lửa để cướp” lần thứ nhất, Gia Cát Lượng đã chiếm được Nam Quận và thu được binh phù của Tào Nhân, đã sử dụng mưu kế "nhờ lửa đế cướp’ lần thứ hai. Lần này là sử dụng về chiến thuật. Dùng binh phù của Tào Nhân đã điều binh ma hai nơi là Tương Dương, Kinh Châu ra làm cho họ tác chiến với quân Đông Ngô. Nhân lúc quân mã hai bên đang đánh nhau náo nhiệt, Gia Cát Lượng đã sai hai cánh quân chủ lực của Trương Phi và Quan Vũ đánh chiếm hai thành Kinh Châu và Tương Dương. Như thế, Gia Cát Lượng không phải tốn bao nhiêu công sức đã chiếm được ba ngôi thành trì một cách khôn khéo, phát huy mình một cách mạnh mẽ. Chu Vũ Vương nhân lúc suy yếu đánh vào Khi Trụ vương bức hại những quý tộc phản đổi ông ta, gián điệp báo tin về nói: "Sàm thắc thắng lương" (kẻ sầm nịnh gian ác thắng người lương thiện). Vũ vương cho rằng rất tốt, nhưng chưa phát binh, thời cơ còn chưa chín muồi. Ông cho gián điệp tiếp tục dò la. Không lâu, gián điệp lại đưa về tin tình báo nói về triều Ân "người hiền đã bỏ đi". Vũ vương nói: "Nhà Thương sắp kết thức rồi". Nhưng ông vẫn cho rằng thời cơ phát binh vẫn chưa chín muồi. Sau đó, ông lại nhận được tin Trụ vương đặt ra "hình phạt hơ lửa". Đem cột đồng đặt trên ngọn lửa than đang cháy, bắt người phạm pháp đi ở trên đó. Khi phạm nhân đứng không nổi thì bị rơi vào trong lửa, sẽ bị thiêu sống chết. Thế mà dân thường không dám oán trách Đến đây, Chu Vũ vương mới cho rằng Trụ vương đã bị dân chúng xa lánh, thời cơ đánh dẹp Trụ vương đã chín muồi, khởi binh tiến công triều ca Đã quyết chiến với chủ lực của quân Trụ trên cánh đồng cỏ ở ngoại ô Thương đô, cuối cùng đã đánh vào Thương đô, Trụ vương buộc phải tự thiêu chết Thắng lợi này chủ yếu quyết định bởi Chu Vũ Vương đã nắm chắc được thời cơ tác chiến có lợi nhân lúc suy yếu đã đánh vào, chỉ một lần ra quân đã thành công Từ ba nguồn tin tình báo mà gián điệp đưa về, và sự lựa chọn của Chu Vũ vương, chúng ta có thể phát hiện: khi phía địch suy yếu là thời cơ tốt nhất để tiến công Những suy yếu do chủ quan phía địch tạo thành, chủ yếu là từ mấy phương diện sau đây: Gian thần nắm quyền, làm hỗn loạn kỉ cương triều đình Người hiền tài bị bức hại Nội bộ bọn thống trị xảy ra hục hặc nhau hoặc nổ ra khởi nghĩa Nguy cơ kinh tế do thiên nhiên gây ra Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân bị tổn hại không thể chịu đựng được nữa Khi năm yếu tố này, có ba yếu tổ ở trên hiện ra rõ thì sự suy yếu đã hình thành. Lúc đó bạn có thể xuất kích mà không còn do dự gì nữa Nhưng nếu mới chỉ có 2 yếu tố ở dưới xuất hiện, thì thời cơ vẫn chưa hoàn toàn hình thành. Bởi vì khi bạn tiến công, mâu thuẫn nội bộ của kẻ địch vì thế mà có thể chuyển hóa, qua điều chỉnh có thể trở nên lớn mạnh hơn Sách lược của Câu Tiễn diệt Ngô cũng dùng “nhân lúc suy yếu đánh vào“. Thuở ấy, sau khi Phù Sai đánh bại Câu Tiễn đã sát hại Ngũ Tử Tư có chiến công hiển hách làm thương tổn lòng tự tôn của quần thân có công. Phù Sai không tin những lời khuyên trung thành của người khác, một mực hưởng lạc, tin nghe lời của họn tiểu nhân nịnh hót. Đến cuối cùng, trong nước xảy ra nạn hạn hán lớn, nhà nước không có lương thực giải cứu cho nạn dân. Những điều này biểu lộ rõ nước Ngô đã suy yếu đến mức không thế chống đỡ nổi. Cho nên, Câu Tiễn nhân cơ hội xuất quân tiêu diệt nước Ngô. Bất cứ một tập thể nào đều tồn tại năm nguy cơ tiềm tại này, khi những nguy cơ này, về số lượng và trình độ vượt quá khả năng chịu đựng của tập thể đó, thì nó chính là chỉ có diệt vong mà thời. Nỗi sỉ nhục của lịch sử Trung Quốc cận đại cũng là do sự biến đổi của 5 loại nhân tố này đà tạo cho họn đế quốc thời cơ đáng nhảy vào. Sau khi họ Lạp buông mảnh nghe quốc sự, hoạn quan nắm triều đã ồ ạt xây dựng các công trình, hao tốn sức người sức của lớn; lại thêm những cuộc đánh trả của phong trào Thái bình thiên quốc, chính quyền trong nước vô cùng căng thẳng; việc vận chuyển thuốc phiện vào đã làm hao tổn nhiều sức người, sức của của người Trung Quốc dẫn đến về sau không có sức chống đối sự tiến công của pháo hạm nước ngoài, chỉ còn cách quỳ gối đầu hàng. Vì thế nói” nhiều cơ hội có thể đều là do đối phương cung cấp cho người tiến công” Nếu như người tiến công không biết vận dụng những thời cơ này, thì có thể có người khác sẽ lợi dụng. Như thế thì, người được lớn mạnh không phải là bạn, mà là người khác. Việc lớn trong thiên hạ đều có phân có hợp Thế lớn trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan Sau khi Ngụy, Thục, Ngô hình thành thế chân vạc, cuộc đấu tranh giữa ba nước chủ yếu xoay quanh chiến lược "Liên minh" này để triển khai kế hoạch mưu lược. Nói cách khác là họ đang làm phép tính cộng 1 + 1 = 2 đã nói đến ở trên. Bản thân việc lớn mạnh sẽ có nghĩa là tăng thêm, đem 1 biến thành 2, hoặc biến thành 3. Cuộc chiến Xích Bích là thắng lợi của Ngô Thục liên hợp. Còn từng bên Ngô, Thục riêng lẻ dùng thực lực đương thời đều không thể chống nổi Tào Tháo. Cho nên, Gia Cát Lượng đã dùng chiến lược liên hợp, từ đó làm cho mình được lớn mạnh. Phía Đông liên minh với Tôn Quyền, phía bắc chống Tào Tháo là chiến lược nhất quán của Gia Cát Lượng trong thời ki Tam Quốc. Lịch sử đã kiểm nghiệm chiến lược của ông và đã cho đánh giá cao nhất. Nhưng trong nước Thục không phải tất cả mọi người đều có thể hiểu rõ tư tưởng chiến lược này. Trong đó có hai người đã phá hoại liên minh này, đồng thời mang đến cho nước Thục những tổn thất không thể bù đắp nổi. Người thứ nhất là tướng trấn giữ Kinh Châu tức Quan Vũ. Ông là một vị tướng trí dũng song toàn, đã đọc thuộc Kinh "Xuân Thu". Với tư cách là một người tướng, ông có thể xứng đáng làm một thống soái "bách chiến bách thắng", nhưng ông đã thiếu tư tưởng toàn cục cần có. Ông kiên quyết cự tuyệt việc "liên hôn" với nước Ngô đã ngạo mạn tuyên bố “Con gái của ta, ví như loài hổ lại thèm gả cho con của loài chó à !" rốt cụộc làm cho Tôn Quyền hạ quyết tâm bắt tay với Tào Tháo quyết chiến với Quan Vũ ở Kinh Châu. Trong chiến dịch này, mặc dù Quan Vũ giành được thắng lợi to lớn khơi dòng nước nhấn chìm bảy đạo quân, uy danh lừng lẫy thời Tam quốc. Nhưng thắng lợi của chiến thuật không thể bủ đắp được sai lầm chiến lược. Quan Vũ cuối cùng bị kẻ thù do chính ông gây nên là Tôn Quyền bắt sống. Hai bên tác chiến về quân sự, khác nào mình đã chọn con đường diệt vong. Người thứ hai của nước Thục phá hoại liên minh chính là bản thân Lưu Bị. Tin Quan Vũ bị giết đã gây nên mối thù hằn của Lưu Bi đối với Đông Ngô. Ông không nghe lời khuyên can của Gia Cát Lượng, ngang nhiên phát động chiến tranh đối với Đông Ngô, từ đó dẫn đến sự tan vỡ triệt đế liên minh Ngỗ Thục. Trận đánh Hào Đình, Lưu Bị đã bị tướng trẻ Đông Ngô là Lục Tốn đánh cho bị thua liếng xiểng. Nước Thục từ đây sức sống bị tổn thương nặng. Sau trận này Lưu Bị cũng chết. Lúc đó nước Thục vừa mới dựng lên, Lưu Bị tự lập Quan Trung vương. Việc thành lập nước Thục được xây dựng trên cơ sở của Liên minh Ngô Thục. Phá hoại hên minh này thì có nghĩa là tự mình dỡ cầu của mình. Làm lớn mạnh mình quyết không có nghĩa là mình muốn làm gì thì làm, cái gì có lợi cho mình thì làm cái đó. Ở đây có vấn đề thời cơ, lại có vấn đề liên hợp nữa. Khi còn sống, Tào Tháo sở dĩ chưa thống nhất được Trung Quốc, nguyên nhân căn bản của nó là ở Liên minh Ngô Thục gặp nguy cấp thì cùng cứu nhau. Từ phương diện này để xét, Tào Tháo gây thù quá nhiều. Khi ông ta nhận thức ra được vấn đề này liền chuyển đổi ngay chiến lược của ông. Sau khi chiến lược liên Ngô đánh Thục xác định, ông đã lợi dụng việc giành Kinh Châu của Ngô Thục để phá hoại liên minh hai nước. Do tướng trấn giữ Kinh Châu là Quan Vũ chưa nhận thức được tính chất quan trọng của chiến lược liên Ngô, buộc Tôn Quyền phải chạy ngược lại với Tào Tháo. Chiến lược chuyển biến cũng mang lại thế cục biến đổi. Quyết chiến Phán Thành, đánh úp Kinh Chầu, phục kích chiến Mạch Thành, hàng loạt chiến dịch, đã phá vỡ Liên minh Ngô Thục làm suy yếu Thục. Nếu như nói trận đánh lớn Xích Bích là Lưu Bị nhờ Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo, rồi quyết chiến Kinh Tương cả đến từ đó đưa đến Hào Đình trận đánh lớn như thế, lại là Tào Tháo nhờ Tôn Quyền đánh bại Lưu Bị. Bộ sách "Tam quấc diễn nghĩa" lại là một bức tranh "Quan hệ chiến" cùng liên hiệp, cùng đánh lẫn nhau như thế. Ở Trung Quốc luôn luôn tồn tại cái gọi là mạng lưới quan hệ. Mạng lưới quan hệ là một biểu hiện của sự liên hợp. Sự liên hợp hữu hiệu của thời kì lớn mạnh, thường thường phải khôn khéo hơn nhiều so với việc chuẩn bị chiến tranh đơn thương độc mã riêng lẻ.Một nhân vật lãnh tụ cần phải có sự hiểu rõ và nhận thức sâu sắc đối với liên hợp và chia rẽ: liên hợp không phải là không thể dẫn đến chia rẽ và chia rẽ không phải là không thể sinh ra liên hợp, cơ sở của chia rẽ và liên hợp là lợi ích của hai bên. Năm ấy Gia Cát Lượng nói "mượn Kinh Châu", mà không nói "chiếm Kinh Châu” mục đích ở chỗ không làm cho liên hợp chia rẽ. Về sau Tào Tháo hứa hẹn sau khi liên hợp ra quân thắng lợi đem Kinh Châu thuộc về Đông Ngô, đây cũng là một loại cắt nhường quyền lợi.Liên hợp và chia rẽ không có lợi ích là không tồn tại. Mao Trạch Đông nói: Nếu Giải phóng quân không đi theo ông Muốn đạt được mục đích này, ông sẽ phải giết Tống Chiêu công. Nhưng hành vi này không thể nhận được sự ủng hộ của người trong nước. Công tử Bảo bèn đem tất cả tải sản trong nhà phát cho muôn dân trăm họ, lấy việc đó để đổi lấy sự nâng đỡ của người trong nước. Ông dùng mấy biện pháp hữu hiệu: Một là quy định những người già từ 70 tuổi trở lên, mỗi người mỗi tháng được cấp phát 4 tấm gấm vóc, Hai là người có một nghề giỏi đều được tuyển mộ đến làm việc dưới môn khách của mỉnh. Ba là gặp năm mất mùa đói kém sẽ mở kho lương thực cứu tế nạn dân. Mẹ ông sau khi biết cách làm của ông cũng rất ủng hộ con trai mình, đem mọi tích trữ trong cung của mình trợ giúp ông. Cách làm của họ rất được lòng của người nước Tống, đều bằng lòng ủng hộ Công tử Bào làm quốc vương. Thời cơ đã chín muồi, Công tử Bào đã dùng thủ đoạn đặc biệt nhân lúc Tống Chiêu công đi ra ngoài săn bắn đã phát động chinh biến cung đình. Vương vị rốt cuộc đã có được. Nước Tấn rất bất bình đối với việc này liền phái quân đội đi đánh dẹp Công tử Bào, nhưng thấy Công tử Bào được muôn dân ùng hộ, cũng không thể hành động gì thêm nữa bèn xác định vương vị của ông ta. Điểm thành công của Công tử Bào là ở chỗ ông được lòng dân. Làm việc lớn cần phải được sự ủng hộ của đại da số người nếu không thì không có cách nào thành công được. Cách làm của Mao Trạch Đông ở thời kì đầu Đại cách mạng cũng là dựa trên tư tưởng này. Trong một chỉ thị gửi đảng viên Cộng sản Hồ Nam và Hồ Bắc đầu tháng 12 năm 1927 đã xác định rõ chiến thuật của Mao Trạch Đông phải chấp hành đúng là: phong toả các huyện; xây dựng chính quyền cách mạng; cố gắng xử tử nhiều họn cường hào gian ác, phần tử phản cách mạng và đại địa chủ; động viên quần chúng đánh người nước ngoài. Nhưng Mao Trạch Đông ở khu Tỉnh Cương Sơn lại không làm theo chỉ thị này, mà lại dùng phương thức trái ngược để xây dựng trận địa ở Tỉnh Cương sơn. Ông không theo mệnh lệnh tháng 11 của ban chấp hành Trung ương làm cho cán bộ của Đảng và quân đội công nhân hóa, ngược lại lại liên hợp với hai cánh thổ phỉ chiếm giữ ở vùng Tỉnh Cương sơn, như vậy làm cho hơn một ngàn bộ đội của ông trong chốc lát đã tăng thêm 600 người, đã bổ xung hơn một trâm cây súng. Mao Trạch Đông không liên hợp với công nhân, mà là liên hợp với "du dân" tầng lớp thấp nhất của Trung Quốc. Trong bài văn của Mao Trạch Đông ở thời kì đầu đã phân tích đối với các giai cấp ở Trung Quốc. Ông nhấn mạnh 5 loại du dân: thổ phỉ, binh sĩ, kĩ nữ họn cướp, hành khất cũng có thể qua giáo dục mà có tư cách để trở thành chiến sĩ cách mạng. Thảo luận học thuật là một chuyện, hành động thực tế lại là một chuyện khác, nó đều có trách nhiệm đối với thành công. Mao Trạch Đông đương thời lại chỉ có thể phụ trách đối với bộ đội của chính ông. Ông muốn giành được càng nhiều binh linh và trang bị hơn, mà không phải là càng nhiều kẻ giết người. Ông không có khả năng liên hợp với công nhân, mà chỉ có thể liên hợp cùng với du dân, chỉ có điều họ bằng lòng theo ông. Hội nghị Lư Sơn năm 1959, Mao Trạch Đông đã bãi chức quan của Bành Đức Hoài, người từng kêu la om sòm về ông. Nhưng Mao Trạch Đông lại sợ mình có thể bị giảm yếu quyền uy và quyền lãnh đạo trong quân đội. Thậm chí ông nói: Nếu Giải phóng quân không đi theo ông, thì ông sẽ phải đi tìm Hồng quân, phải lên núi đánh du kích. "Đi theo tôi’, đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất của nhân vật lãnh tụ. Không có người theo, thì sẽ không có lãnh tụ. Ngược lại, người theo cần phải lãnh tụ tự đi phát hiện, cổ vũ và lãnh đạo. Về điểm này, Công tử Bào thời Xuân Thu và Mao Trạch Đông thời Tỉnh Cương sơn đều có nhận thức thống nhất. Cái mà họ cần có là "người đi theo tôi“. Đây cũng là nội dung công việc chủ yếu của thời kì lớn mạnh. Mạnh Thường Quân nuôi ba ngàn kẻ sĩ Đối với một người muốn làm một việc lớn rầm rộ, thì nhân tài cũng quan trọng như lương thực. Thế lực mạnh mẽ, tiêu chí quan trọng nhất chính là tụ tập số lượng và chất lượng nhân tài. Thời Xuân Thu là một thời kì lớp nhân tài xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc. Bởi vì nhu cầu của chiến tranh, nhân tài trớ thành nguồn tài nguyên quý báu nhất. Bảo đảm cơ bản của thắng lợi thường là nhân tài. Vương hầu các nước đối với kết luận này đã vững tin không chút nghi hoặc. Mạnh Thường Quân sở dĩ thanh danh hiển hách trong nhiều nhân vật lớn, một trong những nguyên nhân của nó là ở chỗ ngoài việc ông có một tài sản tương đối lớn, lại còn có một số đông nhân tài mà người khác không thế sánh kịp. Mạnh Thường Quân hiểu được một cách hết sức sâu sắc ý nghĩa của việc nuôi dưỡng kẻ sĩ đối với ông là thời Tề vương ông được cử đi thăm nước Tần. Mạnh Thường Quân mang theo các dưỡng sĩ của ông đến nước Tần thăm và yết kiến Quốc vương lúc đó của nước Tần là Tần Chiêu vương, dâng lên đồ lễ quý báu mang đến như áo lông cáo trắng. Tần Chiêu vương biết Manh Thường Quân là nhân vật rất có danh tiếng, qua trao đổi chuyện trò càng coi trọng ông, bèn muốn giữ ông lại làm Tướng quốc nước Tần. Trong thời đại đó, chỉ cần tài năng của bạn được Quốc vương tán thưởng, bạn sẽ có chức quan cao, được hưởng bổng lộc hậu hĩnh. Nhưng em trai của Tần Chiêu vương là Chuliji lại không bằng lòng. Ông ta liền nói với Tần Chiêu vương: Mạnh Thường Quân quả thật là một người rất có tài năng, nhưng ông lại là dòng tộc của nước Tề. Nếu như để cho ông ta làm Tướng quốc, đối với nước Tần chúng ta sẽ có thể rất không lợi. Tần Chiều vương cảm thấy lời nói của ông ta có lí liền xua tan ý nghĩ của mình. Nhưng Tần Chiêu vương lại không muốn để cho Mạnh Thường Quân lại trở về nước Tề, sợ tương lai không lợi cho mình. Thế là ông bèn đem giam lỏng Mạnh Thường Quân lại. Mạnh Thường Quân lúc đó chính vì tài năng của mình mà bị dẫn đến tai họa. Ông đã từng cầu cứu đến Kinh Dương Quân đã từng là người làm con tin ở nước Tề. Kinh Dương Quân đã bằng lòng. Trước tiên ông đã đến gặp Phàn Cơ được Tần Chiêu vương sùng ái, tặng hai đôi ngọc bích trắng. Phàn Cơ lại không nhận ngọc bích. Bà nói: "Tôi thích áo lông cáo trắng hơn. Nếu Mạnh Thường Quân có thể tặng tôi một chiếc, tôi sẽ bằng lòng nói hộ cho ông ta". Kinh Dương Quân đã nói với Mạnh Thường Quân, để ông ta tìm kiếm được áo lông cáo tráng. Mạnh Thường Quân vô cũng buồn bã. Ông chỉ đem đến một chiếc áo lông cáo trắng, hơn nữa đã dâng cho Tần Chiêu vương, không có cách nào để thỏa mãn yêu cầu của Phàn Cơ được nữa. Thật là "không bột khó gột nên hồ". Mạnh Thường Quân hết đường xoay xở, ông báo các dưỡng sĩ cùng đi nghĩ cách. Qua một thời gian khá dài, mọi người đều không nghĩ ra được cách gì. Lúc này, một dưỡng sĩ hồ hởi tự đến gặp Mạnh Thường Quân nói ông ta có thế kiếm được áo lông cáo trắng. "Ông dùng biện pháp gì? " Mạnh Thường Quân hỏi. Ông ta nói: Tôi có thể lấy trộm lại chiếc áo lông cáo trắng đã tặng cho Tần Chiêu vương. Việc trộm cắp là việc chẳng vẻ vang gì. Nhưng chỉ cần mục đích đúng, thì thủ đoạn đó không phải bàn cãi. Mạnh Thường Quân đã chọn con đường đó. Ban đêm người dưỡng sĩ nọ lẩn vào trong Vương cung, quả nhiên đã lấy trộm được chiếc áo lông cáo trắng kia đem về. Chiếc áo lông cáo trắng lại được đem tặng đến tay bà Phàn Cơ. Bà vô cùng sung sướng. Bà cũng có một chiếc áo lông cáo sánh với Chiêu vương. Thế là, bà đã ở trước mặt Tần Chiêu vương nói nhiều điều tốt đẹp cho Mạnh Thường Quân. Tần Chiêu vương cuối cùng đồng ý thả Mạnh Thường Quân về nước. Mạnh Thường Quân sợ Tần Chiêu vương đổi ý, bèn vội vàng lệnh cho mọi người chuẩn bị hành trang và tức khắc lên đường. Đến nửa đêm, họ đã đến được ải Hàm cốc. Và trời chưa sáng, cổng thành không thể mở. Họ đành nóng lòng chờ đợi, canh cánh lo Tần Chiêu vương sai người đuổi theo. Một ẩn sĩ "trong cái khó ló cái khôn" đã nhanh trí học gà gáy. Ông ta học gáy rất giống dẫn đến việc gà ở xung quanh đều gáy theo rầm lên. Khi ấy chưa có đồng hồ, gà gáy thì có nghĩa là trời sắp sáng. Bọn lính lại canh giữ của ải nhầm tướng là đã đến giờ mở của ải nên đã mở toang cửa thành ra. Mạnh Thường Quân cũng những người cùng đi đã vội vội vàng vàng ra khỏi cửa ải. Đến khi Tần Chiêu vương sai người đến nơi, họ đã không nhìn thấy bống dáng Mạnh Thường Quân nữa. Thái tử đã đủ vây cánh Các quan đại thần trong triều sau khi biết được đều khuyên can Lưu Bang phế bỏ Thái tử, lập lại cho Như Ý là không thích hợp. Bởi vì chỉ có con trưởng mới có tu cách làm Thái tử. Lưu Bang cũng đành đem việc này gác lại. Người nóng ruột nhất, quan tâm nhất đến việc này không ai hơn Lã Hậu. Một khi Thái tử bị phế truất thì địa vị Hoàng Hậu của bà cũng phải lung lay muốn đổ. Nhưng lại không nghĩ ra nổi một biện pháp nào đế che chở cho con mình. Bà đột nhiên nghĩ đến Trương Lương giỏi đưa ra mưu kế, liền cho em trai mình là Kiến Thành hầu La Trạch mời Trưong Lương đến nhà, nói với ông ta: "Hiện nay Chúa thượng sắp thay Thái tử, ông làm sao có thể gối cao đầu nghĩ ngơi mà không hay không biết?” Trương Lương trả lời: "Trước đây khi nguy cấp, Chúa thượng có thế dùng mưu kế của thần, còn hiện nay thiên hạ đã định, thay đổi Thái tử là việc trong tình một thịt, cho dù có 100 người như thần đây thì cũng không có cách gì bổ cứu đuợc . Đây là lời thoái thác của Trương Lương, Lã hậu đâu chịu để cho Trương Lương đi, liền yêu cầu ông phải nghĩ ra mưu kế cho bằng được. Không làm sao được, Trương Lương liền nói: "Việc này khó dùng lời lẽ để tranh biện. Nhưng từ một phương diện khác còn có thể bổ cứu". Lã hậu vội vàng hỏi làm thế nào mới có thể bổ cứu được. "Chúa thượng đã từng muốn phải chiêu mộ bốn người phò tá mình, họ là Đông Viên công, Giốc Lí tiên sinh, Khởi Lí Quý và Hạ Hoàng công. Vì Chúa thượng khinh thường và doạ nạt, họ đều trốn cả vào rừng để ở ẩn, không chịu phò tá Chúa thượng. Nhưng Chúa thượng lại đặc biệt coi trọng bốn người này, nếu như có thể mời bốn người này ra phò tá Thái tử, sau khi Chúa thượng biết có lẽ sẽ có thể cảm thấy Thái tử rất tài giỏi, thì không thể phế "truất ông ta được”. Lã hậu cảm thấy rất có lí, liền sai Lã Trạch đi làm việc này. Lã Trạch mang theo thư của Thái tử và đồ lễ hậu hĩnh đi mời bốn người đó. Đông Viên công và ba người khác lần này không từ chối lời mời của Thái tử, đã đến Tràng An ở tại nhà Kiến Thành hầu để vạch ra mưu kế cho Thái tử. Vào thời Cao đế năm thứ 11, đã xảy ra Lã Bố làm phản, đúng lúc Lưu Bang ốm. Ông bèn muốn để cho Thái tử dẫn quân đi đánh Lã Bố. Đông Viên công và các người khác đều nói với Lã Trạch: "Thái tử đem quân đi đánh trận, dù có công lao địa vị cũng không được nâng lện, mà không có công lao thì từ đó lại mắc họa. Hơn nữa các tướng lĩnh đều là nhũng lão tướng đã từng theo Chúa thượng đi bình định thiên hạ, để cho Thái tử lãnh đạo họ, chẳng khác nào dùng dê để dẫn hổ. Các tướng lĩnh không thể dùng hết tâm sức, chắc chắn sẽ không có công lao mang về. Hiện nay Thích phu nhân ngày đêm hầu hạ bên Chúa thượng, mà Triệu vương Như Ý thường thường nói những lời gièm pha trước mặt Chúa thượng. Như thế thì Thái tử sẻ rất nguy hiểm !" Lã Trạch vội vàng đem những lời nói của bốn người đến tâu với Lã hậu, để bà can ngăn Lưu Bang cử Thái tử xuất chinh. Lưu Bang cũng cảm thấy Thái tử không dùng được, liền quyết định tự mình xuất chinh. Năm sau, Lưu Bang dẹp xong Lã Bố trở về Tràng An, bệnh tật ngày càng nặng thêm, ông lại muốn càng nhanh chóng thay Thái tử hơn. Một hôm, Lưu Bang thết tiệc ở trong cung, Thái tử cùng ngồi. Lưu Bang ngẫu nhiên nhìn thấy có bốn ông gia đứng sau Thái tử, liền hỏi họ là ai. Bốn ông già đều tâu rõ họ tên của mình. Lưu Bang vô cùng kinh ngạc, nói: Ta hỏi han tìm kiếm các người bấy nhiêu năm nay, cũng không tìm ra, bây giờ các ông tại sao đều ủng hộ và mến mộ con trai của ta? Bốn người đều cùng nói: “Thái tử có nhân có hiếu, người trong thiên hạ đều ủng hộ và mến mộ ông, chúng tôi sao lại không thế đi theo Thái tử được? Cho nên, chúng tôi đều đã chạy về với Thái tử". Lưu Bang nhìn thấy bốn người này phò tá Thái tử, liền cho rằng Thái tử vây cánh đã có đủ. Từ đó đã xua tan ý nghĩ phế bỏ Thái tử. Trong xã hội, thực lực cần phải có để cạnh tranh với người, không ngoài ba loại: trí lực, tài lực và nhân sự. Làm lớn mạnh mình cũng chính là phát triển sức mạnh của ba mặt này. Việc tích tụ sức mạnh ba mặt này, không chỉ cần dựa vào sức mạnh vốn có của mình, mà còn phải dựa vào nhũng sức mạnh này của người khác. Khi Lã hậu tìm không ra biện pháp, đã đi mời Trương Lương có nhiều mưu trí, Trương Lương cho rằng Thái tử về phương diện trí lực và tài lực không thiếu nhiều lắm, chỉ là thiếu nhân lực, liền tiến cử Đông Viên công và các người khác đế làm mạnh thêm lực lượng của Thái tử. Lưu Bang tận mắt nhìn thấy con trai mình mời được những người thông minh tài giỏi mà mình không mời được đến phò tá bèn cho rằng con trai đã rất giỏi giang. Việc làm lớn mạnh trí lực, tài lực và nhân lực là đều dựa vào sự bổ trợ lẫn nhau giữa ba mặt này để hoàn thành. Khi trí lực, tài lực và nhân lực đạt đến trình độ nhất định, thì vây cánh của bạn cũng đã đầy đủ Không nên gây thù địch quá nhiều Tề Hằng công một mực muốn trở thành bá vương của các nước chư hầu. Vì vậy, ông nghe theo lời tiến cử của Bào Thúc, mời Quản Trọng làm Tướng quốc. Quản Trọng đã từng bắn Tề Hằng công một mũi tên, suýt nữa thì ông mất mạng. Nhung Tề Hằng công không tính toán việc này, đã xin ông chỉ giáo mưu kế làm thế nào trở thành bá chủ. "Chí có tôn Chu thân lân mới có thể trở thành bá nghiệp được". Quản Trọng vạch mưu kế cho Tề Hằng công đã nói như vậy. Làm thế nào làm được "tôn Chu thân lân"? Thế là nhà mưu lược nổi tiếng này liền nói tỉ mỉ với Tề Hằng công ý đồ suy nghĩ của mình. "Thấm định lại biên giới của ta, chỗ nào vi phạm, nặng thi đem da lông thú và vải vóc để thăm hỏi, mà không thu tiền thuế của họ thì các nước láng giềng xung quanh sẽ thân thiện với ta thôi ! Chọn lấy 88 thuyết khách, cấp cho họ xe ngựa, áo lông, nhiều tiền của và vải vóc để đi chu du khắp bốn phương, để kêu gọi người hiền trong thiên hạ. Lại làm cho người ta dùng da lông và gấm vóc làm đồ ăn chơi, cho bán thịnh hành khắp nơi để nó mặc sức tung hoành. Tìm chỗ thiếu sót của họ mà tiến công có thể có lợi, chọn bọn dâm loạn, cướp bóc giết người để tiêu diệt có thể lập được uy danh. Như thế thì các chư hầu trong thiên hạ đều thuận theo và đến chầu nước Tề. Sau đó dẫn đầu chư hầu tôn thờ nhà Chu, ra lệnh tu sửa việc cai quản và cống nạp thì vương thất được tôn vinh. Cái tên Bá chu mà Ngài muốn có gì mà không làm được?" Trong những lời bàn luận này, Quản Trọng đã bầy kế cho Tề Hằng công làm lớn mạnh lực lượng gồm 3 bước: Bước một, làm tốt quan hệ với các nước láng giềng. Bước hai, phái người đi làm tốt việc tuyên truyền. Bước ba, để cho Chu thiên tử thừa nhận quyền hợp pháp của Bá chu. Việc này cho chúng ta những gợi ý rất to lớn. Tại lúc đó, Tế Hằng công muốn trở thành bá chủ là rất khó khăn. Lực cản đến từ hai phía cả trên lẫn dưới, tức là ở phía trên là Chu thiên tử và phía dưới là các nước láng giềng. Để khắc phục những lực cản này chỉ dựa vào vũ lực của một nước là không thể đạt hiệu quả. Huống hồ, khi đó thực lực của mấy nước lớn chẳng hơn kém mấy với nước Tề. Cho nên Quản Trọng đề ra chiến lược "tôn thờ nhà Chu, thân thiện các nước láng giềng". Tề Hằng công nghe theo lời của Quản Trọng, đã lần lượt kí kết liên minh với mấy nước nhỏ, đồng thời hòa hảo lại với nước Lỗ. Năm 673 trước công nguyên, các nước Tề, Lỗ, Tống, Vệ, Trần và Trịnh đã hội minh tại đất U, Tề Hằng công trở thành minh chủ. Chu Huệ vương cử người chính thức ban mệnh Tề Hằng công là Trưởng các chư hầu. Việc này đánh dấu sự lớn mạnh của lực lượng của Tề Hằng công, ông đã trở thành Bá chủ củạ các chư hầu. Vì thế, ở thời kì lớn mạnh, bạn phải chú ý làm tốt các quan hệ, đồng thời làm cho mình ở địa vị chủ động trong các quan hệ này. Đem những việc dùng vũ lực giải quyết lại dùng phương thức đàm phán để giải quyết làm cho bạn bớt đi một phần tiêu hao. Mà mỗi một lần tiết kiệm bớt đều là một lần lớn manh. Trên chiến trường, điều kiêng kị nhất là đối địch hai mặt. Đối địch hai mặt làm cho lực lượng tập trung của bạn bắt buộc phải phân thành hai bộ phận, sẽ làm mất đi ưu thế vốn có, rơi vào cục diện bị đánh một cách bị động. Để tập trung, thì buộc phải hóa giải một vài đấu tranh mâu thuẫn thứ yếu, dùng lực lượng tập trung lại đế đối phớ mâu thuẫn chủ yếu. Tề Hằng công vì điều đó tiến hành cố gắng gần 30 năm. Cho tới năm 651 trước công nguyên, ông lấy lí do nhắc lại lời thề năm xưa, triệu tập các nước Lỗ, Tống, Vệ, Trịnh, Hứa và Tào tiến hành "Hội Quỳ Khưu" nổi tiếng trong lịch sử. Chu Huệ vương đã phá bỏ lệ cũ đem việc tế lễ tiên tổ phân cho Tề Hằng công khác họ. Tề Hằng công đã trở thành Bá chủ lệnh cho chư hầu, còn Chu thiên tử chỉ là một cái bài vị mà thời. THỜI KÌ CƯỜNG THỊNH - THUẬT THÀNH CÔNG Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. (Rồng bay ở trên trời, hình thế có lợi cho nhân vật lớn) Hào năm của quẻ Càn là tốt nhất, bỏi vì lúc này rồng đã bay vút lên tận trời, đi mây rải mưa có rất nhiều triển vọng. Hào này là hào năm giữa quẻ thượng, xét theo toàn quẻ, nằm ở vị trí quân vương đã đến bậc cao nhất. Rồng đã được thiên thời và địa lợi, vừa bay lên đã đến trời, chiếm được không gian vô hạn, tùy ý vẫy vùng. Tựa như mặt trời đang nằm ở chính giữa trên cao chiếu xuống toả khắp đại lục, có sức mạnh vô hạn. Xét theo nhân sự, người quân tử đã đạt đến thời ki đẹp nhất của sự nghiệp, có thể có nhiều triển vọng to lớn, tạo phúc cho nhân dân. Khổng Tử nói: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Thủy lưu tháp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhĩ vạn vật đồ. Bản hồ thiên giả thân thượng, bản hồ địa giả thân hạ, tắc các tòng kì loạn dã”. Đoạn này Khổng Tử dùng ví dụ cùng loại đồng cảm nhau để chỉ rõ tại sao "những hành và biểu hiện của thánh nhân, có thể nhận thấy trên bản thân vạn vật” và "vô cũng có lợi cho nhân vật lớn biểu hiện tài đức". Ý nói: tiếng nói như nhau sẽ sản sinh đồng cảm, hơi thở nhu nhau sẽ cùng hấp dẫn nhau. Nước chảy đến chỗ trũng, lửa cháy ở chỗ khô hanh. Mây cuốn trôi theo rồng, gió bay theo hổ. Đối với hành vi của con người sẽ do cảm ứng của tự nhiên, mà biểu lộ ra tình cảm chân thật. Vì vậy, người quân tử có triển vọng, lúc này cần phải chọn người hiền tài giao chức vụ và công việc, đoàn kết được số đông người để cùng nhau thực thi ý tưởng lớn lao. Sau khi Trần Thắng lên vương Sau khi quân khởi nghĩa đánh được nhà Tần, Trần Thắng đã tự lập lên Vương ở đây, đồng thời dựng quốc hiệu là "Trương Sở". Tiếp theo đó là thực hiên lí tưởng cuối cùng tiêu diệt vương triều Tần. Nhưng, Trần Thắng sau khi thành vương, đã không còn xem mình là một lãnh tụ nông dân nữa, mà đã xem mình là vương hầu. Nghe nói sau khi ông thành vương, bạn bè và những người hàng xóm ở quê trước đây đều đến để nương nhờ ông. Họ vẫn còn nhớ đến Trần Thắng. Nhớ lời thề ước của Trân Thắng nêu lên với họ: "Dù giàu sang, không quên nhau". Trần Thắng trái lại đã quên hết tất cả. Ông bề ngoài tỏ ra rất thân thiện với những người này, nhưng sau lưng thì cho người đều đem họ giết hết. Ông không muốn đổ cho người ta biết chuyện mình trước kia nghèo khó. Ông muốn dùng quân đội của mình viết lại lịch sử. Một ý thức tự ti thực chất nông dân làm cho ông không muốn để người ta biết ông đã từng là người làm thuê bị người khác sai khiến. Thế là, ông đã cố gắng làm cho mình quý tộc hóa. Các tướng sĩ của quân nông dân không quý tộc hóa dần dần bị ông xa lánh, trước tiên là về tình cảm, sau đó là về địa vị. Giống như bạn bè thân thiết thời nhỏ của ông Lỗ Tấn gọi: Quan lớn ... Trần Thắng đã trở thành "Quan lớn" của nông dân. Ngô Quảng, bạn chiến đấu gần gũi của ông, cũng đã phạm sai lầm giống ông. Sai lầm này hầu như là sai lầm dễ mắc phải nhất của giai đoạn này. Sai lầm không thể đưa đến thắng lợi. Cuối cùng, Ngô Quảng bị bộ tướng dưới quyền giết chết. Trần Thắng thì bị người đánh xe của mình giết chết. Kết quả cua sai lầm luôn là rất bỉ thám. Một cuộc khởi nghĩa nông dán oanh liệt rốt cuộc đi đến thất bại. Nguyên nhân thất bại e rằng không thể đơn giản nói là do lãnh tụ khởi nghĩa bị hại, mà phải nên nói là do sai lầm của lãnh tụ khởi nghĩa. Họ không trung thành với giai cấp của mình, cuối cùng bị giai cấp của mình vứt bỏ. Việc vứt bỏ này là sự xa rời giữa tình cảm với sự chuyển biến của lí tưởng theo đuổi. Trung thực với giai cấp của mình sẽ giống như trung thực với cha mẹ của mình, như vậy mới có thể có nguồn sức mạnh dùng không bao giờ hết. Xem nó là căn bản có lẽ là vô cùng xác đáng, bởi vì bất cứ người nào đều không thể xa cách cái căn bản của mình quá xa. Khi một sự nghiệp giành được thành công, việc trước tiên bạn phải nghĩ đến là điêu căn bản làm cho bạn được như thế, phải giữ vững một cách nghiêm túc nguyện ước ban đầu. Mấy chuyện nhỏ sau đây, từ các mặt sẽ cung cấp cho bạn biết những thành công không thể giữ được ước nguyện ban đầu đã dẫn đến thất, bại của minh ra sao. Lý trí cuối cùng khó giữ Trong dân gian có một truyền thuyết vui buồn lẫn lộn: Một cậu bé nhà nghèo lên núi đốn củi, cậu đem củi hàng ngày chặt được bán cho người có tiền kiếm lấy mấy đồng tiền lấy thuốc cho mẹ già có bệnh. Lòng hiếu thảo của cậu bé được nhiều người khen ngợi, đều nói cậu sau này sẽ có tin mừng. Một hôm, cậu năm mơ thấy một cụ già râu bạc, cụ già nói ông bằng lòng giúp cho cậu bé có hiếu, hỏi cậu có dám chịu khổ không? Cặu bé nói: Cháu khổ như thế nào đều chịu được. "Ta muốn chỉ cho cháu một con đường, để cháu đi hưởng một kho báu. Vàng bạc và của báu ở đó cho cháu tùy ý lấy”. Cụ già nói như vậy. Nghe đến có thế lấy tiền, cậu bé nghèo liền nghĩ ngay đến bệnh của mẹ già. Thế là cậu liền xin cụ già chỉ con đường đó cho cậu. Cậu chuẩn bị mạo hiểm đi một phen. Cụ già bèn giảng giải tỉ mỉ cho cậu. Cuối cùng dặn cậu nói: "Cháu lấy được vàng bạc của báu xong, phải nên nhanh chóng rời khỏi chỗ đó ngay, không nên dừng lại lâu ở kho báu đó. Nhất định phải rời khỏi nơi đó trước lúc mặt trời mọc. Như thế thì kho báu mới mãi mãi thuộc về cháu. Cậu bé nghèo ghi nhớ kỉ, khi muốn cám ơn cụ già thi không thấy cụ già đâu nữa. Cậu liền tỉnh mơ. Cậu bé hồi tưởng lại giấc mơ đó hồi lâu. Cuối cùng hạ quyết tâm đi thực hiện giấc mơ của mình, để cho bệnh của mẹ khỏi sớm hơn. Nhưng cậu bé lo sau khi mình đi, sợ mẹ không yên tâm, bèn nói với các bạn: "Tớ phải đi tìm kho báu, nhờ các bạn nói với mẹ mình, ta nhất định đi nhanh về nhanh thôi". Các bạn nói: "Cậu đi tim kho báu, tại sao không đem chúng tô cùng đi? Chúng mình nên phải có khó khăn cùng gánh, có sung sướng cùng hưởng mới đúng chứ !"Cậu bé nghèo cũng cảm thấy câu nói đó có lí, thế là mọi người cùng nhau lên dường. Họ cuối cùng đã tìm được kho báu. Những đứa trẻ từ trước đến nay chưa từng nhìn thấy vàng bạc nhiều như thế, đã như điên cuồng ập vào kho vàng bạc và của báu. Chúng nó đem từng tảng từng tảng lớn chất vào trong chiếc sọt tre vác đến. Chỉ có cậu bé nghèo không bị những thứ vàng bạc này lôi cuốn. Cậu chỉ nhặt một viên gạch vàng, bởi vì viên gạch vàng này đủ để cậu và mẹ cậu sống đựợc một đời rồi. Cậu không ngừng đốc thúc các bạn nhỏ lên đường. Mặt trời sắp sửa mọc. Cậu bé nghèo càng sốt ruột, cậu đứng ở bên ngoài cửa động gọi to các bạn. Nhưng các bạn nhỏ không ai thèm để ý đến cậu ta, vẫn làm việc của mình như cũ. Mặt trời rực ánh lửa đỏ ối ầm ầm rọi tới, cậu bé nghèo trong giây phút này đã vội vàng chạy khỏi. Lửa của mặt trời đã thiêu cháy hết vàng bạc ở trong động cùng với mấy đứa trẻ muốn làm giàu kia. Những đứa trẻ đáng thương, chúng đã tìm được kho báu lại bị hủy diệt cùng với nhứng vật báu đó. Bi kịch như thế hầu nhu có rất nhiều, tử trước đến nay chưa từng ngừng diễn bao giờ. Con người ta luôn luôn không dứt nổi lòng tham đối với tiền của. Lí Tự Thành dẫn đội quân nông dân của ông đánh vào thành Bắc Kinh, họ đã trở thành đội quân khởi nghĩa nông dân chiếm lĩnh được Bắc Kinh đầu tiên. Thế là họ trắng trợn hưởng thụ vàng bạc châu báu và mĩ nữ của thành Bắc Kinh. Họ cũng giống như những đứa bé tìm được vật báu, đã quên mất điều căn bản của mình. Cho mãi đến khi Ngô Quế Anh dẫn quân nhà Thanh đánh vào cửa thành, họ mới hoang mang từ trên đống của báu và trên thân xác phụ nữ đưa ánh mắt nhìn thấy quân lính địch đông nghìn nghịt dưới thành. Song, ý chí chiến đấu và dũng khi của họ đều đã tuột mất ngay từ khi nhìn thấy của báu và mĩ nữ. Trong thời gian ngắn, họ không có cách nào tổ chức được cuộc tiến công hữu hiệu. Kết quả là kẻ địch đúng trong thời gian ngắn ngủi này đã đánh và mở được cửa thành Bắc Kinh. Quân nông dân đành phải nên đau khổ, cắt bỏ nhứng thứ yêu thích mà bỏ lại thành Bắc Kinh vừa mới lấy được. Cái mà họ được, chỉ có bài học đau đớn và sự diệt vong không thương tiếc. Theo các cụ già kể lại, cậu bé nghèo khi vừa nhìn thấy của báu, đã vội vàng nhắm mắt lại, để cậu ta giữ được vẻ lạnh lùng và lí trí cuối cùng của mình. Cho nên hồn vía của cậu ta không bị của báu hút mất, cậu bé luôn luôn giữ được vẻ tỉnh táo, luôn luôn không bị hủy diệt. Trước sự cố gắng phấn đấu của chúng ta, chúng ta cũng giống như cậu bé nghèo này, tương tự cũng nghĩ tới tiền của. Nhưng, trong chúng ta liệu có được bao nhiêu nguời có thể giống như cậu bé nghèo, lúc nào cũng không quên cái gốc của mình? Giữ được lí trí cuối cùng mới có thể nắm chắc được cơ hội lần cuối cùng. Nơi quy tụ của 108 anh hùng Con đường thứ nhất nói toạc ra chính là đi làm kẻ cướp. Dùng vũ lực ra oai với quan lại, làm cho bọn quan lại khi không biết làm sao được bạn bèn ra mặt chiêu hàng bạn. Chiêu hàng bao giờ cũng kèm theo dụ dỗ lợi ích đại loại như quan chức, bằng không thì không chiêu hàng nổi. Thế là tạo phản liền có quan để làm, hơn nữa lại là nhà quan phong cho, chứ không phái chính mình ngửa tay xin. Con đường thứ hai cũng gọi là đường tắt "chung nam" - Ngược lại với con đường trên, nó là dùng trí lực để lôi cuốn quan lại. Sau khi quan lại phát hiện tài học của bạn, sẽ có thể mời bạn ra làm quan. Hai con đường này đối với người làm nghề văn lẫn võ đều có thế dùng. Nhưng có điều theo con đường sau thì hầu như chậm hơn, mà theo con đường trước đều phải trả giá nhiều hơn con đường sau. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc “Truyện Thủy hử" đã miêu tả chuyện của Tống Giang và 108 anh hùng ở Lương Sơn bạc, Sơn Đông đã tạo phản, về sau nhận chiêu hàng. Bộ tiểu thuyết này là do Thi Nại Am viết dựa theo truyền thuyết dân gian của cuộc khởi nghĩa Tống Giang thời kì Bắc Tống. Nó miêu tả toàn bộ quá trình từ lúc khởi nghĩa đến lúc bị hại chết, sau khi nhận chiêu hàng của Tống Giang và những người khác. Từ bộ tiếu thuyết này chúng ta có thể nhìn thấu hết con đường tắt "giết người đốt nhà nhận chiêu hàng" này. Cánh quân nông dân khởi nghĩa này đã trương lên lá cờ màu mai chín "Thế thiên hành đạo", không ai chú ý tới ý nghĩa chân chính của lá cờ này, nói chính xác hơn là không ai có thế nói rõ ý nghĩa chân chính của lá cờ này. Về sau, Tống Giang giải thích nói "thế thiên hành đạo" chính là thay triều đình làm việc. Như thế mọi người sẽ có thổ lưu danh sử xanh, làm vẻ vang tổ tiên, làm vinh dự con cháu Cùng lá cờ màu mai chín này, trước đáy làm cho các anh hùng rơm các lộ tụ nghĩa, về sau lại giương nó đến kinh thành đòi quan phù. Thế là, 108 người đã có nơi quy tụ. Họ thật sự thay triều đình đi giết người. Thuở đó, thế lực quân khởi nghĩa Phương Lạp rất lớn mạnh. Triều đình đánh mãi không dẹp được, bèn sai Tống Giang đi đánh Phương Lạp. Sau khi đánh bại Phương Lạp, 108 người đã chết và bị thương không ít. Sau khi làm quan, cuộc sống lại bắt đầu khó chịu nổi. Cuối cùng, Tống Giang bị rượu độc của Hoàng đế đưa đến đầu độc chết. Trong 108 người này, chỉ có vài người không đi đến kinh thành đế nhận làm quan. Trong đó, có anh hùng đánh hổ Võ Tòng bất mãn đối với quan lại, ông tự mình bằng lòng làm một hòa thượng vân du. Còn một người nữa là hòa thượng Lỗ Trí Thâm, vị võ tướng xuất thân "đề hạt” này sau khi phản nghịch bèn vì nghĩa không chùn bước, không muốn quay đầu trở về nữa. Kết quả là chỉ có vài người họ không đi làm quan được sống tiêu dao tự tại, vui vẻ như những ngày qua, cuộc sống hoàn toàn ngược với Tống Giang và các người khác. "Giết người đốt nhà nhận chiêu hàng" đích thực là con đường ngắn để làm quan, nhưng lại không phải là con đường ngồi làm quan. Từ xưa đến nay, những người đã từng giết người đốt nhà hầu như đều không thể ngồi ở vị trí làm quan yên ổn. Tống Giang vì muốn lưu danh sử xanh đã đi nhận chiêu hàng, do đó đã bước vào con đường cũng tự mình phủ định. Đã làm việc mà bản thân bạn đã từng phản đối sẽ là sa đọa. Chỗ sa đọa của Tống Giang Chính là hủ rượu nóng chứa đầy thuốc độc kia. Cuộc đời được gọi là con đường một chiều, bạn không có cách nào quay đầu trở lại. Hơn nữa, cũng không nên quay đầu trở lại. Nhất là sau khi bạn đã bước qua cửa thành công, cần phải chịu đựng nổi sự cám dỗ từ bên ngoài đưa đến. "Đứng núi này trông núi nọ”, Tống Giang đã trúng phải kế “điệu hổ li sơn" của triều đình. Ông đã dẫn mọi người anh em cùng xuống núi, rồi lại bò lên ngọn núi cao hơn trong lòng mình, sau khi trèo lên mới biết mình đã mắc vào tròng, đã làm một thằng ngốc. Chỗ đi tới của những người thông minh quên mất gốc sẽ là thằng ngốc. Bành trướng sự thành công Khi Lâm Bưu giẫm đạp lên hài cốt của Lưu Thiếu Kì bị đổ trong Đại cách mạng văn hóa và hàng loạt lớn oan hồn các chiến hữu của Mao Trạch Đông, bò được đến bên cạnh Mao Trạch Đông, vẻ đắc ý của Lâm Bưu chắc chắn là xưa nay chưa từng thấy. Nhưng ông lại ngay lập tức cảm thấy khó chịu của cái oi bức "Dưới một người, trên vạn người". Ông đã không thoả mãn với địa vị của mình nữa. Ông một mực muốn giành được vị trí cao trong chức vụ nhà nước tương xứng với địa vị trong Đảng. Thế là, ông đã đem việc tạ thế của chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kì cuối năm 1969 làm thời cơ cực tốt của mình "thay kíp quá độ hòa bình”. Trong hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 2 khoá 9, Lâm Bưu dùng giọng lưỡi của Phó thống soái làm rùm beng bàn về thiền tài trên hội nghị, nêu lên phải bầu chủ tịch nước. Thế là, những người dưới quyền của Lâm Bưu lập tức lần lượt ra quân hưởng ứng từ xa, trong phát biểu ở các tô Hoa Bắc, Tây Nam, Trung Nam và Tây Bắc lần lượt trắng trợn nói về thiền tài, tập trung hỏa lực công kích Trương Xuân Kiều và Khang Sinh, muốn lấy đó để đánh tan tập đoàn Giang Thanh mà trước đó không lâu đã cùng chiến đấu với họ, củng cố thêm địa vị của Lâm Bưu. Việc làm om sòm bàn về thiền tài đã gây nên cảnh giác cao độ của Mao Trạch Đông. Dựa vào thiền tài của nhà chính trị, Mao Trạch Đồng ý thức được Lâm Bưu muốn chiếm đoạt quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Do đó, Mao Trạch Đông vừa mới củng cố được quyền lực đã đùng đùng nổi giận. "Có thể san bằng Lư Sơn làm ngừng địa cầu chuyển động", Mao Trạch Đông đã nhắc lại lời nói của ông khi ép Bành Đức Hoài mười một năm trước. Sau đó, bàn tay sắt của ông bèn đánh tả đánh hửu về phía Lâm Bưu không thương tiếc. Thời gian chưa đầy hai ngày rưỡi, âm mưu của Lâm Bưu dùng thủ đoạn hòa bình đế cướp ngôi đoạt quyền dày công vạch ra, đã bị Mao Trạch Đông đập tan, Người nối nghiệp mình bồi dưỡng muốn chiếm quyền lực của mình, nên Mao Trạch Đông rất đau lòng "Các anh tiếp tục làm như thế, tôi sẽ xuống núi để các anh làm. Việc bầu chủ tịch nước không cần nêu ra nữa, ai kiên trì bày ra, người đó sẽ làm, dù thế nào tôi cũng không làm". Trong câu nói của Mao Trạch Đông đượm đầy vẻ tang thương và đau buồn, từ đó, Mao Trạch Đông bắt đầu đề phòng Lâm Bưu, từ đó ông cũng sinh ra hoài nghi đối với tất cả xung quanh. Sự hoài nghi giống như con rắn ẩn náu làm cho người ta dễ sợ. Lâm Bưu trong lòng biết rõ Mao Trạch Đông không thể nhẹ nhàng buông tha ông. Ông chuẩn bị hành động trước Mao Trạch Đông. Sau phương thức dùng "văn" bị bại, ông đã dùng hành động "võ" Con trai Lâm Bưu xây dựng "Hạm đội liên hợp" trang bị hiện đại hóa, đã định ra kế hoạch "Kỉ yếu công trình 571" vũ trang chính biến. Nhưng lúc này, Mao Trạch Đông lại xa thành Bắc Kinh một cách hết sức bí mật "Thần không biết, quỷ không hay", đi tuần du xuống miền Nam. Những người của "Hạm đội liên hợp“ theo sát Mao Trạch Đông tiến hành hoạt động ám sát lại vẫn không đưa Mao Trạch Đông vào chỗ chết, trái lại đem Lâm Bưu dồn vào con đường cùng. Sau khi một người bước lên được cung điện thành công, dục vọng của anh ta thường thường không phải là được một lần làm trong sạch, mà là sản sinh sự bành trướng mới. Đây là một nhược điểm tồn tại bản thân của con người. Người không muốn tiến thủ dễ dàng thoả mãn, còn người theo đuổi thành công không muốn thoả mãn. Hai cách chọn lựa lại biểu hiện ra một chủ đề bi kịch giống nhau. Cái chết của Lâm Bưu và thành công mà ông đã từng giành được có quan hệ nhân quả rất khó nói rõ ràng. Có lẽ chỉ có bậc thiền sư nhìn thấu hồng trần mới biết được việc đó cuối cùng là gì. Nhưng những người mà đem thù oán trả ơn chắc chắn không thể có kết cục tốt đẹp. Những người bị Lâm Bưu hại đến chết thì cái chết của ông ta cũng không thể đền bù lại được. Khi nên cảm kích họ, thì Lâm Bưu lại sát hại họ một cách bỉ ổi. Cuối cùng, những người mà ông ta không giết nổi, lại đem ông ta giết đi. Viên Thế Khải ngóc dậy Lúc thái bình từ xưa đến nay, những người cam quyền phần nhiều thích an nhàn tiêu khiển. Phần nhiều là an nhàn hưởng lạc, tất nhiên dẫn đến không kiềm chế nổi ; hưởng lạc không kiềm chế nổi tất nhiên làm cho người ta sa đọa; sa đọa tất nhiên dẫn đến tội ác. Đây là câu danh ngôn chí lí của người xưa. Đáng tiếc là người trong cuộc u mê không tỉnh, thường tự do phóng khoáng thoả mãn lòng ham muốn đến tột độ, cuối cùng đưa đến thảm họa "bại quốc vong thân". Thoạt đầu, những người cầm quyền của Dân Quốc (Trung Hoa Dân quốc) suốt ngày ngồi không chẳng làm gì liền mời một vài bạn đến đánh bạc, lấy việc đó để giết thời gian, ý tứ ban đầu vốn không phải là ở trên tiền tài vàng bạc. Nhưng chiếu bạc vừa mở, tệ nạn ngày một tăng, có lúc một canh bạc đến mấy chục vạn quan kim không cánh mà bay, trong đó, vung tiền bạc như bụi đất nổi tiếng nhất là Đại công tử của Viên Thế Khải là Khắc Định và bộ trưởng Tài chính Lương Sĩ Di. Hai người này đã thua bạc một khoản lớn đến mấy triệu đồng. Lúc đó, Trung Hoa Dân quốc là dựa vào khoản vay của tập đoàn ngân hàng London, dự toán chi tiêu nhà nước đều có đăng kí tài khoản. Đường đường là Bộ trưởng tài chính cũng không thể thanh toán hàng triệu đồng này. Viên Khắc Định vẫn cho rằng đây không phải là vấn đề to tát, chỉ cần biến nhà thành nước, kho ngân hàng đều mặc anh ta dùng tiền vào việc khác. Cho nên, anh ta vẫn cứ đánh lớn không để lỡ. Một lần, Lương Sĩ Di nhắc đến việc thiếu hụt phải vay nợ một khoản lớn với Viên Khắc Định, nói : "chi tiêu tài chính quốc gia một khi phát biểu, một khoản lớn mấy triệu đồng không che giấu nổi. Anh và tôi đều phải chịu khiển trách nghiêm khắc và xử phạt". Viên công tử nghe xong lúc này mới phát giác sự việc quan trọng, lập tức hỏi biện pháp giải thoát. Lương Sĩ Di nói : "Hiện nay thiên hạ thái bình vô sự, khoản chi và quyết toán của quốc gia không thể có chênh lệch quá lớn. Thật sự muốn thanh toán khoản tiền lớn này phải cùng với quốc gia phát sinh sự kiện trọng đại". "Sự kiện trọng đại nào ?" Viên Thế Định hỏi. "Theo sự suy đoán của tôi Lương mỗ này, tâm lí của nhân dân đại đa số đều ghét nền cộng hòa. Nếu như có thể thỉnh cầu nguyên thủ khôi phục lại nền đế chế, chẳng những có thể sáng lập cơ nghiệp muôn đời, thì những khó khăn trước mắt cũng có thể qua đi một cách nhẹ nhàng". Tiếp đó, vị Bộ trưởng tài chính này lại đóng vai quân sư, phân tích thế cục lớn của thiên hạ cho Viên Thế Định : tâm lí nhân dân đã là như thế, các nhân vật quan trọng trong giới quân sự, đại bộ phận lại xuất thân từ những người thân cận của nguyên thủ. Giới chính trị thì không phải nói nữa. Về tài chính, hiện có một khoản vay lớn đủ đế sử dụng, tôi có thể đảm bảo. Chiến dịch Quý Sửu của Quốc dân đảng vừa mới gặp thất bại, hiện nay chạy trốn ra nước ngoài đã không còn vấn đề chống lại, đợi mưu kế chúng ta vạch xong, việc lớn phục hồi đế chế đã thành thì phái phản đối chẳng qua là con phù du rung cây, cả lũ sẽ diệt vong. Đây có thể là cơ hội tốt nhất ngàn năm khó gặp, trời cho con người." Một cuộc nói chuyện của Bộ trương tài chính nói làm cho Viên công tử trong lòng vô cùng khoái trá. Ông ta quả thật muốn biến công tử thành thái tử, chỉ sợ thời cơ chưa đến, nghe Lương Sĩ Di và mọi người xúi bậy, cho rằng lòng dân đã hướng theo, thế là liền nêu việc này với Viên Thế Khải. Không ngờ, bị Viên Thế Khải trách mắng cho một trận. Viên Thế Định vốn cho rằng dùng đôi lời sơ sài nói, ông ta có thể trở thành thái tử, nhưng cơn phẫn nộ của cha đã làm cho ông ta không dám nói thêm một lời nào nữa. Nhưng Viên Thế Định trên lưng ông ta còn có khoản nợ đánh bạc mấy triệu đồng đang đè xuống, nên Viên Thế Định không biết làm sao được lại phải quay sang cầu viện mẹ. Vu phu nhân nghe kế hoạch của con trai cũng không tránh khỏi động lòng. Bà vẫn không như phong thái Hoàng thái hậu, bà lập tức thay con trai nói hộ. Viên Thế Khải than thở nói : "Thằng nhãi này việc gì phải nóng vội như thế ! Ngày nay thiên hạ, ngoài họ Viên tôi ra còn ai ? Tôi sở dĩ chậm chưa phục hồi đế chế, thực tế chẳng qua là muốn nghĩ ra kế sách vạn toàn !". Lúc đầu Viên Thế Khải đã từng biểu thị "Vĩnh viễn không để cho chính thể quân chủ tái hiện ở Trung Quốc, lời thề này cũng hầu như không nên do bản thân Viên Thế Khải tôi tự mình phản bội. Song, ngày nay tôi bắt tay ủng hộ thực lực của để chế, mười mấy năm sau, các phần tử đối lập bị trừ bỏ, lúc đó vừa trở tay một cái là lấy được thiên hạ, chẳng lẽ còn nhầm lẫn" ? Vu thị nói: "Lời ông nói cũng rất có lí, nhưng việc phản đối, Lương Sĩ Di họ cũng đã nghĩ đến cho ông. Hiện nay lực lượng phản đối còn chua hình thành, giá như thật sự qua mười mấy năm, Tôn Trung Sơn, Hoàng Hưng họ quay trở lại, việc trời biến đổi, e rằng khi đó không biết làm sao mới tốt. Hơn nữa, với tài năng của mình, việc này còn không thể định đoạt, chẳng lẽ còn có thể trông chờ con đi làm ư ?" Lúc này phải là Viên Thế Khải cảm thấy lời của Vu thị rất có lí. Vu thị lại tiếp tục nói : "Thêm nữa, ông vất vả mấy mươi năm lại để làm cái gì ? Không nhân mình đang còn sống trên đời leo lên ngôi báu, lại hà tất phải vạch mưu kế lâu dài đến như thế ? Thật sự có thể làm một ngày Hoàng đế, hưởng thụ triều vái của hạ thần thì có chết cũng chắng còn hối hận!”. Viên Thế Khải cuối cùng cười và nói :"Thế thì để cho họ đi làm thôi !”. Về sau, Viên Thế Khải đã thật sự khôi phục đế chế, lại rất nhanh chóng bị diệt vong với sự phản đối của các tỉnh. Về sau có người nói, không ngờ mấy tên đánh bạc lại làm cho Hồng Hiến đế phát động sớm lại thất bại sớm, bằng không, dùng mưu lâu kế sâu của Viên Thế Khải thì thất bại liệu có thể nhanh như thế không ? Võ Tắc Thiên bêu xấu kẻ gièm pha và chọn người hiền Với tư cách là một người thống trị của nước lớn Võ Tắc Thiên không thiếu tài lãnh đạo. Hai câu chuyện dưới đây chính là bà đã làm sau khi nắm được quyền lớn. Chuyện thứ nhất là Võ Tắc Thiên bêu xấu kẻ gièm pha. Có một năm, vùng sông Hoài xảy ra đại hạn. Những người dân trăm họ chết rất nhiều, dân chúng hai bên bờ sông Hoài đã phải đánh bắt cá ăn trừ cơm. Nhưng triều đình lại ra lệnh cấm thiên hạ tùy ý giết mổ gia súc lớn, đánh bát cá và thu gom. Vào năm đó, đại thần Trương Đức sinh được một đứa con trai, bèn mổ trộm con cừu làm tiệc mời các bạn đồng liêu mừng việc vui của mình. Trong những người đến dự tiệc có một bạn đồng liêu là Đỗ Túc, đã lén lút giấu đi một miếng thịt cừu. Sau buổi tiệc liền đưa đến chỗ Võ Tắc Thiên, tố cáo Trương Đức vi phạm lệnh cấm. Ngày hôm sau, Võ Tắc Thiên đối chứng việc này ngay tại triều. Bà nói với Trương Đức : "Nghe nói mới đây ông có được một thằng con trai, chắc hẳn vô cùng phấn khởi chứ ?" Trương Đức vô cùng cảm kích trước sự quan tâm của Hoàng đế, với tạ không ngớt. "Tiệc mừng của ông lấy thịt từ đầu đến ?" Võ Tắc Thiên hỏi. Trương Đức biết sự việc đã bị tiết lộ ra rồi, khiếp sợ đến nỗi vội vàng quỳ xuống nhận tội. Võ Tắc Thiên nói : "Ta ra lệnh cấm giết mổ gia súc lớn, là đúng hay sai cho đến nay ta cũng chưa thể dự đoán được. Từ nay về sau ông mời khách cũng phải có chọn lựa". Nói xong, Võ Tắc Thiên lấy ra tờ tâu trình của Đỗ Túc để Trương Đức xem. Lúc này, Đỗ Túc đứng ở một bên xấu hổ đến mức không còn chỗ chui. Các quan cả triều cũng đều giận đối với hành vi bi ổi của Đỗ Túc. Về sau không ai còn dám tâu lên Võ Tắc Thiên những lời gièm pha nữa. Lời gièm pha đối với một tập thể mà xét là con giun rất có hại, tác dụng của nó ở chỗ phá hoại uy vọng của người khác phải gian khổ mới xây dựng nên, ngấm ngầm tiến hành công kích đối với người và sự vật chính nghĩa, hành động này luôn luôn bị người quân tử phản đối. Người khác xem anh là bạn bè, mà anh lại muốn lấy đó để hãm hại anh ta, thì anh nhất định là kẻ tiểu nhân bỉ ổi. Võ Tắc Thiên sở dĩ đem Đỗ Túc ra nói trước mặt mọi người, chính là vì bài xích kẻ tiểu nhân, không cho họ có cơ hội hành động. Làm như thế sau khi thành công là vô cùng cần thiết. Về câu chuyện thứ hai của Võ Tắc Thiên là chuyện bà chọn người hiền tài sau khi làm Hoàng đế. Trương Gia Trinh là một quan lại có kì tài, đã từng làm Huyện úy Bình Hương, thành tích khi đương nhiệm rất lớn. Một lần, Trương Tuần Hiến với tư cách là sứ thu thập tin của Hà Đống đến tuần tra công việc. Ông đang gặp phải một việc khó không thể quyết đoán, liền hỏi thị lại : ”Địa phương này liệu có người tài có thể cùng ta thảo luận việc này không ?". Thị lại liền giới thiệu Trương Gia Trinh với Trương Tuần Hiến. Thế là Trương Gia Trinh đã thay ông viết sớ tâu trình lên Hoàng đế Võ Tắc Thiên. Sau khi đến gặp, Trương Tuần Hiến đã trình bày rõ việc khó của mình hỏi Trương Gia Trinh, kết quả đã được giải đáp rất vừa ý. Võ Tắc Thiên sau khi xem sớ tâu, rất tán thưởng. Cho nên đợi khi Trương Tuần Hiến trở về triều, Võ Tắc Thiên bèn khen ông ta rất có năng lực làm việc. Trương Tuần Hiến liền giới thiệu Trương Gia Trinh một cách tường tận với Võ Tắc Thiên và cầu xin Võ Tắc Thiên đem chức quan của mình ban cho Trương Gia Trinh. Võ Tắc Thiên cho triệu Trương Gia Trinh đến, cùng ông ta thảo luận việc lớn của quốc gia. Sau khi gặp, Võ Tắc Thiên rất hài lòng đối với Trương Gia Trinh liền để cho ông ta làm Giám sát ngự sử. Lại còn cất nhắc Trương Tuần Hiến làm Tư huân trung lang, khen thưởng ông ta có thể tiến cử người hiền tài. Do Võ Tắc Thiên rất chú ý tuyển chọn nhân tài, cho nên trong thời kì bà nắm quyền, kinh tế xã hội được tiếp tục phát triển, sản xuất nông nghiệp cũng được nâng cao hơn trước. Nguyện ước ban đầu của Lỗ Chi Dụ Nguyên nhân làm cản trở người thành công xa rời nguyện ước ban đầu có rất nhiều, hoặc là lòng tham hoặc là lòng công danh quá mạnh, hoặc là lòng hám hư vinh quá lớn, hoặc là tầm nhìn ngắn. Dưới đây sẽ kể đến hoài bão và khí phách của một người trước thành công rất đáng được chú ý. Ông ta tên là Lồ Chi Dụ là một viên quan rất có tài, khí phách hào phóng, không cúi đầu nghe theo tập quán vào những năm Ung Chính và Càn Long. Khi Điền Văn Kính nhận chức Tổng đốc Hà Nam, Lỗ Chi Dụ làm việc dưới quyền ông ta. Do Điền Văn Kính, con người này rất nghiêm, những người dưới quyền đều rất sợ ông, đối với mệnh lệnh của ông đều vâng vâng dạ dạ, thậm chí đều không dám ngước đầu lên nhìn ông. Một hôm, Điền Văn Kính sai Lỗ Chi Dụ đi đến huyện Trung Mầu để tước ấn quan của Lí Huyện lệnh, sau đó làm quyền huyện lệnh. Lúc này Lỗ Chi Dụ nhất định là có một cợ hội thành công. Sau khi nhận mệnh lệnh, Lỗ Chi Dụ liền thay trang phục, mặc áo vải thường, cưỡi lừa đi đến huyện Trùng Mâu. Vừa đến địa phận của huyện đã gặp nhiều người già đứng đợi ở trên đường, họ biết Lỗ Chi Dụ vừa từ Khai Phong đến, liền hỏi ngay : "Nghe nói Tổng đốc muốn cử một người là Lỗ Chi Dụ đến thay Huyện lệnh của chúng tôi. Ông ở Khai Phong có biết tin này không ?" Lỗ Chi Dụ nhân tiện hỏi lại : "Các ông hỏi việc này làm gì ?" Các ông già tới tấp nói : "Tri huyện của chúng tôi rất có tài có đức, chúng tôi không an tâm để ông ta đi khỏi, vì thế mới ở đây hỏi thăm việc này” Lỗ Chi Dụ không nói gì nữa, lại đi về phía trước. Lại gặp một đám nho sinh đang cùng nhau bàn tán xôn xao, ông bèn đến gần để nghe. Vốn họ đang lo lắng cho vận mệnh của Lí Huyện lệnh. Đến huyện thành, Lỗ Chi Dụ liền đi gặp Lí Huyện lệnh. Vừa nhìn thấy người này cử chỉ văn nhã phong thái nhà Nho, bèn nói một cách khách sáo "Nhìn tướng mạo của ông không giống người hào phóng tiêu xài bừa bãi, mà dân chúng và sĩ tử trong huyện đều đồng thanh ca ngợi ông, đủ thấy ông làm quan cũng không tồi. Tại sao vừa mới nhận chức không lâu mà tiền trong kho lại hao hụt. ?’’ Lí Huyện lệnh trả lời : "Tôi là người miền Nam tỉnh Vân Nam, một mình xa mẹ già du học ở Kinh sư. Mười năm mới được chức quan Huyện lệnh, tôi đã vay tạm tiền bổng lộc của nhà nước đi đón mẹ già ở nhà đến đây, không ngờ mẹ già vừa đến, thì tôi nhận được tờ tấu phê truất, đây có lẽ là sự sắp đặt của số mệnh ! Hiện tại tôi đã treo ấn đợi ông đã từ lâu rôi".Sau khi Lỗ Chi Dụ nghe xong rất cảm kích, bèn thoái thác nói : "Miệng tôi đang khát lắm, xin chuẩn bị cho tôi ít nước nóng, tôi muốn tắm qua loa một chút." Ông một mình tự đến một phòng đế tắm, tâm trạng luôn luôn không yên tĩnh. Sau một lát, cuối cùng ông nói : "Theo người bình thường làm việc như thế, quyết không phải là người đại trượng phu !" Thế là ông đã ăn mặc lại gọn gàng, rồi cáo từ với Lí Huyện lệnh. "Ông muốn đi đâu ?" Lí Huyện lệnh hỏi một cách sửng sốt. "Lên tỉnh". Lí Huyện lệnh liền lấy ấn quan đưa cho ông ta, Lỗ Chi Dụ lại vẫn từ chối không nhận nó. Lí Huyện lệnh cuống lên bèn kéo tay ông ta kiên quyết đem ấn quan nhét vào tay ông ta, nói : "Tôi không thể làm liên lụy đến ông". "Phạch", Lỗ Chi Dụ dem ấn quan ném xuống đất, thét to lên : "Ông không hiểu Lỗ Chi Dụ !". Nói xong, ông liền đánh lừa đi thật nhanh. Người huyện Trung Mâu nghe nói, đều đốt hương tống tiễn ông. Về đến tỉnh, thành, trước tiên ông đến bái kiến Bố chánh sứ và Án sát sứ, nói rõ những nguyên nhân mình đi rồi lại về. Hai sứ đều oán ông ta nói : " Ông điên rồi ! Ông làm như thế không những các tổng đốc khác không thể cho phép, huống hồ Điền Tổng đốc !” Quả nhiên, ngày hôm sau Điền Tổng đốc sau khi nghe xong vô cùng tức giận, các quan chức khác cũng đều nhìn trộm ông ta. "Ông không làm việc ở huyện, quay ve làm gì ?" Tổng đốc hùng hổ hỏi. Lỗ Chi Dụ nói : "Tôi có việc cần báo cáo Ngài". Tổng đốc không thèm để ý đến ông ta, chỉ hỏi : "Ấn quan ở đâu ? "Ở trông tay Lí Huyện lệnh" Tổng đốc chế giễu nói : "Người đi tước ấn trong thiên hạ có ai giống cái ông này không ?" Mọi người đứng hai bên đều đông thanh nói : "Không có !" Lúc này, Lỗ Chi Dụ trật mũ của mình, tiến lên vài bước, rạp đầu xuống lạy Tổng đốc, nói lớn : "Xin cho phép Lỗ Chi Dụ tôi nói vài lời. Tôi vốn là một người nghèo khổ đói rét, vì mưu cầu chức quan nên đến Hà Nam, được chức quan huyện lệnh Trung Mầu, trong lòng vô cùng sung sướng, rất mong muốn liên tiếp mấy đêm đi đến Trung Mầu làm việc. Không ngờ đến địa phận Trung Mầu, nhìn thấy uy vọng của Lí Huyện lệnh trong lòng người dân và nho sĩ cao như thế, lại biết tiền kho thiếu hụt là do Lí Huyện lệnh đi đón mẹ già gây nên. Nếu Tổng đốc đại nhân đã biết là như thế vẫn để cho tôi đi đến đó, tôi mưu danh trục lợi trở về tay không, đây là tội lỗi của tôi. Nếu Tổng đốc không biết mà sai tôi đi đến đó, tôi về bẩm báo ngài, xin ý chỉ của ngài để không phụ lòng yêu ái nhân tài của đại nhân và ý đẹp của Hoàng đế lấy hiếu trị thiên hạ. Nếu như hiện tại ngài vẫn cho rằng Lí Huyện lệnh không đáng đồng tình và tha thứ, như thế thì tôi lại đi lấy ấn một lần nữa vẫn không muộn ! Tôi sao dám trái ý chỉ của đại nhân ?" Tổng đốc nghe xong không nói thêm một lời nào nữa. Lỗ Chi Dụ đứng dậy, cũng không cảm ơn, quay người đi thẳng. Vừa đi đến cửa đã nghe Tổng đốc đại nhân gọi ông ta. Ông ta lại quay về công đường quỳ xuống. Tổng đốc bảo ông tiến lại gần, sau đó lấy mũ của mình xuống đội lên đầu Lỗ Chi Dụ, khen : "Người đàn ông hiếm thấy, chiếc mũ này phải đội lên đầu ông mới đúng ! Không có ông, tôi hầu như đòi đem viên quan tốt như vậy tố cáo rôi ! Nhưng sớ tâu Hoàng đế đã phát đi rồi, làm thế nào đây ?" "Sớ tâu đã phát đi mấy ngày rồi ?" "Đã năm ngày. Đến "phi mã" cũng đuổi không kịp nữa". Lỗ Chi Dụ nói : "Đại nhân có ân huệ cho tôi, Lỗ Chi Dụ tôi nhất định sẽ đuổi kịp. Thời trẻ, tôi mỗi ngày có thể đi ba trăm dặm. Đại nhân nếu như quả thật muốn lấy lại sớ tâu, xin cho tôi một tên lệnh”. Tổng đốc liền đáp ứng ông ta ngay. Kết quả ngày thứ năm Lỗ Chi Dụ đã đuổi kịp và lấy lại sớ tâu về. Huyện lệnh Trung Mầu vì thế không bị miễn chức, Lỗ Chi Dụ cũng vì thế nổi tiếng thiên hạ. Lưu lại cho người đời sau Về mặt thời gian, lớp người sau là thời tương lai của lớp người đương đại. Những việc mà lớp người hiện tại chưa thể hoàn thành đều hi vọng vào lớp người sau. Có hi vọng như thế nào thì sản sinh cách giáo dục như thế. Cho nên, chúng ta hãy xem thử cách dạy dỗ và hi vọng của anh ta đối với con cái, thì có thể nhận ra tầng nấc giới hạn lí tưởng của người này. Lí tưởng của người ta thường thường sẽ phát sinh thay đổi sau khi thực hiện, nhưng sự thay đổi có thể là nội dung, cũng có thể là hình thức bề ngoài. Bạn có thể nói không rõ ràng lí tưởng của anh ta thay đổi, nhưng bạn chỉ cần xem qua anh ta dạy dỗ con cái như thế nào thì có thể biết được. Đường Thái Tông Lí Thế Dân từ sau sự biến Thừa Càn, liền lập Lí Trị làm Thái tử, chuẩn bị tương lai sẽ nối nghiệp mình. Nhưng ông lại e ngại Lí Trị sau khi là Hoàng thái tử sẽ tự do phóng khoáng, nên thường thường dạy bảo anh ta. Nhìn thấy con trai ăn cơm, ông liền nói : "Con biết nông dân cày cấy gian lao vất vả nên mới thường thường có cơm ăn". Nhìn thấy con trai cưỡi ngựa, ông lại nói : "Con phải biết ngựa cũng phải vất vả mệt mỏi, cho nên không nên vắt kiệt sức lực của nó, như thế mới có thể thường có ngựa cưỡi". Nhìn thấy con trai ngồi thuyền, ông liền gợi ý anh ta đạo trị nước : "Nước có thể đỡ thuyền, cũng có thể lật thuyền, muôn dân trăm họ cũng ví như nước, còn ông vua cũng ví như thuyền, con phải biết giữ được cân bằng, không nên để nước lật nhào thuyền". Nhìn thấy Lí Trị ngồi nghỉ dưới gốc cây, ông liền nói : "Cưa gỗ phải dựa theo dây vạch mới thẳng, con người phải nghe lời can ngăn mới có thể sáng suốt”. Mặc dù như thế, Lí Thế Dân vẫn thường thường băn khoăn lo lắng Thái tử bản tính nhu nhược. Vì vậy, ông đã từng nói với các đại thần : "Khi ta lớn như Lí Trị, tương đối không thể theo đúng nền nếp. Ngạn ngữ có câu : Chó rừng còn lo phải thuần phục như dê. Lí Trị từ bé đối xử với người khác rộng rãi, ta hi vọng nó sau khi lớn lên, không nên như khi nhỏ": Đường Thái Tông là một anh hào một đời oai phong lẫm liệt, những bài học ông giành được trên trường danh lợi và những thành công ông giành được nhiều như nhau, sâu sắc như nhau. Cho nên, ông bìêt rõ phải có phẩm chất như thế nào mới có thể nắm được quyền lực của mình. Sau Đường Thái Tông có Đường Đại Tông, ông có một con gái là Thăng Bình, Tử nhỏ đã rất tự do thích sao làm vậy, có việc là không nhường ai. Đại tông đem gả cô cho con trai đại Thần Quách Chi Nghi nổi tiếng đương thời là Quách Ái làm vợ. Hai vợ chồng Quách Ái thường hay cãi nhau, hai người ai cũng không thèm nhường ai. Có một lần, Quách Ái chế giễu vợ mình, nói "Cô cậy bố cô là Thiên tử, Thiên tử thì có gì là ghê gớm ? Tôi vẫn không thích làm Thiên tử đó ?" Lòng tự tôn của công chúa Thăng Bình bị tổn thương, một lèo ngồi xe chạy đến chỗ cha mình để mách với cha. Đại tông nghe xong liền quở trách con gái mình, ông nói : "Đạo lí ở trong đó, không phải là điều con dễ biết được. Nếu như quả thật nó nói nó không muốn làm Thiên tử như thế, thì thiên hạ chăng lẻ chỉ là của riêng nhà họ Lí con thôi a ?" Sự việc này bị Quách Tử Nghi nghe thấy liền trói con trai lại đưa đến cung xin trị tội. Đại tông trông thấy liền vội vàng nói : "Dân gian có câu ngạn ngữ, không ngây không điếc không phải là ông già, sự việc bên trong khuê phòng của con cái, không đáng phải nghe". Quách Tử Nghi đưa con trai về, sai người đánh cho vài chục gậy. Kết quả là công chúa Thăng Bình nhìn thấy vô cùng xót ruột, khóc lóc xin được tha cho chồng. Từ đấy hai vợ chồng lại hòa thuận, vô cùng ân ái với nhau. Mục đích của Đại tổng và Quách Tử Nghi không ngoài việc vì sự được mất của lợi ích đã được. Bởi vì sự việc cỏn con giữa con gái và con trai mà dẫn đến tại họa là không nên có. Điều mà họ khuyên răn cho người đời sau là chính đạo giữa con người rất quý báu : Phải giữ gìn được bản tính của bạn, mới có thể giữ được những cái mà bạn có. Quảng Bình vương vì muốn dân Tràng An xuống lạy Người ta khi bất đắc chí thường có thể chịu nhẫn nhịn, đợi sau khi đắc chí liền bắt đầu ngông cuồng không chịu nhẫn nhịn nửa phân. Ở đây, chúng tôi sẽ kể một câu chuyện ở thời Đường để nói rõ chịu nhân nhịn sau khi thành công có thể mang lại cái gì cho bạn. An Lộc Sơn nổi loạn mấy năm đều chưa được dẹp xong. Đường Túc tông liền sai Quách Tử Nghi và con trai lớn của mình là Quảng Bình vương Lí Dự cùng đi đánh Tràng An. Thoạt đầu, vì để thu hồi Kinh sư, Đường Túc tông đã từng ước hẹn với Huihe (Hồi Hột) : Ngày đánh chiếm được Tràng An thì đất đai và dân chúng thuộc về triều Đường, còn gấm vóc ngọc ngà và con gái thì thuộc về Hồi Hột. Cho nên Huairen Kehan (Hoài Nhân Khả Hãn) của người Hồi Hột đã sai con trai mình là Ye Hu (Diệp Hộ) dẫn bốn ngàn lính tinh nhuệ đến trợ chiến. Lí Dự và Diệp Hộ kết nghĩa làm anh em : Lí Dự hơn tuổi là anh. Diệp Hộ vô cùng vui sướng, quân lính của ông ta cũng hăng hái đem hết sức ra. Lí Dự và Diệp Hộ chia quân đánh gọng kìm tấn công quân phiến loạn, đã đánh bại quân trấn giữ ở Tràng An. Quân hai bên bắt đầu vào trong thành. Người của Diệp Hộ đã đòi Lí Dự thực hiện lời hứa trước đây. Lí Dự nghe xong, vội vàng xuống ngựa đến vái lạy trước ngựa của Diệp Hộ, nói : "Hiện nay vừa mới thu phục được Tây Kinh, giá như tức khắc tiến hành cướp bóc, như thế thì dân trăm họ của Đông Kinh sẽ đều có thể liều chết giữ thành cho bọn phiến loạn, Đông Kinh sẽ không thể nào đánh chiếm được. Xin đợi đến khi vào được Đông Kinh xong sẽ thực hiện lời hứa trước !" • Nhìn thấy Lí Dự như thế, Diệp Hộ vô cùng kinh ngạc cũng vội vàng xuống ngựa vái lạy trước Lí Dự nói : "Tôi nhất định vì điện hạ lấy được Đông Kinh". Ngay lập tức, Diệp Hộ liền dẫn quân lính của mình vòng qua phía Nam thành để đóng trại ở bên bờ sông, không có một ai vào thành quấy nhiễu. Quân và dân của nhà Đường nhìn thấy cử chỉ đó của Lí Dự đều cảm động đến phát khóc, nói : "Quảng Bĩnh vương thật sự là chủ của Hoa Hạ!“ Túc tông sau khi nghe sự việc này cũng rất sung sướng, khen Lí Dự đã hạ mình để vươn tới, đến bản thân mình cũng khó có thể làm nổi. Lí Dự dẫn quân lính tiến vào thành vừa mới chiếm được, muôn dân trăm họ đều đứng chật hai bên đường đón họ, tiếng hoan hô lẫn nước mắt đầu buồn. Lí Dự vẻn vẹn ở lại trong thành ba ngày, liền dẫn quân rút ra khỏi, kỉ luật nghiêm minh, không xâm phạm một tí gì, rất được sự ủng hộ của dân chúng. Về sau họ lại chiếm được Đông Kinh, binh lính Hồi Hột liền muốn tự do cướp bóc. Lí Dự vô cùng lo lắng, không đành lòng để dân chúng lại chịu đau khổ, liền nhờ các cụ già có danh tiếng ở trong thành dùng gấm vóc lụa là vạn tấm đem hối lộ quân Hồi Hột, còn mình lại đem lời nói với Diệp Hộ. Diệp Hộ thấy ông có lòng thành vì dân suy nghĩ như vậy, mình cũng cảm thấy không nên làm tổn hại việc của người khác, bèn dẫn quân lính của mình trở về Tây Vực. Một tai họa lớn đã được tránh khỏi như thế. Xưa nay cầu cứu người ngoại tộc đánh nhau, sau khi việc thành công rất ít khi không có loạn xảy ra. Chỉ có duy nhất lần này, Diệp Hộ vì bị cảm động bởi nghĩa cử của Quảng Bình vương, nên đã không dung túng quân linh của mình. Vì sự được mất của mình, có một số người thường có thể kiềm chế điệu bộ lên mặt, chịu nhẫn nhịn để cầu toàn. Nhưng vì lợi ích của nhiều người, họ thường không vui lòng làm. Lưu Bang vì để chiếm được thiên hạ tự mình bằng lòng đi nịnh nọt Hạng Võ, nhưng sau khi đánh bại Hạng Võ, ông chưa hề từng khuất phục ai bao giờ. Đấy không phải vì ông không có đối thủ, mà là ông không muốn lại phải khuất phục. Vì mình mà phải khuất phục chắng qua là sự khuất phục nhỏ nhặt, vì đại đa số người mà phải khuất phục là khuất phục lớn lao. Khuất phục nhỏ được đền đáp lại nhỏ, khuất phục lớn được đền đáp lớn hơn. Làm theo cái "vốn dĩ" Sau này, Lí Hanh kế ngôi Hoàng đế, ông chính là Đường Túc tông. Túc Tông tức khắc sai người đi mời Lí Tiết về. Hai người gặp nhau như xưa, rất gần gũi thân mật. Khi hai người đi ra ngoài, hai ngựa đi ngang nhau, ngủ sóng đôi cùng giường, Túc Tông đối xử với Lí Tiết giống hệt như khi còn làm Thái tử. Sự việc bất cứ lớn nhỏ đều cùng bàn bạc với ông ta. Đường Túc Tông muốn để cho Lí Tiết làm Hữu Tể tướng. Lí Tiết một mực từ chối, ông nói : "Bệ hạ đối đãi tôi giống như khách quý bạn tốt, vượt xa hẳn Thừa tướng, việc gì tôi phải khó chịu !" Cách làm của Lí Tiết làm cho những người ngày nay đang cố leo lên cao rất khó lí giải, cho rằng ông ta thông minh một đời, mơ hở một thời. Thực ra, Lí Tiết làm như thế là rất sáng suốt. Quan hệ của ông với Lí Hanh là bạn bình dân áo vài, giá như ông cởi áo vải ra khoác lên quan phục, quan hệ giữa họ với nhau sẽ có thể phát sinh thay đổi, từ quan hệ bạn bè biến thành quan hệ vua tôi. Việc xác lập của quan hệ bạn bè ở chỗ hai người đối xử nhau bình đẳng ; còn cơ sở quan hệ vua tôi lại là lợi dụng lẫn nhau. Cho nên, bạn bè sẽ mãi mãi là thân mật, còn vua tôi thì tràn ngập nghi ngờ và đề phòng, đúng với cái gọi là "bạn với vua như bạn với hổ". Lí Tiết không bằng lòng làm quan là vì để không đánh mất người bạn như Lí Hanh. Ông có được một người bạn như thế đã như là giành được một tài sản lớn nhất, việc gì lại còn phải làm Tể tướng ? Sau khi bạn có được một tài sản làm cho nhiều người ngưỡng mộ, thì bạn không nên lại không thỏa mãn, mà đi theo đuổi cái khác. Lí Tiết không bằng lòng nhận làm quan chính là không bằng lòng vứt bỏ cái căn bản. Mới đầu, ông chỉ là một kẻ sĩ áo vải, ông không xứng muốn có sự xa xỉ quá lớn. Lí Tiết nắm chắc đối với điều "căn bản” tới mức cực ki chuẩn xác. Ông đã từng tham mưu một việc trong nhà cho Đường Túc Tông, cũng là giải quyết vấn đề khó từ gốc cho Túc Tông. Một hôm, Túc Tông bàn bạc với ông vấn đề để cho đứa con trai nào của mình làm nguyên soái. Việc gia đình này lại liên quan đến việc nước, cho nên vô cùng quan trọng. Túc Tông có hai người con trai, một người là Quảng Bình vương Lí Dự và một người nữa là Kiến Tống vương Lí Viêm. Lí Viêm anh tuấn quả đoán mà lại có tài thao lược, Túc Tông rất muốn để ông ta làm nguyên soái. Lí Tiết nêu lên ý kiến khác : Kiến Tông vương cố nhiên là có tư chất tốt làm nguyên soái, nhưng Quảng Bình vương là anh của ông ta. Nếu như tương lai Kiến Tống vương công danh có thành thích, thì bệ hạ đế Quảng Bình vương làm gì đây ?" "Có thể kế thừa ngôi vua của ta". Túc vương nói, sau đó lại nói tiếp : "Nó đã có ngôi vua, lại việc gì phải xem chức nguyên soái quá quan trọng ?" Lí Tiết nói : "Quảng Bình vương còn chưa chính thức kế vị, ngày nay thiên hạ còn lắm tai lắm nạn, lòng người tất sẽ hướng ở nơi nguyên soái. Nếu như Kiến Tông vương công lớn hoàn thành, bệ hạ tuy không muốn để cho ông ta làm Thái tử cũng không thể được. Chẳng lẽ bệ hạ đã quên bài học của Thượng hoàng Thái Tông rồi phải không ?" Vón là Đường Thái tông Lí Thế Dân theo cha đi diệt Tùy dựng nhà Đường. Cao tổ Lí Uyên có lòng đem ngôi vương giao cho Lí Thế Dân có công lao lớn nhất, khả năng giỏi nhất. Kết quả là anh, em của Lí Thế Dân đều không đồng ý, cuối cùng dẫn đến anh em chém giết lẫn nhau. Lí Thế Dân đã giết chết anh và em của mình, để mình kế thừa vương vị. Đây chính là sự biến "Tuyên Vũ môn" nổi tiếng trong lịch sử. Lí Tiết không muốn tấn bi kịch này diễn lại, cho nên ông đã nhắc khéo Túc Tông. Túc Tông đã nghe lời ông, liền để cho Quảng Bình vương làm nguyên soái, các tướng đều theo sự lãnh đạo của ông. Sau khi Lí Viêm biết, không những không oán Lí Tiết, mà còn rất cảm kích ông ta, đã đặc biệt đến chỗ Lí Tiết để cảm ơn ông, nói "Đây vốn dĩ chính là mong muốn của tôi"Theo cái ”vốn dĩ" để làm sẽ không thể xuất hiện tai nạn. Theo quy định của thời ấy, chí có con trưởng mới có thể nối ngôi Hoàng đế. Quy định này đã tồn tại gần một ngàn năm rồi, đã trở thành cái gốc của lẽ làm người. Khi chọn lựa và quyết định khác xung đột với nó thì tai nạn sẽ phát sinh. Vi để không lại đi theo vết xe đổ nữa, Lí Tiết đã kiến nghị Túc Tông chọn con trưởng mà không phải là chọn con thứ đã tránh trước được một cuộc tranh giành quyền vị có thể xảy ra. Kế dòng nước sạch của Lí Thế Dân Thế là, liền có người dâng sớ tâu, thỉnh câu Hoàng đế quét sạch bọn gian thần. "Ai là gian thần ?" Lí Thế Dân đem vấn đề này xin Bùi Cự chi bảo. Bùi Cự liền đề ra chủ ý cho ông, nói : "Bệ hạ muốn biết ai là kẻ gian thần, thì đem ra một vấn để thảo luận với các đại thần, bệ hạ giả vờ phẫn nộ, xem ai vẫn dám tranh luận theo lí. Người không một chút chịu nghe theo là người cương trực ; người sợ uy nghiêm của bệ hạ mà nịnh hót họa theo, thì chính kẻ đó là gian thần". Lí Thế Dân nghe xong kiến nghị này không tán thành lắm. Ông nói : "Ông vua của một nước giống như đầu nguồn của dòng nước, còn các đại thần lại giống như dòng nước. Nếu như làm bẩn dòng nước, lại đi tìm đầu nguồn trong sạch, thì trên đời này đâu có chuyện như vậy ? Bản thân ông vua là một người gian trá, làm sao lại đi trách móc người bầy tôi không ngay thẳng ? Ta làm Hoàng đế phải lấy lòng thành thực đế đối với người trong thiên hạ, bậc đế vương các đời trước hay giở trò quyền thuật con con mà tự đắc ý, ta thường cảm thấy hố thẹn thay cho họ". Nếu như bạn là một người lãnh đạo, bạn sẽ không nên dùng những thủ đoạn không chính đáng để lãnh đạo người dưới quyền của bạn, bằng không họ cũng sẽ dùng cách tương tự để đánh lừa bạn. Bạn lừa gạt họ, có lẽ không thể có những tổn thất quá lớn. Còn khi họ lừa bạn, trái lại sẽ mang đến cho bạn những tổn thất khó lường. Cho nên, nghệ thuật lãnh đạo của người lành đạo chính là làm cho người ta vui vẻ tiếp nhận sự lãnh đạo của bạn, mà còn tín nhiệm bạn. Có một lần, Lí Thế Dân vẫn luôn lo lắng quan lại dưới quyền nhận quà hối lộ. Để tìm hiếu tình hình, ông đã ngấm ngầm sai người đi hối lộ thử những ông quan lại này. Có một ông quan đã mắc vào tròng, ông ta đã nhận một tấm lụa. Lí Thế Dân rất bực tức, ra lệnh giết ông ta. Lúc đó, Bùi Cự khuyên can nói : 'Làm quan nhận hối lộ của người ta, quả thực nên ghép tội chết. Nhưng bệ hạ đặc biệt sai người đem đi hối lộ, làm cho ông ta nhận, đây gọi là bẩy người sa vào vòng pháp luật. E rằng đây không phải là cách làm mà Khổng Tử đã nói : "Dùng đạo đức để dạy dỗ khuyên bảo dân, dùng lễ phép để uốn nắn dân". Sau khi nghe xong, Lí Thế Dân liền tĩnh ngộ ra ngay, không truy cứu tội của viên quan đó nữa. Lí Thế Dân lấy thành tín làm gốc để quản lý những người dưới quyền, nhưng con người ta đôi lúc vẫn khó tránh có thể phạm phải sai lầm. Có thể sửa chữa sai lầm của mình trước nhiều người, cũng là một biểu hiện của lòng thành tín. Sau sự kiện đó, Lí Thế Dân lại cùng kiểm tra các bản án nhận hôi lộ. Một vị đại tướng đã nhận lụa của người khác biếu xén. Lần này Đường Thái tông không nổi giận mà lại đổi cách làm lần trước, trước mặt mọi người lại tặng thưởng ông ta mấy chục tấm lụa. Một vị đại thần tâu lời can gián nói : "Vì ông ta tham nhận hối lộ lẽ ra phải phạt tội ông ta, mà bệ hạ lại thưởng lụa cho ông ta. Ông ta sẽ cảm thấy bệ hạ không trách phạt ông ta, đây phải chăng lại khuyến khích thêm lòng tham của ông ta ?" Lí Thế Dân nói : "Không phải, nếu ông ta là một người biết liêm sỉ, được lụa mà ta thưởng cho ông ta, thì nỗi sỉ nhục còn khó chịu hơn là bị hình phạt. Nếu như ông ta không biết xấu hổ, chẳng qua chỉ là đồ cầm thú mà thôi, thì giết ông ta còn có tác dụng gì ? Kế lo xa của Lã Di Giản Sau khi Lã Di Giản nghe tin, một hồi lâu mới bắt đầu đi lên triều, trên đường đi cứ lững thững khoan thai đi. Hoàng đế đợi đến nỗi không nhẫn nại được nữa, vừa nhìn thấy ông liền nói : "Ta ốm đã lâu, hôm nay mới hơi đỡ một chút, muốn gặp ông một lát, tại sao ông đến chậm chạp như thế ?" Hoàng đế nói rất có lí, nhưng Lã Dí Giản lại cũng có lí do của mình. Ông ung dung nói : "Bệ hạ ốm lâu không khỏi, triều đình trong ngoài có vẻ lo lắng, một khi đột nhiên triệu kiến cận thần, thân lại hoang mang chạy đến gặp bệ hạ, e rằng làm kích động dân chúng, cho rằng đã xảy ra điều gì !" Nghe xong lời nói của Lã Di Giản, Nhân tông cảm thấy rất có lí, khen ông có tư chất tể tướng. Mọi việc đều có thể nên lo xa một chút sẽ có thể tránh được phát sinh hậu quả không tốt. Bất cứ bạn làm việc gì vẫn luôn có các kết quả chờ đợi bạn, cho nên bạn phải trước hết nghĩ đến kết quả không tốt có thể xảy ra. Sự việc này dưới đây có thể thuyết minh đạo lí này. Nhân vật chính của câu chuyện này vẫn là Lă Di Giản. Câu chuyện xảy ra vào những năm thời Tống Chân tông. Chân tông có một bà phi họ Lí, bà đã sinh cho Chân tông một đứa con trai. Nhưng cậu bé này vừa mới sinh ra đã bị Thái hậu cướp đi làm Hoàng Thái tử. Lí thị là người phụ nữ rất biết nín nhịn, bà không hề lên tiếng, mà vẫn giống như các cung nữ khác. Những người trong cung đều sợ Thái hậu, cho nên không ai dám bàn luận đến sự việc này. Vì thế Thái tử sau này lớn lên vẫn không biết mẹ đẻ của mình là bà họ Lí. Về sau, Lí thị mắc bệnh nặng, mới được nâng lên Thần phi, không được bao lâu thì chết. Hoàng Thái hậu muốn dùng nghi lễ cung nữ đưa ra ngoài làm thủ tục tang sự của Lí thị. Lúc này, Lã Di Giản lại tâu lên, nói : "Tang lễ của Lí phi nên theo hậu táng”. Hoàng thái hậu rất không vui, hỏi vặn lại Lã Di Giản nói : "Lí thị chẳng qua là một cung nữ, tướng công vì sao phải đế hậu táng ?" Lã Di Giản không vạch trần chân tướng của sự việc ở trước mặt. Thái hậu. Bởi vì ông biết Thái hậu thật ra không mong muốn người khác đều nhớ sự thực này. Ông bèn nói : "Thần đã làm Thừa tướng thì sự việc không phân trong ngoài, đều phải thu xếp". Thái hậu tức giận lên, trách móc nói : "Chẳng lẽ ông muốn li gián quan hệ của mẹ con tôi chăng ?" Lã Di Giản nói : "Nếu như bệ hạ không nhớ đến vương triều của họ Triệu thì thần không dám nhiều lời nữa. Nếu như Thái hậu còn nghĩ đến vương triều Đại Tống, như thế thì tang lễ của Lí phi phải nên theo hậu táng”. Thái hậu đã thức tỉnh lại một cách đột nhiên, liền ra lệnh dùng tang lễ "nhất phẩm phu nhân” để an táng Lí thị. Khi hạ táng, Lã Di Giản lại nói với những người chôn cất : "Thần phi phải mặc y phục của Hoàng thái hậu, khi nhập liệm dùng Thủy ngân đổ đầy quan quách, bằng không sau này đừng nên trách tôi chưa bảo các ông". Những người phụ trách chôn cất không dám làm theo, liền đi xin Thái hậu chỉ bảo. Thái hậu không phản đối. Về sau Thái tử lên nối ngôi vua, ông chính là Tống Thái tông. Cho mãi khi Thái hậu chết, người xung quanh mới bảo mẹ đẻ của ông là Lí thị, lại còn nói Lí phi là có người dùng thuốc độc giết hại. Nhân tông vô cùng đau khổ, bèn ra lệnh dùng tang lễ Hoàng hậu để an táng lại mẹ của mình. Khi người ta mớ quan tài ra, thấy khuôn mặt của Lí phi vẫn như ngọc không hề có một chút dấu tích trúng độc nào, Nhân tông liền than vãn nói : "Lời người ta làm sao có thể tin theo một cách tùy tiện được ?" Ông trong lòng không một chút oán trách Thái hậu, còn răn dạy người khác nói : "Từ nay về sau các người không được động một tí là nói Thái hậu trước kia buông mành nghe quốc sự". Như vậy, một vụ án lớn trong cung sắp sửa xảy ra đã được dập tắt. Có người nói : Nếu như không phải là Lã Di Giản có tâm nhìn xa, khéo sắp xếp trước thì không biết phải chết bao nhiêu người nữa, nổi loạn lên lớn đến chừng nào.THỜI KÌ SUY BẠI - THUẬT HƯNG BẠI Cang long, hữu hối. (Rồng bay đến nơi cực cao không thể xuống, sẽ có thể hối hận) Đây là một hào cuối cùng của quẻ Càn, cũng là hào kết thúc cuối cùng. Lúc này rồng đã đạt đến cực điểm, không còn vị trí cao hơn có thể lên nữa. Vật đạt đến chỗ cực đỉnh phải quay lại, vị trí tuy cao nhưng ngược lại không bằng vị trí hào năm", cho nên sinh ra hối hận. "Cang" có nghĩa là cực cao, cũng có nghĩa là khô khan. Rồng bay lên không trung khô khan, vừa không có cách gì bay lên cao nữa, lại không thể hạ xuống, rơi vào trạng thái "tiến thoái lưỡng nan" : tiến lên không được, mà thoái cũng không xong. Bất cứ sự việc gì sau khi phát triển đến tột đỉnh của nó, sẽ bắt đầu suy bại, trượt xuống chỗ thấp nhất. Trong thời kì này, cần biết ở trên cao nghĩ đến nguy nan, tự biết cảnh giác, không thể theo đuổi thỏa mãn một cách quá mức. Khổng Tử giải thích nói : "Quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ nhi vô phụ, thị dĩ động nhi hữu hối dã". (Ý nói : nếu như cho mình là cao quý hơn người khác, tức đầ mất địa vị tôn kính, bởi vì ăn trên ngồi trốc có thể mất lòng dân, nên dù dưới quyền có người hiền, cũng không được họ phò tá, trong tình huống này hễ động một tí là có thể có hối hận). Sáu vị trí đã hình thành, vị trí "cang" là cao nhất cũng là thời kì cuối cùng. Do đó Khổng tử gọi là "quý mà không có chức vị". Lúc này không phải là không có người hiền tài. Nhưng họ đều nằm ở vị trí ở dưới, không có cách nào với tới vị trí cao này để phò tá "rồng ở trên cao không". Rồng ở trên cao (cang long) chễm trệ ở trên cao, không có dân chúng, không có chức vị, không có người hiền tài phò tá, rơi vào cảnh ngộ cực kì bất lợi. Rồng ở vị trí hào thượng (thượng cửu) không nên hành động, hễ hành động là để sinh hậu hối. Nhưng con người ta không thể không hành động được, sau khi có hành động mới có thể sửa chữa sai lầm, mới có thể chuyển thành khá hơn. Suy bại là điều tất nhiên. Nhưng có thể thông qua sức lực của con người đế cứu vãn và chấn hưng. Trong sách "Tam thập lục kế" có kế bại chiến, chính là mưu kế vận dụng đế cứu vãn thất bại. Ở đây chúng tôi gọi nó là : Kế hưng suy. Giả thuyết "Ngân hàng tương lai đáp ứng" Xét về triết học, sự vật là trải qua lượng biến đạt đến chất biến. Khi lượng biến đến mức nhất định không đủ để chất biến, thì sự vật không thể sản sinh bước nhảy vọt mới. Lúc này, có một số người bắt đầu sốt ruột, mong hoàn thành sớm biến đối của bước nhảy vọt. Khuếch trương quá mức năng lực của mình, dùng chiến lược cấp tiến (tiến gấp gáp) dẫn đến kết quả sự việc trái với ý nguyện. Sau khi đánh đuổi được người Nhật Bản, đánh bại Quốc dân đảng, đồng thời giành được thắng lợi trên chiến trường Triều Tiên, trong đầu óc của Mao Trạch Đông tràn ngập lòng tin tất thắng. Lòng tin này đã bị ông sai lầm dẫn vào trong quyết sách Kinh tế quốc gia. Sau chỉnh đốn kinh tế đơn giản nhưng lại là tất yếu, Mao Trạch Đông đã dẫn dắt nhân dân của ông rảo bước tiến vào vương quốc tư tưởng của ông. Khau hiệu "nhiều nhanh tốt rẻ xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Mao Trạch Đồng bản thân đã lún sâu vào vũng bùn của tư tưởng chủ nghĩa vụ lợi cấp tiến. "Bao nhiêu việc, xưa nay gấp, một vạn nâm quá lâu, chỉ giành trong sớm chiều", Mao Trạch Đông đã viết ra tâm trạng và lí tưởng đương thời của mình trong lời từ, với khí thế bao la. Nhân dân Trung Quốc cũng theo đó đã từng sống những ngày tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội “một ngày bằng hai mươi năm". Trong dân gian có một truyền thuyết như sau : Mao Trạch Đông là vòng chuyển thế cuối cùng của đức Phật Như lai. Theo thiên số, ông phải có một vạn năm ngồi trong thiên hạ. Nhưng do trong những năm bình sinh không thể tìm được nguời thừa kế của mình, ông bèn quyết định mình ngồi hết một vạn năm trong thiên hạ. Cho nên ông là một người duy nhất sống một ngày bằng một năm. Truyền thuyết tất nhiên không phải là hiện thực, nhưng nó nói lên một đạo lí : vội mong thành công là không thể làm được. Cũng giống như bạn tiêu hết số tiền dư ở ngân hàng quá sớm, mình cũng sẽ sớm trở thành kẻ hành khất không một xu dính túi. Các nguồn vốn của chúng ta như thời gian, tinh lực v.v... cũng sẽ giống như tiền bạc tồn tại trong "ngân hàng tương lai". Khi tiền vốn hiện có của bạn không đủ, bạn đành phải ngửa tay vay ngân hàng tương lai, đế bảo đảm thực hiện kế hoạch hiện thời. Theo quy luật của ngân hàng có vay có trả, tiền vay và tiền trả phải bằng nhau, bạn đành phải đem sinh mệnh làm giá phải trả đề gán cho "ngân hàng tương lai". Chúng tôi đem lí thuyết này đặt tên là giả thuyết "ngân hàng tương lai đáp ứng”. Làm như thế đối với những người không tiếc sinh mệnh thì thiếu gì lí lẽ, nhưng đối với nhiều người thì đây không phải là cách làm đáng được đề xướng. Nhiều nhà khoa học và các danh nhân có thành tích, phần nhiều tuổi thọ rất ngắn, về y học và các phương diện khác, chúng ta có thể tìm được rất nhiều nguyên nhân, nhưng từ giả thuyết "ngân hàng tương lai đáp ứng" mà chúng ta bàn đến ở trên để phân tích, lại có kết luận và nhận thức mới. Những người này phần nhiều là những người chúng ta gọi là có lòng sự nghiệp cực mạnh, họ đem tinh lực cả đời mình đều gửi vào sự nghiệp họ yêu thích. Để giành được thành tựu lớn hơn, họ không thể không bỏ ra sự cố gắng và trả giá mà người bình thường không thể bỏ ra. Họ kí kết với "ngân hàng tương lai" một nghị định thư vay một khoản vay lớn. Trên thực tế, không chỉ là những nhà khoa học và các danh nhân đáng kính và đáng thương làm như thế, mà nhiều người trong chúng ta hầu như đều làm như thế. Tâm lí coi trọng hiện thực, xem nhẹ tương lai, làm cho loài người đã làm mất đi quá sớm nhiều bản năng và tiềm năng, làm cho tuổi thọ trung bình của loài người chỉ có thể ở khoảng 70 tuổi. Còn các nhà khoa học phát hiện tuổi thọ của loài người có thể ở khoảng trên dưới 120 tuổi. Năm mươi năm cuối cùng của loài người đều bị "ngân hàng tương lai" đòi lại. Nói cách khác, bị chúng ta đã đền cho "ngăn hàng tương lai”. Có nhiều phương pháp giải quyết vấn đề khó này. Sau khi người ta nhận thức ra điều tai hại này, các nhà khoa học sẽ có thể tìm ra nhiều phương pháp cung cấp cho bạn. Nhưng trước khi bạn tiếp thu cách chữa trị theo các nhà khoa học, bạn cần phải tiếp nhận lời khuyên của chúng tôi. Lời khuyến cáo này làm cho bạn có thể nhẹ nhàng tiếp thu cách chữa trị và thu được thành quá hữu hiệu. Lời khuyên cáo này rất đơn giản, tức là : Thấy đỡ bệnh thì thu nhận. 5000 cân dầu thô chỉ đổi được 1 cân rượu Mao đài Năm xưa, mỏ dầu Đại Khánh đã từng làm cho nhân dân Trung Quốc tự hào ném đi chiếc mũ của một nước thiếu dầu ra tận Thái Bình Dương, "một tiếng gầm của công nhân Trung Quốc" đã kết thúc thời đại người Trung Quốc dùng dầu nước ngoài. Đại Khánh đã trở thành điển hình của nên công nghiệp Trung Quốc, Vương Tiên Hi đã trở thành "con người thép" mọi người học tập. Nhưng, trải qua biến đổi gần ba mươi năm, trong những năm tháng hai thể chế cũ mới tồn tại song song, Đại Khánh đã từ trong hai loại thể chế từng trải nhiều cái khổ kìm kẹp hai phía, bước lên con đường gian nan sống bằng cách ăn vay. Mỗi năm Đại Khánh cần 31 tấn vật liệu sắt thép, 55 tấn xi măng. Nhưng, hiện tại mỗi tấn sất thép từ 670 đồng (nhân dân tệ) giá cũ tăng đến 3700 đồng, xi măng mỗi tấn từ 62 đồng tăng đến 280 đồng. Đại Khánh rất ít có thể mua được 100% giá bình thường của tư liệu sản xuất, để bảo đảm sản xuất đã buộc phải mua vào với giá cao. Thế là, hàng năm đều phải đầu tư số vốn lớn vào. Chỉ tiêu này đã từ hàng chục triệu mỗi năm tăng đến 600 triệu vào năm 1988. Mà nhà nước mỗi năm cấp chỉ có 5 triệu đồng đã buộc phải tăng đến 230 triệu đồng. Mấy năm gần đây, Mỏ dâu Đại Khánh phải đaa62u tư số vốn cần thiết không thể ít hơn. Mỗi năm thường phải hơn một tỉ đồng. Đầu tư ngày càng cao, nhưng sản xuất ra sao ? Sản phẩm chủ yếu của mỏ dầu Đại Khánh là dầu thô sản lượng trong 30 năm sau khi đưa vào sản xuất, bình quân mỗi năm tăng 28% Sau năm 1981, sản lượng hàng năm đều giữ ở mức 50 triệu tấn trở lên. Nhưng giá phân phối dầu thô trong nhiều năm lại không hề điều chỉnh qua, đến năm 1989 vẫn bán ra với giá 100 đồng mỗi tấn, tương đương với 1/5 giá dầu thô ngoài kế hoạch ở trong nước Như thế đã xuất hiện kết quả kiểu chuyện "nghìn lẻ một đêm" : 8 cân đầu thô đổi lấy 1 cân xì đầu. 5000 cân dầu thô chỉ đối được 1 cân rượu Mao Đài. Ở thời kì suy sụp, người Đại Khánh chỉ dựa vào "tinh thần con người thép“ trước đây cũng không có cách gì cải tử hoàn sinh từ trong hàn tay ma của kinh tế, họ không có cách nào để hành động, vừa không thể với tới cái lợi của kinh tế hàng hóa, cũng lại không thể tránh được cái hại của kinh tế sản phẩm. Thế là đành phái đi vay của người khác. Hiện nay, Đại Khánh đã phải vay tới 10 tỉ đồng của 18 ngân hàng trong và ngoài nước. Khi thiên thời (tức cơ hội) phát sinh biến đối, Đại Khánh đã không thể từ trong cơ chế cũ nặng nề thoát ra khỏi, thay đổi cách đánh của mình, đã tạo nên thế cục trước mắt. Không thể thoát ra, có thể việc xảy ra có nguyên nhân. Nhưng chúng ta từ trong hiện thực của Đại Khánh nhận thức được : Cứng nhắc là một trong nguyên nhân tạo nên suy sụp. So sánh với công nghiệp ô tô của Trung Quốc, thì chiến lược của công nghiệp dầu mỏ là lạc hạu. Khi ô tô nước ngoài ùn ùn nhập vàọ Trung Quốc đã thương hại lòng tự tôn của người Trung Quốc, giáng một đòn nặng nề vào nền công nghiệp ô tô Trung Quốc, thì công nghiệp ô tô Trung Quốc rất nhanh chóng bước lên con đường liên doanh Trung Quốc với phương Tây, làm cho nó cải tử hoàn sinh. Santana của Thượng Hải, Auti của Trường Xuân đã được người Trung Quốc tiếp nhận. Công nghiệp dầu mỏ của Trung Quốc lại không nắm chắc thời cơ bước lên thị trường quốc tế. Việc này không thể không nói đó là một trong những nguyên nhân chính tạo nên Đại Khánh ngày nay. Kịp thời chuyển tay lái là thủ đoạn quan trọng nhất để cải tử hoàn sinh. Đường Huyền Tông gạt lệ tại trạm Mã Ngôi Hoàng đế đương thời tại ngôi là Đường Huyên tông. Đây là một vị Hoàng đế phong lưu. Ông đã yêu sâu sắc một mĩ nữ là Dương Ngọc Hoàn, lòng yêu cháy bỏng này e rằng cũng rất khó tìm trong Hoàng đế các thời. Dương Ngọc Hoàn sau khi được cưng chiều, anh trai của bà cũng theo đó được trọng dụng. Dương Quốc Trung dần dần nắm được quyền lớn trong vương triều Đường, đã làm nhiều việc xấu, người trong thiên hạ không có ai không căm ghét ông ta. về sau An Lộc Sơn lấy danh nghĩa quét sạch bọn được vua cưng chiếu đã dấy binh chống Đường. Quân của An Lộc Sơn đã rất nhanh chóng chiếm được mấy thành trì, ép sát kinh đô. Đường Huyền tông lúc này mới từ trong sự dịu dàng của Dương Ngọc Hoàn tĩnh lại, đối mặt với hiện thực của máu và lửa. Dương Quốc Trung sợ mình bị quân nổi loạn giết chết, do đó hết sức kiến nghị Hoàng đế chạy đến Tứ Xuyên lành nạn. Vì ở đó địa thế hiểm trở, để phòng thủ. Đường Huyền tông không có cách nào khác đành dẫn vợ con của mình già trẻ rút chạy về Tứ Xuyên, còn những người khác đều vứt bỏ lại ở Kinh đô. Những người trong gia quyến hoàng tộc chạy trốn này đã nếm đủ mùi khổ cực ở trên đường, mà còn gặp sự đối xử lãnh đạm của muôn dân trăm họ ở hai bên dọc đường. Khi họ đi đến được Hàm Dương đã là giữa trưa mà vẫn chưa được ăn cơm. Lúc này, dân chúng địa phương đã bưng đến cơm xoàng với thức ăn đạm bạc cho họ ăn. Ngoài mấy đứa trẻ nhỏ, những người khác đều không chịu ăn, kết quả là đành mang bụng đói chạy về phía trước. Khi đến trạm Mã Ngôi, các tướng sĩ do đói nên đều mệt mỏi đi không nổi. Họ bắt đầu oán trách Hoàng đế, ai cũng không muốn đi tiếp nữa. Đại tướng Trần Nguyên Lễ nhìn thấy cảnh tượng này cũng khó xử, ông cho rằng gây nên họa hoạn này là Dương Quốc Trung, chỉ có giết chết ông ta di mới có thể làm yên lòng quân sĩ. Thế là ông liền thông qua Lí Phụ Quốc truyền đạt đến Hoàng Thái tử. Nhưng Thái tử cũng không dám quyết định. Lúc này, hai mươi mấy sứ giả người Thổ Phiên chặn lại ngựa của Dương Quốc Trung đòi ông ta cho đồ ăn để ăn. Mấy quân sĩ liền hô lớn : "Dương Quốc Trung và người Hồ âm mưu làm loạn!“ mọi người ập tới, chém chết Dương Quốc Trung và sứ giá người Thổ Phiên. Họ đem đầu của Dương Quốc Trung dùng ngọn giáo quảy lên, treo ở bên ngoài trạm. Đường Huyền tông nghe tiếng ồn ào ở bên ngoài, liền ra xem thấy Dương Quốc Trung đã bị giết chết, vừa kinh hoàng vừa sợ sệt. Ông ra lệnh quân sĩ tập hợp về doanh trại, nhưng không có ai làm theo lời ông. Huyền tông rốt cuộc phát hiện thấy ở thế giới này không phải là lời của ông từng câu đều sai khiến nổi. Ống liền sai Cao lực sĩì đi lèn hỏi. Trần Nguyên Lễ nói : "Dương Quốc Trung mưu phản, Quý Phi không nên hầu hạ bên Hoàng đế nữa. Mong bệ hạ hãy nên đau khổ dứt bỏ, đem Dương Quý phi xử tử tại chỗ”. Đường Huyền tông đắm đuối sa trong lưới tình, hồi lâu không đưa ra được quyết tâm. Trong chọn lựa người yêu và quốc gia, trong lòng ông đang tràn ngáp đấu tranh kịch liệt. Một vị đại thần quỳ trước mặt ông nói : "Hiện nay nhiều người phẫn nộ khó dẹp, việc an nguy đang ở phía trước, mong bệ hạ hãy nhanh chóng quyết định". Đường Huyền tông vẫn do dự không quyết, ông nói : "Quý phi quanh năm ở chốn thâm cung, đâu biết được âm mưu của Dương Quốc Trung tạo phản ?”. Lúc này, Cao lực sĩ cũng tiến lên phía trước tâu : "Quý phi nương nương thực tế không có tội, nhưng các tướng sĩ đã giết chết Dương Quốc Trung, mà Quý phi vẫn ở bên bệ hạ thì họ làm sao đã để yên ? Mong bệ hạ hày nghĩ kĩ, ba quăn mới yên ổn được, cũng chính là sự yên ổn của bệ hạ". Đường Huyên tông rút cuộc phải chọn quốc gia của ông. Nhưng ông không nỡ tâm nhìn thặy Dương Quý phi chết, cũng không muốn bà phải chịu cái khổ lìa đầu khỏi cổ. Thế Là cho Cao lực sĩ dẫn Quý phi đến chùa thờ Phật dùng dải lua thắt cổ chết. Sau đó dùng xe chở thi thể của bà đặt ở trên sân trạm. Tran Nguyên Lễ và mọi người sau khi nhìn thấy thi thể của Dương Quý phi đều quỳ xuống tạ tội với Đường Huyẻn tông. Tướng sĩ ba quân đều đông thanh hô muôn năm. Ở thời kì suy sụp, nhất định phải tiêu diệt bọn tiểu nhân, chỉ có như thế mới có thể lấy lại được lòng tín nhiệm của người khác đối với bạn. Lời thế Tức Nhưỡng của Cam Mậu Một hôm, Tần Võ vương nói với hai Thừa tướng tả hữu : Quả nhân sinh ra ở đất Tây Nhung, chưa được nhìn thấy sự thịnh vượng của Trung Nguyên. Nếu được thông đến Ba Xuyên, được đi chơi giữa các vũng Củng Lạc, thì dù có chết cũng không hận ! Hai ông, ai có thể vì ta đi đánh nước Hàn ! Hữu Thửa tướng Chuliji (Sủ Lí Tật) không đồng ý cách làm này. Tả Thừa tướng Cam Mậu lại nói : 'Xin đại vương cho thần đi du thuyết nước Ngụy, hẹn họ cùng đánh nước Hàn". Tần Võ vương đồng ý kế hoạch của Cam Mậu. Sau khi Cam Mậu đến nước Ngụy, quả thật thuyết phục được Ngụy vương cùng đánh nước Hàn. Nhưng Cam Mậu sợ Chuliji có ý xấu ở bên trong, bèn đầu tiên sai trợ thủ của mình về báo cáo Tần Võ vương, trước không nên đánh chiếm nước Hàn. Tần Võ vương liền tự mình đến thành ở biên giới là Tức Nhưỡng đế đón tiếp Cam Mậu hỏi han kết quả. Vừa gặp mặt, Tần Võ vương đã nêu lên cầu hỏi của mình với Cam Mậu : “Người Ngụy đã đồng ý cùng với chúng ta đánh chiếm nước Hàn, tại sao ông lại không đồng ý tiến quân ?" Cam Mậu không trực tiếp trả lời câu hỏi này mà lại kế với Quốc vương một câu chuyện :Khi Tăng Sâm ở Phí, nước Lỗ có một nguời trùng họ trùng tên với ông ta đã giết người, có người bèn đến báo với mẹ ông, mẹ ông không tin, được một lát lại có một người chạy đến nói với bà rằng con trai của bà đã giết người, mẹ Tăng Sâm vẫn ngồi dệt với ở đó, không tin. Thời gian chưa được bao lâu lại có một người khác chạy đến nói Tăng Sâm đã giết người, lúc này bà mẹ Tăng Sâm mới tin, liền vội vàng vượt tường chạy mất. Cam Mậu kể xong câu chuyện này, nói với Tần Võ vương, Tăng Sâm vốn là một người hiền tài, mẹ ông vô cùng tin tưởng ông ta, nhưng ba người đều nói ông giết người, làm cho mẹ ông cũng không thể không nghi ngờ con trai mình được. Thần không đù tài sánh với Tăng Sâm, mà sự tin tưởng của đại vương đối với thần cũng không chắc đã tin tưởng như mẹ Tăng Sâm tin con mình. Hàng ngày, những người nói xấu thần e rằng không chỉ có vài ba người. Thần lo lắng sau khi thần xuất quân, đại vương cũng có thể nghi ngờ thần giống như mẹ Tăng Sâm nghi ngờ con bà. Tần Võ vương đã hiếu rõ dụng ý của Cam Mậu, lập tức tỏ thái độ nói : "Ta không tin nghe lời xu nịnh của người khác là được." Thế là hai người liền uống máu ăn thề và cất giữ giấy viết lời thề. Cam Mậu lúc này mới dẫn quân đi đánh thành Nghi Dương của nước Hàn. Vây đánh liền năm tháng trời cũng không thể đánh chiếm nổi. Lúc này, Chuliji sợ Cam Mậu thật sự chiếm được thành Nghi Dương thì công lao to hơn mình, liền kiến nghị với Tần Võ vương rút Cam Mậu về, ông nói : "Cam Mậu ở ngoài lâu như thế, không rút về sợ ông ta có mưu đồ làm chính biến". Tần Võ vương cũng cảm thấy có lí, thế là ông liền sai người triệu Cam Mậu trở về kinh sư. Cam Mậu biết có người đưa lời xiểm nịnh, nhưng ông không rút quân về, lại sai người đem một là thứ gửi về cho Tần Võ vương. Trong thư ông chi viết vẻn vẹn có hai chữ Tức Nhưỡng. Tần Võ vương xem xong, lập tức tỉnh ngộ lại, liền sai người đi chi viện Cam Mậu ngay. Cuối cùng Cam Mậu rất nhanh chóng đánh chiếm được Nghi Dương. Thời kì suy yếu, điều quan trọng nhất giữa vua và bầy tôi là phải tín nhiệm. Cam Mậu hiểu rất sâu đạo lí này, cho nên sau khi liên hợp với nước Ngụy, không xuất quân ngay mà tranh thủ sự tín nhiệm của Tần Võ vương. Khi ông đánh mãi vẫn không chiếm được, thì lời xiểm nịnh đã đến. May mà Cam Mậu có lời thề trước đó, mới không bị mười phần đã được chín lại phái bỏ dở. Đấy là sự thông minh nhìn thấy trước của Cam Mậu. Đôi khi, một quốc gia suy sụp thường thường bắt đâu từ lời nịnh hót. Trong lịch sử có rất nhiều vị hôn quân phần nhiều không tin vào tướng soái. Trong họ có người là lẩm cắm ngu đần, có người là đa nghi, còn có người là kiêu ngạo phóng túng. Những nhược điểm của họ thường bị các đối thủ lợi dụng, dùng kế phân gián và kế li gián, làm cho bản thản họ làm hại các danh tướng và bầy tôi tốt. Liêm Pha, Lí Mục của nước Triệu và Nhạc Nghị của nước Yên đều vì thế mà bị giáng chức và bị giết chết. Khi sự nghiệp không phồn thịnh, sự tín nhiệm đối với cấp dưới là nhân tố quan trọng cứu vãn vận mệnh thất bại. Minh Thái Tổ dùng pháp luật cứu suy sụp Quả nhiên không vượt ngoài dự đoán của nhiều người, Chu Nguyên Chương vừa ngồi xuống liền truyền Âu Dương Luân lên điện. Âu Dương Luân là chồng của công chúa An Khánh, con gái thứ ba của Chu Nguyên Chương Xuất thân là Tiến sĩ, quan được phong chức Phò mã Đô úy. Ông là người thông minh, thông kim bác cổ, rất được Chu Nguyên Chương coi trọng. Hoàng đế truyền gọi Âu Dương Luân có việc gì lớn ? "Buôn chè tư nên phạm tội gì ?" Chu Nguyên Chương hỏi một cách nghiêm nghị. Âu Dương Luân lập tức hiểu sắp xảy ra việc gì, liên vội vàng quỳ xuống, dập đầu xin tộí với bố vợ. Vốn là, thời kì đầu triều Minh vì kinh tế tiêu điều, để tăng thêm tài chính quốc gia quy định chè là là vật tư xuất khẩu quan trọng, còn định riêng luật về chè, buôn bán và vận chuyển chè tư là có tội. Mà Âu Dương Luân lại dựa vào quyền thế "hoàng thân quốc thích" buôn bán chè tư mưu lợi riêng lớn. Kết quả là bị các quan địa phương mật tâu tố cáo đến chỗ Chu Nguyên Chương. "Đem ra Ngọ môn chờ chém !” Chu Nguyên Chương nói xong, đứng dậy bãi triều. Tất cả các đại thần còn chưa rõ câu chuyện ra sao thì Chu Nguyên Chương đã không thấy ở đó nữa. Sau khi nàng công chúa thứ ba biết tin, khóc lóc chạy đến chỗ cha mình xin tha thứ. Phụ vương nói một cách vô cùng cảm khái : "Luật Đại Minh" sau khi đặt ra, lại ban bố "Luật lệ Đại Minh” còn phát ra "Đại lệnh", dân chúng trong thiên hạ mỗi nhà đều có một quyển, các quan địa phương dẫn đầu đi giảng giải trong dân ở địa phương để cho người trong thiên hạ tôn trọng và giữ gìn pháp luật. Nếu ta không giết nó thì làm sao thu giết phục nổi người trong thiên hạ ? Ba khắc sau giờ ngọ, một tiêng pháo nổ, đầu Âu Dương Lân rơi xuống đất Ở thời kì suy sụp của nền kinh tế quốc gia tiêu điều, dùng thủ đoạn kinh tế cứu vãn là một phương diện, điều quan trọng hơn là phải lập pháp. Dùng pháp luật để duy trì sự phát triển bình thường của kinh tế. Việc này Chu Nguyên Chương làm được rất giỏii. Có pháp luật có thể dựa, chấp hành pháp luật phải nghiêm, chấp pháp là bảo đảm của lập pháp. Chu Nguyên Chương đã xứ tử hình con rể là vì đã buộn chè tư, đây chính là vì để làm được chấp pháp phải nghiêm. Là một đế vương khai quốc, Chu Nguyên Chương rất hiểu tác dụng của pháp luật. Từ sự việc dưới đây, cũng có thể thể hiện tư tưởng pháp quyền của ông. Từ khi hoạn quan tồn tại ở hoàng cung đến nay, luôn luôn tồn tại như là một con mọt của tập đòan thống trị cao nhất. Nhiều đế vương bị họn hoạn quan thao túng trở thành bù nhìn, thậm chí họ trực tiếp tham dự vào cuộc tranh chấp việc nhà của nội bộ hoàng tộc. Minh Thái tổ biết tác dụng xấu của hoạn quan, cho nên không cho họ tham chính. Có một lần, một hoạn quan hầu hạ ông rất lâu, ngẫu nhiên bàn chuyện chính sự với người khác, sau khi Minh Thái tổ biết được, lập tức đuổi ông ta ra khỏi cung và ra lệnh nguời này suốt đời không được vào cung nữa. Ông lẩy việc đó căn dặn các đại thần thân cận: “Những người bị thiến làm hoạn quan, sớm khuya hầu hạ hai bên. Một lời khuyên thành thật dù nhỏ của họ, cũng đủ giành được lòng hân hoan của bậc quân vương. Cho nên thời gian mà dài thì sẽ "cáo mượn oai hùm" chiếm lấy quyền bính, trở thành thế lớn điều khiển không nổi. Ta đặt ra phép tắc hễ là hoạn quan không được tham dự chính sự. Hôm nay ta đuổi ông ta di, chính là để răn tương lai". Vì thế, ông ra lệnh cấm nội thị không được học và đọc sách, hoạn quan sau này cũng đều là người mù chữ. Hạn chế đối với thế lực không có lợi cho việc thống trị của mình, không nghi ngờ gì nữa có thể tránh được nhiều điều phiền phức. Bởi vì những thế lực này khi bạn xuất hiện suy sụp, sẽ có thể chỗn vùi bạn. Sư diệt vong của Đông Ngô Đọc “Tam quốc diễn nghĩa", chúng ta phân tích từ mấy trận lớn mà Đông Ngô đã từng đánh thấy về chiến lược, tập đoàn Đông Ngô đã phạm sai lầm của chủ nghĩa bảo thủ. Trận Xích Bích và trận Di lăng, trên thực tế đều là cách đánh phòng ngự. Lần đầu là Tào Tháo dẫn đại quân mấy chục vạn người từ phương bắc ầm ẩm kêo đến, với thế diệt Lưu nuốt Ngô. Lúc đó tập đoàn Tôn Quyền xuất hiện phái đầu hàng và phái chủ chiến. Cho mãi đến khi Gia Cát Lượng du thuyết thành công, mới làm cho Tôn Quyền chạy theo hướng chiến trường Xích Bích. Lần thứ bai là Lưu Bị dốc hết đại quân Thục Hán về phía Tôn Quyền đế đánh trả thù cướp trộm Kinh Châu. Tập đoàn Tôn Qụyền đã tỏ ra hỏang hốt lo sợ, cầu hòa không thành, cuối cùng bị ép phải xuất chiến. Phụ vương nói một cách vô cùng cảm khái : "Luật Đại Minh" sau khi đặt ra, lại ban bố "Luật lệ Đại Minh” còn phát ra "Đại lệnh", dân chúng trong thiên hạ mỗi nhà đều có một quyển, các quan địa phương dẫn đầu đi giảng giải trong dân ở địa phương để cho người trong thiên hạ tôn trọng và giữ gìn pháp luật. Nếu ta không giết nó thì làm sao thu giết phục nổi người trong thiên hạ ? Ba khắc sau giờ ngọ, một tiêng pháo nổ, đầu Âu Dương Lân rơi xuống đất Ở thời kì suy sụp của nền kinh tế quốc gia tiêu điều, dùng thủ đoạn kinh tế cứu vãn là một phương diện, điều quan trọng hơn là phải lập pháp. Dùng pháp luật để duy trì sự phát triển bình thường của kinh tế. Việc này Chu Nguyên Chương làm được rất giỏii. Có pháp luật có thể dựa, chấp hành pháp luật phải nghiêm, chấp pháp là bảo đảm của lập pháp. Chu Nguyên Chương đã xứ tử hình con rể là vì đã buộn chè tư, đây chính là vì để làm được chấp pháp phải nghiêm. Là một đế vương khai quốc, Chu Nguyên Chương rất hiểu tác dụng của pháp luật. Từ sự việc dưới đây, cũng có thể thể hiện tư tưởng pháp quyền của ông. Từ khi hoạn quan tồn tại ở hoàng cung đến nay, luôn luôn tồn tại như là một con mọt của tập đòan thống trị cao nhất. Nhiều đế vương bị họn hoạn quan thao túng trở thành bù nhìn, thậm chí họ trực tiếp tham dự vào cuộc tranh chấp việc nhà của nội bộ hoàng tộc. Minh Thái tổ biết tác dụng xấu của hoạn quan, cho nên không cho họ tham chính. Có một lần, một hoạn quan hầu hạ ông rất lâu, ngẫu nhiên bàn chuyện chính sự với người khác, sau khi Minh Thái tổ biết được, lập tức đuổi ông ta ra khỏi cung và ra lệnh nguời này suốt đời không được vào cung nữa. Ông lẩy việc đó căn dặn các đại thần thân cận: “Những người bị thiến làm hoạn quan, sớm khuya hầu hạ hai bên. Một lời khuyên thành thật dù nhỏ của họ, cũng đủ giành được lòng hân hoan của bậc quân vương. Cho nên thời gian mà dài thì sẽ "cáo mượn oai hùm" chiếm lấy quyền bính, trở thành thế lớn điều khiển không nổi. Ta đặt ra phép tắc hễ là hoạn quan không được tham dự chính sự. Hôm nay ta đuổi ông ta di, chính là để răn tương lai". Vì thế, ông ra lệnh cấm nội thị không được học và đọc sách, hoạn quan sau này cũng đều là người mù chữ. Hạn chế đối với thế lực không có lợi cho việc thống trị của mình, không nghi ngờ gì nữa có thể tránh được nhiều điều phiền phức. Bởi vì những thế lực này khi bạn xuất hiện suy sụp, sẽ có thể chỗn vùi bạn. Sư diệt vong của Đông Ngô Đọc “Tam quốc diễn nghĩa", chúng ta phân tích từ mấy trận lớn mà Đông Ngô đã từng đánh thấy về chiến lược, tập đoàn Đông Ngô đã phạm sai lầm của chủ nghĩa bảo thủ. Trận Xích Bích và trận Di lăng, trên thực tế đều là cách đánh phòng ngự. Lần đầu là Tào Tháo dẫn đại quân mấy chục vạn người từ phương bắc ầm ẩm kêo đến, với thế diệt Lưu nuốt Ngô. Lúc đó tập đoàn Tôn Quyền xuất hiện phái đầu hàng và phái chủ chiến. Cho mãi đến khi Gia Cát Lượng du thuyết thành công, mới làm cho Tôn Quyền chạy theo hướng chiến trường Xích Bích. Lần thứ bai là Lưu Bị dốc hết đại quân Thục Hán về phía Tôn Quyền đế đánh trả thù cướp trộm Kinh Châu. Tập đoàn Tôn Qụyền đã tỏ ra hỏang hốt lo sợ, cầu hòa không thành, cuối cùng bị ép phải xuất chiến. Chiến lược bảo thủ đã phản ánh nhược điểm tính cách của nhân vật hat nhân của tập đoàn Tôn Quyên, chủ yếu nhất là tính cách của Tôn Quyền. Tôn Sách có danh là Tiểu bá vương có nhận xét rất rõ ràng đối với em trai của mình. Khi sắp mất ông nói với Tôn Quyền : "ở đất Giang Đông, quyết định mưu kế giữa hai bên, tranh hùng với thiên hạ thì em không bằng anh. Nhưng chọn và dùng người hiền tài để mọi người dốc lòng bảo vệ Giang Đông thì anh không bằng em." Tôn Sách bình luận đối với năng lực của em là Tôn Quyền rất chính xác. Tôn Quyền không phải là người chiếm thiên hạ, nhưng lại là người giữ thiên hạ. Ông từng ngồi giữ đất Giang Đông hàng mấy chục năm trời, nhưng phạm vi thế lực vẫn mãi không được phát triển lớn hơn, vùng tác chiến trước sau vẫn chỉ ở vùng hạ lưu sông Trường Giang, phía bắc không vượt quá Hợp Phì, phía Tây không quá Tương Dương. Những người sau Tôn Quyền kế thừa tư tưởng chiến lược của Tôn Quyền lại bỏ lỡ cơ hội mấy lần mở rộng ra bên ngoài, tranh bá chủ thiên hạ. Khi Khổng Minh sáu lần ra Kì Sơn, khi quân hai bên Thục Ngụy đánh nhau giằng co khó phân thắng bại, tập đoàn Tôn Quyền lẽ ra nên "nhờ lửa vào cướp" hoặc mở chiến trường mới, nhưng họ lại. không đưa ra đựợc hành động quân sự lớn, càng không có chiến lược thừa lúc yếu xông vào, đánh chiếm nội địa của Tào Ngụy. Khi Tư Mã Ý dẫn quân đi viễn chinh Liêu Đông, vì cuộc chiến Thục Ngụy ở Kì Sơn vừa mới kết thúc, quân Ngụy hết sức mệt mỏi, binh lực ở Trung Nguyên thiếu trống, Đây chính là thời cơ tốt nhất của Đông Ngô xuất quân lớn mạnh của mình. Đông Ngô lại chần chừ do dự, ngồi nhìn thời cơ tốt. Sau khi Tào Ngụy chia thành ba cánh quân, phát động tấn công toàn diện vào Tây Thục, Đông Ngô lẽ ra nên phái đại binh vào Trung Nguyên đế mở rộng biên giới, làm lớn mạnh thực lực, đồng thời lại có thể có tác dụng vây Ngụy giải quyết khó khăn của nước Thục. Nhưng tập đoàn Đông Ngô thiếu khí phách, sợ dẫn lửa thiêu mình. Kết quả là sau khi Thục mất, quân Tấn đã ầm ầm cắt quân vượt sông, tập đoàn Đông Ngô hòng dùng lạch trời Trường Giang để giữ Giang Đông bị một trận đã phá tan. Do tuân theo chiến lược bảo thủ, về xây dựng quân đội Đông Ngô cũng bộc lộ nhược điểm binh chủng đơn nhất. Đế phòng thủ Giang Đông họ chỉ coi trọng xây dựng thủy quân, không lưu ý xây dựng bộ kị binh. Cho nên họ không có đủ khả năng đi đánh chiếm Trung Nguyên. Trận đánh ở bến Tiêu Gian đã bộc lộ rõ sức chiến đấu của bộ kị binh Đông Ngô vô cùng yếu. Nhưng Đông Ngô sau trận đánh này vẫn chưa xem xét lại mình, mà là càng không dám vượt ra ngoài khuôn khổ, chỉ đánh trận ờ ven sông. Tư tưởng chiến lược này dẫn đến các tướng sĩ Đông Ngô mất ý chí chiến đấu, bằng lòng với trạng thái tinh thần hiện tại, không nghĩ đến tiến thủ. Cho nên trong các tướng soái Đông Ngô, ngoài vài người như Chu Du ra, không có thêm tướng soái thét ra lửa nữa. Lục Tốn về sau là người tân tiến, nhưng sau thắng lợi của trận đánh lớn Di Lăng cũng không thừa thắng tiến quân mở rộng biên giới được. Chiến lược bảo thủ, cuối cũng làm cho tập đoàn Đông Ngô chiếm giữ Giang Đông tám mươi năm bị diệt vong. Không tiến thủ thì không tồn tại. Đây là nguyên nhân cơ bản Đông Ngô bị diệt vong. Gia Cát Lượng khai phá miền Tây Nam Thất thủ Kinh Châu lại là dấu hiệu báo trước sự suy bại của Thục Hán. Thất bại Di Lăng làm cho sức sống của Thục Hán tổn thương lớn, dần dần đi xuống. Về phương diện ngoại giao, liên minh Ngô Thục bị phá vỡ, Thục Hán bị cô lập không được chi viện ; về phương diện quân sự, cánh quân mấy chục vạn người phút chốc bị hủy diệt, đã không đủ sức tổ chức xây đựng lại được một lực ượng lớn mạnh nữa. Về sau này khi Khổng Minh sáu lần ra Kì Sơn, cũng chỉ có thể dẫn được mười vạn đại quân, đủ thấy lực lượng quân sự đã yếu. Lúc này, Gia Cát Lượng lâm nguy nhận ủy thác, giúp ấu chúa Lưu Thiền chủ trì việc lớn. Đế chấn hưng nước Thục, Gia Cát Lượng căn cứ tình thế đương Thời, chế định lại quốc sách, quyết định khai phá miền Tây Nam, mở rộng bờ cõi, bổ sung quốc lực. Đương thời ba nước ở thế chân vạc vẫn tồn tại như cũ, mặc dù nước Thục chiến bại, nhưng quân Tào Ngụy vẫn không dám tiến thẳng một lèo bừa vào, quân Ngô cũng không có chí lớn tiến thủ, chi mong bảo vệ được nước nhà là được. Cho nên thế chân vạc tạm thời đi vào ổn định. Ba nước, mỗi nước đều có ưu thế để dựa, bất kể là nước nào, đều không thể nhanh chóng nuốt chửng hai nước kia. Lúc này, sách lược đúng đắn của nước Thục là phải lợi dụng thủ đoạn ngoại giao và quân sự, cố gắng giữ được thế cân bằng, ổn định này. Sau đó nhân cơ hội phát triển và tích tụ lực lượng, đế chờ thời cơ đến, sẽ ra quân Bắc phạt cướp lại chính quyền ở Trung Nguyên, Gia Cát Lượng kịp thời điều chỉnh quốc sách. Nhằm thẳng vào miền Tây Nam, nơi lực lượng yếu kém, mở mang hậu phương lớn chiến lược, đây chắc chắn là một quốc sách rất có tầm nhìn xa. Khai thác miền Tây Nam là một thành tựu vĩ đại của Gia Cát Lượng trong lịch sử Trung Quốc, đối với việc thống nhất và phát triển của dân tộc Trung Hoa lập nên công lao chiến đấu khó nhọc. Tây Nam đương thời gọi là miền đất của Nam Man, chủ yếu là các dân tộc thiểu số cư trú, kinh tế phát triển rất lạc hậu, so với Trung Nguyên khác nhau một trời một vực. Xét về chiến lược nó là hậu phương lớn của nước Thục; phân tích từ sức mạnh quân sự, nó hầu như không có quân đội ra trò, dẫn đến quân Thục cứ mổi lần đánh là thắng; xét từ góc độ kinh tế, vùng Tây Nam so với vùng Ba Thục giàu có hơn nhiều. Vì thế. từ các phân tích trên chứng minh : Để chấn hưng quốc gia. Gia Cát Lượng chọn Tây Nam, ít nhất đã có được ba ưu thế nói trên Giá như Gia Cát Lượng lúc này chỉ cầu mong kết cục chiến lược thế chân vạc ốn định, không tích cực tiến thủ tới nơi yếu kém, như thế thì nước Thục sẽ giống nước Ngô, yên phận ở một góc, không làm nên gì. Cuối cùng vẫn tránh không nổi kết cục diệt vong. Trước lúc thật sự thực thi chiến lược khai phá Tây Nam, Gia Cát Lượng xuất phát từ cách cục của toàn bộ chiến lược đã dùng hành động quả đoán, liên minh với Đông Ngô vừa mới đánh bại nước Thục. Bởi vì muốn xuất quân đi Tây Nam, cần phải trước tiên ổn định Trung Nguyên. Đề phòng Ngụy và Ngô nhân chỗ yếu xông vào. Tào Ngụy luôn luôn muốn diệt gọn nước Thục, rơi vào tình trạng tích cực tiến công, một khi có thời cơ là sẽ có thể phát động chiến tranh. Sau khi Đông Ngô và nước Thục bị rạn nứt, cơ bản là tùy thuộc vào Tào Ngụy, nếu như hai nước liên hợp lại với nhau thì nguy cơ của nước Thục lại ập đến. Cho nên Gia Cát Lượng vẫn dùng chiến lược lấy hai yếu làm một mạnh, chủ động vứt bỏ thù oán trước đây cùng bắt tay với Đông Ngô đế hòa hảo. Vì những điều đó, ông đã cử một quan ngoại giao nổi tiếng là Đặng Chi đi du thuyết Tôn Quyền : Thục có thế hiểm trở của núi non, Ngô có thế ba sông, nếu hai nước liên kết hòa hợp với nhau như môi với răng, tiến có thể thôn tính thiên hạ, mà thoái có thể đứng vững được ở thế chân vạc. Kết quả là đã xúc tiến lập được liên minh Ngô Thục lần thứ hai, từ đó tránh được chiến lược của Tào Ngụy đập tan từng nước một. Như thế, Gìa Cát Lượng thông qua chiến lược liên kết với bên ngoài, khai thác bên trong, làm cho nước Thục chuyển nguy thành yên, quốc lực được khôi phục nhất định. Chiến lược này và quốc sách "mở cửa đối với nước ngoài, phát triển tốt ở trong nước" mấy năm trước Đặng Tiểu Bình dùng khi chấn hưng nền kinh tế Trung Quốc có cái hay có hiệu qua như nhau. Có thể nói, khong có cải cách mở cửa và phát triển tốt ở trong nước sẽ không thể có sự quật khởi của Trung Quốc ngày nay. Tinh thần "không sự sống" Trên chiến trường quân hai bên chém giết nhau, tự nhiên phải cần có tinh thần không sợ chết. Cần có tinh thần này để chiến đấu. "Sợ chết thì không làm được tướng", câu nói cổ xưa này nói hết sức thấu triệt. Nhạc Phi chính là một vị tướng không sợ chết như thế. Đối với sự xâm lược của quân Kim, ông căm giận cao độ, đã thề phải đánh thẳng đến tận Hoàng Long phủ, lấy lại non sông đã mất. Trên chiến trường ông đã vào sinh ra tử, thông lĩnh quân lính đánh trận. Tại trấn Chu Tiên ông đà dùng số ít tinh binh đánh bại đại quân của Kim Ngột Thuật, uy danh lừng lẫy, anh hùng hào kiệt của Lưỡng Hà đều theo về với ông Hồi đó, các châu ơ Trung Nguyên cùng hẹn ngày huy động nhiều người hội hợp với quân của Nhạc Phi. Trên những lá cờ họ cầm trong tay đều viết chữ "Nhạc" làm hiệu lệnh. Như thế, từ nước Yên về phía Nam, hiệu lệnh của người Kim đều không được thi hành. Kim Ngột Thuật mưu toan dốc hết sức của toàn quân chống lại Nhạc Phi, nhưng cả vùng Hà Bắc không có một ai hưởng ứng lời kêu gọi của ông ta. Ông xót xa than thở : "Tôi khởi binh từ phương Bắc đến nay, chưa từng có thất bại thảm hại như hôm nay !" Các tướng sĩ dưới quyền ông ta cũng đều tới tấp đến đầu hàng Nhạc Phi, có người bí mật nhận hiệu lệnh của Nhạc Phí. Nhạc Phi nhìn thấy tình thế này, đà nói với mọi người với vẻ rất hào phóng "Đến thăng Hòang Long phủ ta sẽ uống rượu thoải mái với các ông !". Nhân cơ hội này ông đã tìm hiếu tỉ mỉ đối với hình thế sông núi vùng lân cận, các ải quan trọng yếu, chuẩn bị phát động tấn công lớn hơn đối với binh lính Kim. Trước thất bại, Kim Ngột Thuật tỏ ra hơi nản lòng. Ông ta quyết định rút quân về nước Kim. Khi ông sắp sửa khởi hành, một thư sinh họ Tống tiến lên trước kéo dây cương ngựa của ông lại, nói với Kim Ngột Thuật một thôi một hồi, làm cho vị đại nguyên soái nước Kim này lập tức thay đổi ý nghĩ, từ đó đã thay đổi lịch sử. Cậu thư sinh này nói : "Từ xưa đến nay, chưa hề có chuyện quyền thần khống chế ở bên trong mà đại tướng ở ngoài biên ải lập được công danh Nhạc Thiẽu bảo còn khó giữ nổi bản thân ông ta đâu còn có thể giành được thành công nữa ?" Vốn cậu thư sinh này là gián điệp của Tể tướng đương triều là Tần Cối phái đến. Tần cối biết Tống Cao tông không muốn đánh bại quân Kim, để đón hai vị Hoàng đế bị quân Kim bắt làm tù binh. Thế là liền nghĩ ra "lấy hòa thay chiến", ra lệnh Nhạc Phi rút quân về triều. Nhạc Phi cho rằng thời cơ không thể bỏ lỡ, thỉnh cầu quyết chiến với quân Kim, biểu thị muốn lấy cái chết để báo nước. Tần Cối thấy Nhạc Phi quyết tâm không thể thay đổi bèn nghĩ ra một kế, trước tiên điều Trương Tuấn và mây lộ quân nữa về sau đó nói với Cao tông, Nhạc Phi đã thành cô quân không thể lưu lại lâu ở phương Bắc, xin hãy hạ chiếu nhanh triệu ông ta về. Như thế, trong một ngày Nhạc Phi nhận liền 12 kin bài, ông bị ép không biết làm sao được, hông kìm nổi nước mắt tuôn trào. Đau lòng nói: “công mười năm, bỏ một ngày“ Hồi đó dân chúng biết ông sắp phải đi, đều cản ngựa ông lại, khóc lóc muốn giữ ông lại. Nhạc Phi đành phải giơ chiếu thư để họ xem. Dân chúng biết mình sắp phải làm người nô lệ mất nước đều nhao nhao kêu khóc thảm thiết vang động khắp các cánh đồng xung quanh. Nhạc Phi đành kéo chậm mất năm ngày mới về kinh, để cho dân chúng chuyển đi gấp. Lúc này, có người kiến nghị Nhạc Phi dùng sách lược "tướng ở bên ngoài, lệnh vua có thể không tiếp nhận", lợi dụng cơ hội trước mắt quyết chiến với quân Kim. Nhưng Nhạc Phi không bằng lòng làm như thế, không muốn trái lệnh của Hoàng đế, mà mang tiếng phản nghịch bị nguyền rủa ngàn đời sau. Ông biết rất rõ mình sau khi về kinh lành ít dữ nhiều, nhưng ông thà chết cũng không muốn thất tiết. Về sau, ông về đến kinh sư, bị Tần cối giết hại với tội danh không đáng có. Ông đến chết cũng không thay đổi quyết tâm của minh, nhưng cũng không thực hiện được lí tưởng của mình. Những người đã từng đến đền thờ Nhạc Phi đều suy nghĩ kĩ Càng hơn thấy trong thế giới tinh thần của Nhạc Phi vẫn còn thiếu một cái gì đó, đó chinh là tinh thần không sợ sống. Kim Ngột Thuật sau khi chiến bại là nhát gan sợ chết, mà Nhạc Phi trước chiếu chỉ của vua lại biểu hiện ra một vẻ sợ khác. Ông sợ mất công danh của mình. Trong những năm chiến loạn, cái mà người Tống cần chỉ có thắng lợi mà không phải là đạo vua tôi. Nhạc Phi đã xa rời những tư tưởng này ràng buộc thì sống không thấy thoải mới tự do. Cho nên ông thà bằng lòng chết cũng không muốn tiếp tục sống như thế. Nếu như ông thật sự theo ý chí của minh để sống tiếp, kết quả sau này e rằng không khó tưởng tượng. Con người ta cần có tinh thần không sợ chết, còn cần có tinh thân không sợ sống. Làm một người không sợ chết rât dễ dàng, làm một người không sợ sống lại rất khó. Cho nên, chúng ta tán thành khẩu hiệu như thế này: Một không sợ chết, hai không sợ sống.
BIẾT TRỜI BIẾT TA LÀ THỜI CƠ, LÀ VẬN HỘI Các nhà học giả cổ xưa từ góc độ khách quan đem "thiên nhân hợp nhất" đưa lên đến đỉnh cao. Họ hầu như không cần quy nạp đã diễn dịch ra cả một bộ lí luận. Bộ lí luận này lại đã được dùng rộng rãi, nó chỉ dẫn các môn khoa học. Các học giả hiện đại lại bắt tay vào từ vi mô, tiến hành phân tích phanh phui tỉ mỉ đối với cuộc sống, sau đó tiến hành quy nạp, tổng kết ra từng kết luận một hết sức thận trọng. Một số các chuyên gia y học trải qua nhiều năm nghiên cứu khoa học và chẩn đoán lâm sàng đã nêu lên thời gian làm việc tốt nhất của nội tạng trong cơ thể con người. Họ phát hiện : thời gian làm việc tốt nhất của tim người ta chỉ có 4 giờ đồng hồ : từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiếu. Thời gian làm việc tốt nhất của tim của đa số người bắt đầu từ 10 giờ sáng, nhưng cũng có một số người thì bắt đầu vào trước hoặc sau 10 giờ sáng. Về sáng sớm hoặc chiều tối, lực chịu đựng của người làm công việc lao động chỉ bằng một nửa thời gian làm việc tốt nhất của tim. Thời gian làm việc tốt nhất của tuyến tụy và dạ dày bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, có thể kéo dài hai hoặc ba giờ đồng hồ, có một số người có thế kéo dài đến 6 giờ chiều. Gan được mệnh danh là "Dạ du thần" (thần đi chơi đêm), thời gian làm việc tốt nhất của nó là vào lúc 10 giờ đêm đến 3 giờ sáng. Phát hiện của các nhá y học hiện đại rất gần giống với nhận thức của các nhà hiền triết Trung Quốc xưa đối với quan hệ nội tạng của con người với thiên thời, chúng tôi kê ra trong bằng dưới đây :
Nội tạng Ngũ hành Thời gian làm việc tốt nhất Gan ( Can ) Mộc Rạng sáng Tim ( Tâm ) Hỏa Giữa trưa Lá Lách ( Tỳ ) Thổ Xế chiều Phổi ( Phế ) Kim Sớm mai Thận Thủy Nửa đêm
Y học hiện đại còn phát hiện khả năng chống đỡ của con người trong bốn mùa cũng thay đổi khác nhau. Trong mùa đông lạnh nhất, số lượng tế bào lim phô trong máu người tương đối ở mức thấp nhất. Tế bào limphô có thể sinh ra nhiều globulin, tham gia với cơ thể chống lại vi khuấn xâm nhập, cho nên khi số lượng tế bào limphô ít, con người rất dễ mắc các bệnh truyền nhiễm như cảm cúm và viêm khí quản. Về mùa hạ trời rất nóng, số lượng tế bào lim phô trong máu của người nhiêu nhất, bạch câu trung tính lại ở mức thấp nhất. Bạch cầu trong cơ thể sẽ tiêu diệt các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể bằng cách thực bào, cho nên về mùa hạ nói chung không dễ mắc các bệnh truyền nhiễm dạng vi rút như cấm cúm, nhưng dễ mắc các bệnh truyền nhiễm dạng vi trùng như viêm ruột, bệnh lị.Mùa xuân và mùa thu, lượng bạch cầu miễn dịch có tính đặc biệt trong cơ thể tăng nhiều, biểu thị khả năng đề kháng của cơ thể tăng lên mạnh mẽ. Nhưng bạch cầu miễn dịch trong cơ thể tăng nhiều, thì người sẽ có thể phát sinh các bệnh quá mẫn cảm. Theo số liệu chứng thực của viện nghiên cứu nhi khoa London tiến hành thí nghiệm : tăng trưởng của trẻ con trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 6 nhanh 3 - 4 lần trong thời gian các tháng 6 - 12, đồng thời hiện tượng này, chỉ là đặc trưng của miền bắc bán cầu có được, ở miên nam bán cầu, thời gian trẻ con tăng trưởng nhanh nhất là thời gian từ tháng 9 đến tháng 3, bởi vì vùng đó lúc này là mùa hạ có ban ngày dài nhất. Khi mặt trời có tác đụng tích cực đối với thể thùy não, sẽ xúc tiến sự phát dục và tăng trưởng của tri chức cơ thể. Các nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng mùa xuân và mùa hạ là Thiếu dương và Thái dương, hai mùa này dùng ngũ hành để biểu diễn thì mùa xuân là Mộc, mùa hạ là Hỏa. Mộc và Hóa đều có dương tính phát triển hướng lên trên, trẻ con xét vè toàn bộ cuộc đời thì thuộc Thiếu dương, cho nên ở hai mùa Xuân Hạ tăng trưởng nhanh nhất,. So sánh từ trong các tư liệu ở trên, chúng ta có thể thấy con đường nghiên cứu khác nhau của các học giả phương Đông và phương Tây. Ấn tượng mà họ để lại trong chúng ta là: người phương Đông phong phú rộng lớn, đến nỗi cực kì huyền bí khó hiểu; người phương Tây lại ti mỉ sâu săc đến nỗi trống rỗng tầm thưởng. Hơn nữa, người phương Tây các khâu từ cảm tính đến lí tính tương đối rõ ràng, quá trình nhận thức của người phương Đông lại không thấy khâu phân tích làm cho người ta tin phục. Vì thế, những cái mà người phương Đông chưa thuyết minh, thì người phương Tây đã nói ra, còn những gì mà người phương Tây chưa phát hiện, thì người phương Đông đã từng dự đoán. Có thể gọi là phương Đông không sáng thì phương Tây sáng. Có lẽ đây cũng là tác dụng của thiên thời ! Thời cơ đẹp nhất của đời người (1) Thời cơ thông minh nhất. (2)Tuổi yêu dương đẹp nhất. Nam nữ thanh niên ở độ tuổi 22 bắt đầu yêu đương là tuổi yêu đương đẹp nhất. Bởi vì trong giai đoạn này, tâm lí tính dục và thân thể phát dục đã dần dần thành thục, độ tuổi này nói chuyện yêu đương tương đối thích hợp, khả năng thành công cũng tương đối lớn. Còn những người yêu sớm, do quá trẻ khó khống chế và nắm chắc tình cảm của mình, khó tránh bị mất bình tĩnh và lí trí, nên làm những việc gây hậu hoạn rất to lớn và ân hận suốt đời. (3) Thời cơ đẹp nhất. Các cô gái ở tuổi 17, tuổi 19, tuổi 21 là xinh đẹp nhất. Cô gái ở tuổi 27 là đạt tới đỉnh cao, từ 28 tuổi trở đi bắt đầu đi xuống. Bởi vì các nhân tố tạo nên đặc trưng xinh đẹp của người con gái, tức hoocmôn nữ tính sẽ dần dần đông cứng, có người sẽ dần dần biến mất. (4) Thời cơ khỏe mạnh nhất Thời gian khỏang 10 năm trước tuổi 25 của người ta, trạng thái thân thể đẹp nhất. Nói một cách cụ thể là nam giới trong khoang 15 tuổi đến 25 tuổi, nữ giới trong khoảng thời gian 15 tuổi đến 30 tuổi, thì thân thể khỏe mạnh nhất. Bởi vì trong thời kì này cơ bắp của con người là rắn chắc nhất, khả năng chống rét và bệnh tật là mạnh nhất, hơn nữa cơ sắp hấp thụ dinh dưỡng cũng có hiệu quả nhất. (5)Thời cơ hạnh phúc nhất Nói chung người ta ở trước tuổi 24 đều cho rằng những năm hạnh phúc còn chưa đến, quá 30 tuổi trở đi lại cho rằng những năm hạnh phúc đã qua, cho nên đời người trong những năm từ 15 tuổi đến 24 tuổi là thời cơ hạnh phúc nhất, hơn nữa thâu thể cảm thấy cũng đẹp nhất. Đến những năm từ 40 tuổi đến 49 tuổi thì nghề nghiệp cảm thấy đẹp nhất. (6) Tuổi sinh dục đẹp nhất. Qua nghiên cứu chứng tỏ, con gái trong những năm 24 tuổi đến 27 tuổi, con trai khi 30 tuổi là tuổi sinh dục đẹp nhất. Bởi vì lúc này con gái tính tình ổn định, tinh lực dồi dào, chất lượng tinh trùng của nam giới là cao nhất. Cho nên, lúc này con cái sinh ra, tố chất cũng tương đối tốt. (7) Thời cơ rất dễ sinh ra loạn óc. Kết quả nghiên cứu của các chuyên gia bệnh tinh thần chứng minh : người ta trong khoảng từ 30 tuổi đến 35 tuổi rất dễ sinh ra loạn óc. Phần lớn những người được giải thưởng Nobel đều ở gần tuổi 30 hoặc sau tuổi 30 hoàn thânh công việc nghiên cứu quan trọng nhất của mình. Nhưng đỉnh cao của sức sáng tạo, vì nghề nghiệp khác nhau cũng có khác nhau. Thành quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học đã giới thiệu với chúng ta độ tuổi người ta giành được thành tựu cao nhất trong nhiều lĩnh vực như sau : Âm nhạc, ca kịch (opera) : 30 - 40 tuổi. Hóa học : 26 - 30 tuổi Toán học, vật lí học, điện tử: 30 - 34 tuổi. Thiên văn học : 40 - 44 tuổi Chuyện ngắn : 30 - 34 tuổi Thơ ca : 24 - 29 tuổi Hội họa và điêu khắc : 30 - 40 tuổi Kinh tế học : 30 - 39 tuổi Kết quả của các con số thông kê nêu trên, cần phải nêu rõ là mỗi đỉnh cao của từng người đều có ngoại lệ, con số thống kê trên chỉ là kết quả thông thường. Năm loại tuổi của con người Hàng ngàn năm nay, loài người luôn luôn thăm dò con đường lên trời, mưu toan vượt qua sự trói buộc của thiên thời. Mặc dù cho đến nay, loài người chưa giành được thành công, nhưng loài người đã đổ bộ xuống Mặt trăng, tiến được bước đầu tiên của cuộc trường chinh vạn dặm. Trước khi loài người chưa chinh phục được vũ trụ, loài người vẫn chịu sự chi phối của thiên thời. Chúng ta vẫn phải sống tiếp từng năm từng năm một. "Năm năm tháng tháng hoa giống nhau, tháng tháng năm năm người đều khác". Trong chuyển động của thời gian, tự thân con người phát sinh biến đổi. Quỹ tích biến đổi này là từ không đến nhỏ, đến lớn, rồi lại trở lại không. Các nhà khoa học từ những khía cạnh khác nhau nghiên cứu con người, phát hiện con người ít nhất có 5 loại tuổi, tức là : tuổi theo lịch, tuổi theo hình dáng bề ngoài, tuổi tâm lí, tuổi sinh lý, tuổi xã hội. Năm loại tuổi này chính là năm đường quỹ tích, miêu tả nội dung sinh mệnh của một người. Bao gom chất lượng và số lượng của anh ta. Dưới đây, chúng tôi sẽ miêu tả lại 5 loại hình tuổi tác này để bạn đọc cùng tham khảo. Tuổi theo lịch Tuổi theo lịch của người ta là tăng lên một cách đều đặn theo thời gian trôi đi. Sự tăng lên này là một loại chuyển động có quy luật, không quyết định bởi ý chí của con người. Con người chỉ có biết theo thì sống. Ví như chúng ta ngồi trên một con tàu hỏa đi đến mục tiêu nào đó. Con tàu kéo bạn đi qua từng ga, từng ga một, bạn không có cách nào làm cho nó dừng lại được, bạn đành chờ đến ga thì xuống, ngoài việc đó ra, bạn không thể làm gì khác được. Tuổi sinh lí - Trẻ sơ sinh qua một thời kì bú móm, bắt đầu mở mắt nhìn không gian nó tồn tại, tiếp đó lại bước ra không gian này, làm đủ mọi công việc trong không gian này. Xương cốt của nó bắt đầu cứng cáp có thể bò, có thể đi, có thể chạy, có thể nhảy, những việc này đều là hiện tượng tuổi sinh lí của một người. Những người cùng tuổi theo lịch, nhưng tuổi sinh lí lại khác nhau. Ví như trong chúng ta, có người bạc đầu quá sớm, có đứa trẻ này so với đứa trẻ khác lớn nhanh hơn v.v... Tuổi sính lí của con người không chịu sự chi phối của tuổi theo lịch, nhưng nó lai có liên quan với tuổi theo lịch. Thông thường, trong một tuổi theo lịch nào đó, biến đổi sinh lí của con người là nhất định, Ví dụ trẻ con thay răng, thời thanh xuân phát dục. Cơ chế sinh lí tách rời tuổi theo lịch sẽ không có tác dụng, hoặc tác dụng rất ít. Tuổi theo dáng vẻ bề ngoài Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường nhìn nhận tuổi của một người từ vẻ bề ngoài của người đó. Điều này nói lên vẻ bề ngoài của người có liên quan với tuổi theo lịch. Tuổi theo vẻ bề ngoài có nhiều chỗ không thống nhất với tuổi theo lịch. Việc không thống nhất này biểu hiện ở chỗ có người tuổi theo vẻ bề ngoài lớn hơn tuổi theo lịch, hoặc nhỏ hơn tuổi theo lịch. Theo mức độ nhiệt tình của con người đối với các đồ hóa trang và thuật chăm sóc tăng mạnh, tuổi theo vẻ bề ngoài của con người ngày càng có xu hướng nhỏ hơn tuổi theo lịch phát triển, nói cách khác, con người ngày cáng trẻ hơn. Tuổi theo tâm lí Tâm lí của con nguời là quá trình đầu óc con người phản ánh hiện thực khách quan, như cảm giác, tri giác tư duy, tinh thần. Tuổi theo tâm lí đánh dấu mức độ chín chắn của một người. Vì thế, người ta biểu hiện không bình đắng trước tuổi theo tâm lí. Tuổi xã hội Trình độ hoạt động rộng rãi, kinh nghiệm nhiều ít, trinh độ tích lũy trí thức, trình độ tư duy sâu sắc là những tiêu chuẩn đo tuổi xã hội của một người. Đôi khi chúng la nói "láu cá", "già giơ'' chinh là chỉ tuổi xã hội của một người. Nếu như chúng ta có thế tiến hành khảo sát từ năm phương diện này đối với một người, chúng ta sẽ có thể chỉ ra tình trạng sinh hoạt của người đó, thậm chi có thể nói chúng ta có thể "đoán mệnh" cho anh ta được. Bởi và nội dung vận mệnh của con người cũng không năm ngoài các nhân tố của năm phương diện này. Thuật đoán mệnh của Trung Quốc không thuyết minh rõ ràng là từ năm phương diện này nghiên cứu con người, nhưng họ lại từ góc độ ngũ hành để thăm dò quan hệ của các nhân tố của đời người. Nhưng, người hiện tại và người xưa đều chứng minh: thời gian có quan hệ chặt chẽ với cơ thể con người. GIÁC QUAN THỨ 6 "Bạn đã từng cảm thấy trước được hầu như một sự kiện nào đó sắp xảy ra, mà về sau phát hiện sự việc này đã thật sự xảy ra chưa ? Bạn đã từng nghĩ đến một người bạn mà mấy tháng, mấy năm chưa gặp mặt, mà muốn nhận được thư hoặc điện thoại của anh ta; hoặc cảm thấy sẽ có thể gặp anh ta tại một nơi nào đó, lúc nào đó, mà sau này lại quả thật như vậy chưa ?..." Đây là những dòng chữ của một học giả chuyên nghiên cứu ESP thần bí viết trong sách của ông, cuối cùng ông đã đưa ra một kết luận : "Nếu như bạn có bất cứ một kinh nghiệm nào nói ở trên, thế thì bạn đã có cái mà ngày nay gọi là "tri giác siêu cảm quan (ESP) hoặc gọi là giác quan thứ 6” Nghiên cứu đối với ESP được bắt đầu vào những năm thứ 60 của thế kỉ 20 này. Một số nhà tâm lí học mạnh dạn đã sáng lập ra một khoa nghiên cứu tâm lí học mới mẻ - Tâm lí học siêu nhân cách. Môn khoa học mới này là môn khoa học chuyên nghiên cứu tâm linh. Họ cho rằng : mỗi người đều có tiềm lực "mở rộng", sẽ giống như Phật giáo trong hàng bao nhiêu thế kỉ đạy chúng ta, tâm lí học siêu nhân cách cũng nhận thức được rằng, bên trong con người ẩn chứa một tia lửa thần đang đợi chờ tỏa ra. Bình thường, chúng ta gọi “tia lửa thần" này là linh cảm. Linh cảm là một loại trực giác cao độ. Do nó vượt qua cảm giác của năm giác quan của con người, cho nên có người gọi là quan thứ 6. Cách gọi theo ý nghĩa học thuật là "tri giác siêu cảm quan", gọi vấn tắt là ESP. 1. ESP Thuật thấu thị tinh thần. Không sử dụng mắt thưởng có thể trực tiếp nhìn được đồ vật. 2. Thuật cảm ứng tâm linh, còn gọi là "đọc tâm thuật". Không cần dựa vào năng lực cảm quan, có thể trực tiếp tìm hiểu được tâm tư của người khác. 3. Biết trước, có thể không cần dựa vào suy nghĩ biết trước sự việc của tương lai, đưa ra lời đoán trước chính xác. 4. "Thiên lí nhãn" (mắt ngàn dặm), có thể nhìn thấy người hoặc vật mà không có mắt thường nào có thể nhìn thấy được. 5. Động lực cảm ứng tâm linh, cũng gọi là lực ý niệm. Dùng ý niệm cực mạnh của cá nhân làm ảnh hưởng đến sự vật hoặc ý chí của người khác. Nếu như có ai đạt được một công năng trên đây, anh ta không phải là thần thánh mà là đã thành công khai thác được năng lực tiềm tại của mình, tức là đã thành công khai thác lĩnh vực tâm linh cá nhân. Vì thế huấn luyện đối với ESP là một đề mục không thể coi nhẹ để phát triển nhân loại. Ở Trung Quốc, ESP được gọi là tập khí công. Khi đọc qua mấy quyển sách khí công và các trước tác ESP sẽ có thể phát hiện đấy là một công việc. Khí công của Trung Quốc ngày càng được nhiều người trong nước và nước ngoài coi trọng Khí công cũng có thể được xem là một hạng mục huấn luyện tâm linh. Tính chất quan trọng của ý niệm trong khí công đã được biểu hiện rõ điều này. Tập luyện khí công ở Trung ’Quốc đã trở thành một cao trào sôi động. Mặc dù hiện nay tầng thứ còn ở cấp tương đối thấp, chỉ để chữa bệnh và rèn luyện sức khòe, chưa nâng lên đến tầm cao của khoa học tâm linh. Nếu như nhân đà này làm tốt hơn thì trình độ khí công Trung Quốc sẽ có bước đột phá mới. Trên thực tế, chúng ta đang cần có sự đột phá này. Bởi vì mọi người đều cần linh cảm. Trước kia, sau khi bánh răng của máy được phát minh, có một số nhà khoa học liên mưu toan dùng nguyên lí bánh răng chế tạo ra người máy, nhưng kết quả không phải là việc đó, về sau máy tính ra đời, người ta lại đem hi vọng gửi gắm vào bộ vi xử lí, trông mong dùng máy tính đế tính toán vận mệnh của loài người.Nhưng cuộc đời đâu lại có thể dùng máy vi tính để giải quyết được? Những cảnh ngộ của cuộc sống làm sao đưa được vào trong chương trình ? Thời đại dựa vào máy tính đế quyết định vận mệnh con người, vĩnh viễn không bao giờ đến cá. Những người nghiên cứu ESP cho rằng : Tất cả mọi cái của đời người hầu nhu đều đang chịu sự sắp đặt âm thầm của vận mệnh. Cuối cùng sức mạnh nào có thể quyết định vận mệnh của đời người ? Không phải là tính toán, không phải là chọn lựa hợp lí, cũng không phải là ý chí của con người. Nói cách khác, sức mạnh quyết định vận mệnh của chúng ta không phải là cảm giác của năm giác quan của chúng ta, cũng không phải là sự kéo dài của những cảm giác này - khoa học kĩ thuật, cũng không phải là mọi nguyên lí, quy tắc vật lí, hóa học v.v... xây dựng trên cơ sở 3 thứ nguyên, mà là một sức mạnh lạ lùng trong thế giới kì diệu. Còn linh cảm có thể từ trong thế giới kì diệu, vì chúng ta truyền đưa một loại thông tin thần bí mà chuẩn xác. Thần thái và vầng quang Có người đã phát hiện một cô gái sắp sửa kết hôn hoặc đã kết hôn chưa lâu, cô ta trở nên xinh đẹp hơn trước rất nhiều. Phụ nữ trong lúc yêu nhau tha thiết cũng có hiện tượng này. Vì thế hai người có tình ý với nhau hay không, người có kinh nghiệm chỉ đưa mắt nhìn qua là có thể nhận ra. Đây là nguyên nhân gì ? Lí thuyết khí công Trung Quốc giải thích : "Khí” trong cơ thể con người từ của sinh mệnh dưới sự điều động ý niệm tâm lí mãnh liệt hiện ra trạng thái đẹp nhất. Cái gọi là ý niệm mãnh liệt là : người phụ nữ lúc này vì được cưới nên cảm thấy một sự thoả mãn chưa từng có. Cho nên từ nơi sâu kín trong lòng luôn rộn lên một cảm giác tự hào và ý niệm muốn trở thành một người phụ nữ xinh đẹp nhất. Vì vậy nói thần thái là một loại hiển hiện chân thực của nội tâm. Khi một loại thông tin nào đó trong sinh mệnh được dẫn phát ra, thì thần thái cũng theo nó hiện ra. Theo những người rèn luyện khí công có bản lĩnh khá nói : Trên thân thể của mỗi người đều có một vầng quang. Vì ở những người khác nhau và ở tâm trạng khác nhau của người đó, vầng quang hiện ra có màu sắc khác nhau. Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến tượng vẽ của Phật. Trong tất cả các tượng Phật, chúng ta đều có thể trông thấy phía sau đầu Phật có một vầng quang to tướng. Đây không phải là để cho đẹp mới vẽ như thế, mà là vì Phật là siêu nhân "đại trí đại thánh”, cho nên Người mới có vầng quang như thế, còn vâng quang của người bình thường như chúng ta không mãnh liệt như của Phật nghĩa là vừa nhìn đã thấy như thế được. Tâm linh học gọi vần quang này là "từ sinh mệnh". Nó biểu hiện các trạng thái vận mệnh, linh cách, tinh thần và sức khóe. Nếu như một người có thể nhìn thấy vầng quang của mình hoặc là vầng quang của người khác thì họ có thể suy định được thọ yểu đến cùng của mình hoặc người khác. Có người phát hiện, khi một người sắp bước vào vận đỏ sặc sỡ, thì trên đầu có thể xuất hiện một vần quang. Thuở xưa, có một thích khách muốn giết một vị quan quan trọng trong triều, khi anh ta chui vào trong màn, trông thấy trên đầu ông ta có một vầng quang, liền cho rằng đây là một nhân vật lớn tài giỏi, ông ta đang được thần linh che chở tránh người thích khách muốn làm điều ác. Thế là đã đánh tan được ý nghĩ giết người của thích khách. Theo một khí công sư kể lại : một người linh tính cao, vầng quang trên đầu anh ta màu vàng ánh, phát ra ánh sáng lấp lành, tà khí độc khí đều không thể xâm nhập vào thân thể anh ta được, vầng quang của người mạnh khỏe là màu hồng nhạt, người tin theo tôn giáo là màu tím, người không khỏe mạnh là máu xám nước chè, người vận mở thì màu sặc sỡ, người vận đóng thì màu xám xanh. Chú ý màu sắc vầng quang của mình sẽ có thể tự mình dự đoán được tình huống vận thế gần nhất của mình. Nhưng làm sao có thề dùng mắt người để phân biệt màu sắc của vần quang ? Trong luyện công thiền bí có một loại công tăng lượng, chính là cách luyện công dùng để tăng bản lĩnh, luyện bản lĩnh này rất đơn giản : trước tiên hãy để cho mình thả lỏng một cách đầy đủ, điềm tĩnh thản nhiên. Sau đó hai tay giơ ra, lòng bàn tay hướng lên trên, các ngón hai bàn tay duỗi thẳng tương đối nhau, từ từ kéo sang hai bên, sau đó lại thu về, giống như người kéo dụng cụ lò xo hoặc giống như kéo ac-cooc-đê-ông (đàn phong cầm), giữa các đầu ngón tay hai tay giống như có một loại từ tính, khi kéo ra hai bên thì cùng hút nhau, khi thu về thì cùng đẩy nhau. Thời gian lâu, bạn sẽ có thể nhìn thấy mười đầu ngón tay có quang tuyến giống như nước chảy, đó chính là từ của sinh mệnh. Căn cứ màu sắc của quang tuyến, sẽ có thể phán đoán vận thế của mình. Hãy lưu ý tới cảnh vật quanh mình Khi những vật này nhận được sự chăm sóc chu đáo của bạn hoặc cùng chung sống với bạn thời gian dài, giữa bạn và chúng đã có thể kết thành một quan hệ kì diệu. Kết luận này là do các nhà khoa học đã phát hiện thực vật cũng có cảm giác yêu ghét. Những năm gần đây, một số nhà thực vật học luôn nghiên cứu làm thế nào nâng cao sức sinh trưởng của thực vật, đã phát hiện thực vật không những thích âm nhạc, mà tương tự cũng thích tiếng bánh xe lăn và tiếng máy nổ của động cơ. Những âm thanh này có thể làm gia tăng sự sinh trưởng của thực vật. Đồng thời cũng làm cho thực vật sản sinh phản ứng kì diệu. Tại sao có thể sản sinh tình huống này, có nhà khoa học cho rằng : có thể là sự rung động không khí có tác dụng xúc tiến đối với năng lực sinh trưởng của thực vật. Cũng có nhà khoa học cho rằng thực vật có thể cũng có cảm giác và yêu ghét, bởi vì chúng cũng có "trái tim" như nhau, ẩn chứa ở trong mỗi đơn bào. Giống như trùng đế giày (paramaecium caudatum), đơn tế bào đều biết chạy trốn cho thoát thân và sợ nóng, đây là do chúng có một trái tim nguyên thủy. Để chứng thực li luận này, các nhà khoa học dùng cây xương rồng làm một lần thực nghiệm. Họ dùng dây điện của bộ thu lượm tin trên cây xương rồng trồng trên chậu, cho 6 người đàn ông lần lượt trước sau vào trong phòng, một người trong họ đem nhổ cả gốc cây xương rông lên, vứt xuống đất, sau đó đem trồng lại vào chậu. Một lát sau lại cho sáu người này đi vào trong phòng lần nữa, đứng sát vào chỗ cây xương rồng. Khi người đã nhố cây xương rồng đứng gần nó, kim chỉ thị ở trên bộ thu lượm tin lập tức run run lên, biểu thị sự kinh sợ và ghét của cày xương rồng. Về sau, các nhà khoa làm lại làm một thí nghiệm nữa, để cho mấy người đàn ông tiếp cận với cây xương rồng, một người trong họ liền móc túi lấy chiếc bật lửa ra, đánh lửa lên để đốt vào nó. Không ngờ còn chưa lên lửa, cây xương rồng liền phát hiện ra động cơ của người này, kim chi thị của bộ thu lượm tin xuất hiện phản ứng run run lên. Từ chỗ cây xương rồng, người ta đã uốn nắn lại nhận thức trước đây đối với thực vật, không xem chúng là vật không có tình cảm nữa. Trên thực tế, một ý nghĩa khác của thực tiễn này là, nó đã vạch ra mối quan hệ tế nhị giữa các trường thông tin. Khi nhỏ tôi thường nghe người lớn kể câu chuyện như sau : Mội đạo sĩ núi Lao Sơn rất tài giỏi, trong một bữa tiệc vì để tặng bạn một đoá hoa tươi đã dùng "tâm pháp" làm cho một đoá mẫu đơn chưa nở, nớ thành một đoá hoa màu sắc sặc sở. Câu chuyện này rất li kì, mặc dù không hiểu nối nhưng đã tồn tại trong đầu tôi hai mươi mấy năm nay. Mãi đến khi biết thực nghiệm này tôi mới biết được chân tướng trong đó của nó. Bất kì vật có sinh mệnh nào đều có trường thông tin của nó. Bởi vì các trường thông tin khác nhau trong tình huống đặc biệt có thể giao lưu với nhau. Đạo sĩ núi Lao San dùng trường thông tin của mình đã khống chế hữu hiệu trường thông tin của hoa mẫu đơn, Phương pháp này nói ra rất đơn giản : đem thông tin của mình thông qua một phương thức riêng biệt tải vào trong trường thống tin này của hoa mẫu đơn, hình thành một kích thích tốt. Nhưng muốn đạt được phương pháp này lại là cực kì khó. Về sau, tôi đã từng gặp một việc không dùng"tâm pháp" mà vẫn làm cho hoa tươi nở. Tôi đã từng làm việc ở một cơ quan, ở văn phòng có không ít bồn hoa. Một cô đánh máy chữ đã dày công chăm sóc một bồn hoa lồng đèn. Cô ta làm như thế là vì chủ nhân của chậu hoa đã đi học vắng, phải một năm sau mới về. Trong thời gian đó, chậu hoa lồng đèn vẫn không hề nở qua một lần nào. Về sau, chủ nhân của chậu hoa đi học về, tiếp quản chậu hoa này, không đầy ba tháng, "hoa lồng đèn đỏ rực đã nở, treo trên cành là xanh mảnh mai. Mọi người đều cảm thấy kì lạ, có người bàn tán nói : E rằng chủ nhân của hoa sắp sửa gặp vận may rồi. Quả nhiên, không đầy mấy hôm, chủ nhân của hoa liền được thăng một cấp. Mặc dù câu chuyện này không phải là hư cấu. Nhưng nó rất hiếm thấy và kì lạ, có mật số làm cho người ta không thể tin. Người đương sự lúc đó cũng chỉ xem nó như là một lọai mê tín để nói. Nhưng thực ra, trong bốc thuật của Trung Quốc đã từng có lí luận về đoán vận của vật tượng. Song, bây giờ chúng ta có thể đưa ra một giải thích khoa học cho sự việc kì lạ này : đây chính là thực nghiệm ở trên. Giá như một trường thông tin này và một trường thông tin khác nhận được sự khai thông hài hòa với nhau, như thế thì một thông tin mạnh của một trường thông tin này sẽ có thể kích thích một trường thông tin khác. Khi một người thời vận đến hoặc gặp tai nạn, thì trường thông tin bên trong cơ thể họ liền có thể đưa ra phản ứng tương ứng. Mức độ của phản ứng sẽ tỉ lệ thuận với cường độ kích thích thông tin. Trường thông tin sản sinh ra phản ứng mãnh liệt, sẽ ảnh hưởng đến trường thông tin xung quanh, nhất là sẽ ảnh hưởng đến trường thông tin bình thường thông với nhau. Những trường thông tin này có thể là người quen thuộc, cũng có thể là vật quen thuộc. Vì vậy, lưu tâm đến những cảnh vật quanh mình, đối với việc dự đoán vận thế sắp đến của mình có ích lợi nhất định. TƯỚNG THUẬT TRUNG QUỐC Ở Trung Quốc khoa tướng tay cũng giống như thuật tinh bốc, thuật quy bốc (bói rùa), thuật đoán mệnh là một loại nhận thức đặc biệt riêng của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với vũ trụ và nhân sinh. Những lí thuyết này rất khó nói chúng là không khoa học, nhưng lại cũng không thể trình bảy rõ lí lẽ khoa học của nó. Bởi vì rất nhiều năm trở lại đây, những thuật này luôn đi theo con đường phát triển riêng rẽ của mình, kết quả là càng đi càng hẹp hơn. Nó từ chối sự giúp đỡ của khoa học, "bê quan tỏa cảng”, bảo thủ một cách mù quáng. Cho nên, sau khi khoa học phát triển lên mạnh mẽ chúng liền bị người ta bỏ rơi. Khoa tướng tay có nguồn gốc tương đối lâu đời ở Trung Quốc. Nhưng khoa tướng tay hiện đại lại không được sinh ra ở Trung Quốc, mà nó lại ở phương Tây vào những năm thứ 50 của thế kỉ 20 này. Khoa tướng tay mới, hiện đại đã thu hút được những tinh hoa của khoa tướng tay Trung Quốc, khoa tướng tay Ấn Độ, khoa tướng tay Nhật Bản và khoa tướng tay Digan đem các môn khoa học như tâm lí học nhân cách, tâm lí học phát triển, bệnh thái học và bệnh lí học kết hợp lại với nhau, làm cho khoa tướng tay trở thành một môn học vấn mới mẻ, gần với khoa học, dùng để giải thích vận thế của một người. Khoa tướng tay mới khi quan sát tướng tay của một người, trước tiên phải quan sát riêng biệt đối với dạng bàn tay, ngón tay, đốt ngón tay, dạng lòng bàn tay, các đường vân tay và màu sắc lòng bàn tay. Hai là thẩm tra tình hình phối hợp dạng bàn tay, ngón tay, đốt ngón tay, dạng lòng bàn tay, các đường vân tay rồi đưa ra phán đoán tổng hợp. Cuối cùng thì từ các phán đoán trên tiến hành khảo chứng. Khoa tướng tay mới cho rằng : các bộ phận của lòng bàn tay đều biến đổi, nguyên nhân biến đối nội tại là từ thông tin trong thân thể. Ví dụ như quan sát các đường vân tay có thể dự đoán được nhiều bệnh tật. Khi bạn phát hiện thấy mình hoặc người khác có các hiện tượng như lòng bàn tay hiện màu đỏ, lòng bàn tay sưng phù, đường vân ngang xa tâm (đường tâm đạo) nông và mờ hoặc xoắn ngoằn ngoèo hoặc phát ra nhiều đường tua, ở giữa lòng bàn tay hiện ra đường cắt chữ thập, thì bạn có thể đã mắc bệnh tim. Học thuyết kinh mạch của y học Trung Quốc đã đặt cơ sở lí luận cho loại thuật tướng tay này. Các nhà tướng tay hiện đại của Nhật Bản chính là đã từ lí thuyết Trung y đã nhận biết ra phương pháp xem bàn tay chẩn đoán bệnh. Tiến sĩ y học trường Đại học Tokyo là KENO TAIO cho rằng : các thông tin bệnh tật của cơ thể con người tiềm ẩn trong các gò của lòng bàn tay : gò Kim tinh nằm dưới ngón cái biểu hiện sức khỏe của dạ dày và ruột; gò Mộc tinh nằm dưới ngón trỏ biểu hiện trí năng ; gò Thổ tinh nằm dưới ngón giữa biểu thị sức khỏe của thận và cơ quan tuần hoàn; gò Thái Dương nằm dưới ngón nhẫn biểu thị sức khỏe của cơ quan cảm giác và cơ quan vận động ; gò Thủy tinh nằm dưới ngón út biểu thị sức khỏe của cơ quan hô hấp và cơ quan sinh dục. Đây là những thông tin bệnh tật trong cơ thể con người phản ánh trên lòng bàn tay của người đó. Tương tự, vận thế của một người cũng có thể phản ánh ra trên lòng bàn tay. Các nhà tướng tay Trung Quốc cổ đại đã đem ứng dụng nguyên lí Bát quái vào khoa tướng tay. Tám vị trí chủ yếu trên lòng bàn tay dùng bát quái để đại diện, khi vị trí một quái nào đó trong chúng xuất hiện các đường vân tay, màu sắc v.v... khác thường, chúng ta sẽ có thể đưa ra một lời phán đoán nào đó. Y nghĩa của bát quái đại diện có rất nhiều, đủ có thể khái quát được một số sự việc lớn nào đó của đời người. Do đó, chỉ cần ghi nhớ ý nghĩa của bát quái đại diện, sẽ có thể căn cứ hình Tượng quái trên lòng bàn tay của một người để đoán vận thế của anh ta. Thuật vận mệnh lưu niên Bất cứ ai trong một đời đều gặp nhiều khó khăn trắc trở, đời người giống như một con thuyền mượn gió tiến lên. Vì thế, có thể biết trước lức sóng ta gió lớn là cực kì quan trọng. Thuật vận mệnh lưu niên lại là phương thuật dự đoán lúc sóng gió của cuộc đời. Các nhà tướng học cho rằng : cuộc đời có trôi chảy hay không mỗi người mỗi khác, giống như lòng người khác nhau, mỗi người mỗi vẻ. Mỗi người có một con đường đời của mình, có vận mệnh lưu niên của mình. Vận mệnh lưu niên của con người được ghi lại trên mặt của mình. Vận mệnh của người trước tiên bắt đầu từ tai trái, thông sang tai phải đi vào bộ phận giữa trán, lại qua hai bên trái phải của trán đến lông mày, mắt, mũi, má, miệng và hàm. Người ta đến sau tuổi 76, bắt đầu từ phía trước hàm men theo đường bao quanh phía ngoài khuôn mặt quay một vòng, đến tuổi 99. Cuối cùng, người sinh ra từ đất lại trở về với đất, vận khí cũng đạt tới tai xông là kết thúc. Theo lí thuyết tướng học Trung Quốc, đem chia tướng mặt của người thành một trăm vị trí, mỗi vị trí đều có một tên gọi, nắm giữ vận khí của một năm. Ví dụ vị trí giữa hai lông mày gọi là Ấn đường, nắm giữ vận khí khi 28 tuổi. Một trăm vị trí này đại khái có thể phân ra mấy khu vực dưới đây : Tai, trông coi vận khí từ 1 tuổi đến 14 tuổi. Tướng học Trung Quốc cho rằng tai là tượng trưng dư đức của tổ tiên, là ân huệ của cha mẹ. Bởi vì từ 1 tuổi đến 14 tuổi thuộc những năm còn thơ ấu, lúc đó chịu ảnh hưởng vận khí của những người lớn. Mà vận khí của thời kì này lại ảnh hưởng như thế nào đến vận khí sau này. Căn cứ lí luận của "vị trí" trong tướng thuật cũng có thể đang đợi khoa học phát hiện để chứng minh. Khi sự đột phá này thực hiện, e rằng các nhà khoa học xã hội các nước trên thế giới lại phái dấy lên một "cơn sốt tướng thuật Trung Quốc". Bộ râu của Hạ Long Từ mép chân tóc trước trán đến lông mày trở lên là Thượng đình, còn gọi là "Thiên vị" ; từ lông mày đến chỗ dưới Mũi là Trung đình, còn gọi là "Nhân vị"; từ chỗ dưới Mũi đến chỗ cằm (hàm) là Hạ đình còn gọi là "Địa vị". Thượng đình trông coi vận những năm đầu của đời người từ 15 tuổi đến 30 tuổi. Trung đình trông coi vận trung niên từ 31 tuổi đến 49 tuổi. Hạ đình trông coi vận những năm cuối đời từ 50 tuổi về sau. Khi xem tướng mặt một người, nếu tam (ba) đình : thượng, trung, hạ bàng nhau biểu thị đời người đó không có khó khăn trắc trở quá lớn, ổn định thuận lợi. Ngược lại thì biểu thị vận mệnh người đó biến đổi nhiều. Cho nên có thể thông qua Tam đình nhìn thấy được vận mệnh đời người của một người. Thượng đình đại biểu cho tư tưởng và trí lực của một người, cũng biểu thị vận thế do trời phú. Loại vận thế này là vận thế dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của cha mẹ. Nếu như thượng đình không có vết sẹo, vết đen, rộng lớn nhẵn bóng, không có lồi lõm, biểu thị vận những năm đầu đời người đó rất tốt. Thời thơ ấu được sống rất hạnh phúc. Những người mà Thượng đình so với Trung đình và Hạ đình tốt hơn, phần lớn đều là vận thế của ông bà hoặc cha mẹ rất tốt. Ngược lại, những người Thượng đình hẹp thì vận thế tương đối kém, nếu muốn khai thác cuộc đời thì phải sống qua vận trung niên về sau, mới có hi vọng. Trung đình biểu thị khả năng làm việc và khả năng thực tiễn của một người. Thời kì này chính là thời kì một cá nhân mình đánh cả thiên hạ, tự lực cánh sinh, cho nên gọi là Nhân vị. Vị trí bộ phận này lại là bộ phận mà mừng giận vui buồn của con người biểu hiện phong phú nhất. Những nếp nhăn trên mặt cũng tập trung chủ yếu tại vị trí bộ phận này là sự khắc họa chân thực của những năm tháng của đời. Những người Trung đình đài, biểu thị những người đó sống sau tuổi 31 mới có vận thế tốt. Ngược lại, người có Trung đình hẹp, ngắn thì ở thời kì này không nên đưa ra những ý nghĩ không an phận. Từ vị trí bộ phận này còn có thể nhìn ra người đó có sung túc không, sự nghiệp có thành công không, quan hệ nhân tế (giữa người với người) như thế nào, quan hệ với người khác giới ra sao. Cho nên trung đình là vị trí tập trung vận mệnh chủ yếu của đời người. Hạ đình đại biểu cho yêu đương, tính dục, dục vọng và năng lực phán đoán, có thể nhận ra trạng thái sinh hoạt của một người, cho nên gọi là "Địa vị”. Nếu bộ phận cằm của người này đầy đặn, nhẵn bóng, rộng lớn biểu thị vận thế của những năm cuối đời tốt. Các nhà tướng thuật Trung Quốc đã căn cứ các quan điểm nói trên xem tướng cho người ta, giúp họ chấn chỉnh lại những chỗ thăng trầm của vận thế đời người. Nghe nói bộ râu của Hạ Long chính là đã nghe lời khuyên của một nhà xem tướng mặt nên ông đã giữ lại như vậy. Một bài ghi chép đã ghi lại câu chuyện này. Hồi còn trẻ khi Hạ Long đi học, thầy giáo đã cho rằng Hạ Long có một cái mũi nở, nói ông không thể trở thành người có tài cao, nên học cũng vô dụng, trên khắc cha mẹ, dưới khắc con cháu. Hạ Long từ đó trở đi một mạch bỏ học đi buôn, về sau đế quét sạch bất bằng đã dẫn hơn bốn mươi người nổi dậy làm cách mạng. Thế là mới 29 tuổi ông đã là thống soái của hàng vạn người, về sau, một ông bạn giang hồ xem qua tướng mặt của Hạ Long xong nói : tướng mặt của tướng quân, có chỗ chưa đủ đẹp là lỗ mũi hơi to, lỗ mũi lớn không có kết thúc, bên trong hiện rõ lông mũi, những năm cuối đời không bảo đảm, họ hàng thân thuộc có xung khắc. Cho nên giữ lại bộ râu để giữ vận mệnh cao quý. Hạ Long cho là có lí, từ đó trở đi đã để bộ râu, cho nên có lời khen "bộ râu đẹp của Hạ Long". Mấy chục năm sau, khi ông chơi đùa nghịch với con trai bị con trai nhổ mất vài sợi râu, lúc đó ông bỗng phát cáu liền giơ tay bạt tai con trai mấy cái liền. Việc này qua đi chưa lâu thì vận rủi của ông đã đến. Những người của Lâm Bưu mới thật sự vặt râu của ông, dẫn đến vị nguyên soái đã từng chỉ huy "thiên quân vạn mã" này, sau khi phải sống mất mấy năm cuối đời đau khổ đã mất sớm. Tác giả của bài văn này viết đến đây bèn than thở nói : Việc của tướng mệnh, huyền diệu vô cùng, không thể biết hoàn toàn, nhưng không thể không biết. THUẬT ĐOÁN MỘNG Mãi đến thời Sigmund Freud mộng mới giành lại từ trông tay các nhà tôn giáo và các nhà đoán mộng, trở thành con đường khang trang của các nhà khoa học nghiên cứu vô thức. Các nhà siêu tâm lí học đã kế cấp truyền thống của S. Freud, đà tìm thấy con đường đầu tiên chạy thông đến ESP. Các nhà siêu tâm lí học phát hiện : mọi người đều nằm mộng, mà mộng hầu như là chất tải tự nhiên của tín hiệu ESP. Mộng có mấy hình thức, có thứ là ác mộng do tác dụng sinh lí và tác dụng tâm lí kích thích tâm tình mãnh liệt gây nên. Ác mộng thông thường là một đoạn ngắn về bạo lực, khác với ESP. Cảnh mộng tương đối sâu có thể phát sinh cầm ứng điện tâm, được chỉ thị nào đỏ, sau khi tĩnh giác vẫn nhớ được. Cảnh mộng càng sâu có thể cảm ứng được trí tuệ bậc càng cao, thậm chí mình thật sự có thể thoát khỏi thể xác, bay lơ lửng khắp nơi. Cảnh mộng ở tầng thứ cao, người bình thường đều không có cách nào làm được, vì nó phải giữ để tỉnh giấc khi ngủ. Nhưng cảnh mộng của hiệu ứng điện tâm thì mọi người đều có thể thực hiện. Nhiều năm trở lại đây mộng luôn làm cho người ta cảm thấy thần kì và làm cho người ta kinh sợ, nguyên nhân là ở chỗ mộng có thể đưa ra lời cảnh cáo và chỉ dẫn cho chúng ta. Ví dụ, các nhà khoa học phát hiện : khi bạn nằm mộng thấy mình sắp sửa tham gia một cuộc thi mà bạn chưa từng học hoặc chưa chuẩn bị, thông thường biểu thị bạn đối với một số việc nào đó trong cuộc sống cảm thấy khó đối phó. Khi bạn nằm mộng thấy mình rơi xuống từ lưng trời, biểu thị bạn sẽ có tai họa. Trái lại, bạn nằm mộng thấy mình bay bổng trên không thì lại biểu thị bạn sắp có vận may đến. Nhiều người tin tưởng vào điềm báo mộng đã viết ra nhiều sách đoán mộng. Họ đem nhiều sự vật trong mộng cho một ý nghĩa đặc biệt riêng. Ví như các nhà đoán mộng Trung Quốc cho rằng : quan tài là điềm tốt vận may lớn đến, là được gặp người có chức quyền lớn v.v... Nhưng có nhiều người "theo tranh tìm ngựa”, kết quả là có nhiều cái không linh nghiệm. Việc này đã làm cho người ta sinh ra hoài nghi đối với thuật đoán mộng. Trên thực tế mộng là sản phẩm tinh thần của con người. Cùng một thứ đó vật đối với từng người khác nhau, đại biểu ý nghĩa khác nhau. Ví như lấy vàng làm ví dụ, đối với người này là tượng trưng sự giàu có tiền bạc, nhưng đối với người kia lại là tượng trưng gặp phải thương tổn. Bởi vì ý niệm ban đầu của vàng ở trong đầu mỗi người khác nhau, cho nên muốn đoán mộng cần phải tìm hiếu người nằm mộng. Chỉ có sau khi được giải thích đúng đắn, mộng mới có ý nghĩa. Cũng chỉ có những người từng được huấn luyện mới có thể giải mộng một cách chính xác. Vì vậy, chỉ có mỗi lần nằm mộng tỉnh lại, bạn nên nhớ lại một cách tỉ mỉ giác mộng của bạn, ngày tháng tích lũy lại thì sẽ có thể tìm được phương pháp đoán mộng cho mình. Nếu cần, có thể có ý thức huấn luyện mình.Khi bạn tìm được phương pháp này, bạn sẽ có thể biết được vận thế ở thời gian gần nhất của bạn ra sao. ít nhất bản thân bạn có thể có chuẩn bị về tâm lí. Hơn nữa, có một điểm rất đáng nói : Đoán mộng cho mình, mình không thể lừa dối mình. Mộng có thể chứng tỏ trạng thái sức khỏe, quan hệ giữa người với người, tình trạng kinh tế và tình trạng thành công của mọi người. Chỉ có điều là đại đa số người sau khi tỉnh dậy không biết hồi ức lại và tổng kết lại thôi. Nhưng, mộng vân vĩnh viễn theo suốt cuộc đời của bạn, đêm ngày không ngừng ra sức phục vụ bạn. Vì vậy có thể nói, những người này đang lãng phí nguồn của cải tinh thần một cách vô tình. Đối với họ, giấc ngủ là mộl nhu cầu nghi ngơi, còn nằm mộng lại là một con quỷ quấy rầy mà thôi. Làm như thế khác nào đế mất một quả dưa hấu đế nhặt một hạt vừng. Những người có ý tứ, đối với tất cả mọi thứ của mình đều lưu tâm đến. Mộng là thứ không dễ dàng nhìn thấy. Đây là một lời khuyên chân tình. Chúng tôi có thể dám đoán rằng : hiện tại, ai bắt đầu khai thác đối với mộng của mình càng sớm thì người đó sẽ có thể trong một tương lai không xa giành được một vật báu vô giá. Nên học biết đoán mộng cho mình. Ám thị của mộng Buồn là việc mình đã từng làm không dám chấp nhận là đúng, không đáng xem, lại cứ muốn nhìn thấy người khác cũng làm như thế mdi lại học đế làm. Thái độ khoa học cẩn thận khiêm tốn này, thực tế vì tinh thần chú trọng thực tế của bản thân khoa học mà không dám gật bừa. Vui là cuối cùng người ta đã hiếu rõ mộng có thể dự đoán được hiện trạng các mặt của người nằm mộng, nghĩa là mộng có thể dự báo vận thế của người. Vận thế là vận mệnh của một người, cũng có thể hiểu là xu thế vận động của sinh mệnh. Mỗi người đều có vận mệnh của mình, các nhân tố tạo thành vận mệnh của mỗi người là những sự kiện mà mỗi người làm ra trong quá trình sinh mệnh. Đây chính là câu nói "Vận mệnh của anh ta rất tốt!“, mà chúng ta thường nghe khi người khác giành được những thành công được người ta hâm mộ. Vận mệnh tốt và xấu, xét từ bề ngoài là đại từ "một người giành được bao nhiêu”, còn về thực chất đế xét nên hiểu là tốt, xấu của chất lượng sinh mệnh. Các nhà hiền triết xưa của Trung Quốc từ lâu đã đem chất lượng của sinh mệnh làm tiêu chuẩn đánh giá vận mệnh của một người. Ví như : nhà tinh mệnh học chính là đã đem năm tháng ngày giờ sinh của một người lần lượt tiến hành tổng hợp phân tích, sau đó trong cả hoàn cảnh sinh mệnh - tức thời gian không gian vũ trụ, tiến hành phân tích động thái, cuối cùng vẽ ra qũy tích vận mệnh của một người. Cách tiến hành từ phân tích tình thái vi mô đến phân tích động thái vĩ mô này, đã thể hiện nhận thức có hệ thống, hoàn chinh của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với sự phát triển của sinh mệnh. Xét về phương pháp tư duy, nhận thức này là uyên bác, tiên tiến, khoa học. Song điều làm cho người đời sau chất vấn là ở vấn đề quan hệ giữa thời gian sinh ra với vận mệnh. Đương nhiên, chỉ có sau khi hoàn toàn hiểu "cảm ứng thiên nhân" của các nhà hiên triết Trung Quốc, người ta mới có thể khẳng định một cách đầy đủ học thuyết đoán mệnh này. Việc lí giải và phân tích của các nhà hiền triết Trung Quốc đối với mộng’, điểm xuất phát của nó vẫn là "cảm ứng thiên nhân”. Các nhà hiền triết Trung Quốc cho rằng: “Mộng là những thứ tai nghe mắt thấy trong thế giới mình giao du, những việc nhìn thấy tận mắt hoặc cảm nhận mà thành, hoặc có việc mà đến, tức tất cả mọi việc của bản thân mình. Những việc gặp trong mộng là những việc thuộc bản thân mình chứ không phải ở ngoài bản thân mình." Nghe nói ngày xưa có một vị Thiên sứ giỏi đoán mộng, ông đã phân chia mộng thành năm loại ranh giới : Loại một là cảnh quan trọng, loại hai là cảnh quý, loại thứ ba là cảnh quá khứ, loại thứ tư là cảnh hiện tại, loại thứ năm là cảnh tương lai. Họ cho rằng việc sản sinh mộng là tác dụng tinh thần của con người. "Thân díệm mộng sinh, thân tỉnh mộng diệt" (Thần hừng hực cháy thì sinh mộng, thần tĩnh lặng thì mộng mất). Trong nhận thức của các nhà hiền triết Trung Quốc xưa, thân là vật chất. Vì vậy mộng là một loại công năng và tác dụng của thần. Từ đó ta thấy, người xưa thật ra không xem mộng là một thứ thần bí và mê tín. Nhưng, ban ngày có điều suy nghi thì ban đêm có mơ mộng, cũng không thể hoàn toàn nói rõ tính "bất khả tri" của mộng. Bởi vì, đôi khi không phải là sự việc ban ngày suy nghi đến, mà trong mộng cũng xuất hiện, hơn nữa cách giải thích này không đủ sức thuyết minh canh mộng hoang đường, kl dị. Nhá hóa học Kêkulê đã từng nằm mộng thấy một giấc mộng vĩ đại. Giấc mộng này được nhiều người dùng để chú giải nói mộng là sự đến đáp của miệt mài. Giấc mộng này như sau : Nhà khoa học người Đức này từ lâu nay mưu toan tìm ra một công thức kết cấu cho phân tử Benzen. Một đêm vào nảm 1865, ông ngồi bên cạnh lò lửa ngủ gật. Trong mơ mơ màng màng, ông nhìn thấy trong ngọn lửa có các nguyên tử xếp thành hàng hình con rắn nhảy múa qua lại trước mắt ông, bỗng nhiên con rắn đó cắn vào đuôi của nó, cả thân hình nó tạo thành một vòng tròn, sau đó lại tiếp tục quay tròn như vui đùa trước mắt ông. Lúc này Kêkulê bỗng tĩnh giấc, ông đã nghĩ ra được công thức kết cấu hiện nay nổi tiếng này. Tiếp đó ông lập tức đưa ra suy luận về kết cấu Benzen hình lục giác. Chính trong một đêm như thế ông đã nổi tiếng, đặt cơ sở của hóa học các bua thơm. Về giấc mộng thần kì này, đến bản thân ông Kêkulê cũng không ngờ tới. Đương nhiên cũng là chưa từng nhìn thấy, ai cũng đều biết nhà hóa học ban ngày suy nghĩ thật ra không phải là nội dung về rắn và lửa. Nghe nói vua phát minh Edison hàng ngày ông ngủ rất ít, mà luôn là đang mơ về phát minh. Decard cũng trong giấc mơ đem triết học cùng kết hợp lại với toán học. Chất bán dẫn cũng là được phát hiện từ trong mộng của Maxiaxư. Bởi vì giấc mộng vĩ đại kia của Kêkulê, nhiều nhà khoa học đã tin câu nói nổi tiếng của ông ; "Thưa quý ông, hãy để cho mọi người chúng ta đều biết nằm mộng, như thế có lẽ chúng ta sẽ có thể phát hiện ra chân lí". Về sau, có một số nhà khoa học có kiến thức thật sự đã bắt đầu nghiên cứu giấc mộng của người. Họ cho rằng : giấc mộng hàng ngày của chúng ta phần nhiều đều không có ý nghĩa gì, nhưng rõ ràng là bản thân chúng ta thiếu khả năng lí giải và khả năng quan sát nội dung phong phú trong bộ phận đen tối nhìn thấu tâm linh. Giấc mộng chỉ cho chúng ta nội dung có liên quan đến cuộc sống nội tại, đồng thời cũng chỉ cho chúng ta bộ phận của tính cách không rõ ràng có liên quan đến người nằm mộng. Những nhân tố này, trước khi anh ta chưa phát hiện ra sẽ bắt đầu làm đảo lộn sinh hoạt của anh ta, tức là tác dụng tiềm ý thức của anh ta. Khi ý thức dùng kiềm chế đối với tiềm ý thức, mộng sẽ trở thành vũ đài của tiềm ý thức giao tranh với ý thức. Vì thế, mộng được tồn tại với tư cách bổ sung của ý thức. Dùng lời của Carl G. Jung nói : Mộng thuộc về phúc họa của đời người, đôi khi so với những sự việc xảy ra ở ban ngày nó còn có thể ảnh hưởng hơn tất cả ! Việc nghiên cứu mấy chục năm của các nhà khoa học, cuối cùng đã xoay chuyển được thiên kiến của người ta đối với mộng. Người ta ngày càng tin tưởng : mộng có thể báo trước vận thế của người. Phương pháp phân giải mộng Những người theo S. Freud đem việc phân giải mộng dùng để chữa trị các bệnh tâm lí của người, tự xưng là tâm linh cứu vớt con người. Do mục đích chữa bệnh, các nhà nghiên cứu mộng của phương Tây càng tập trung vào nội dung của mộng hơn, đồng thời xem nó là sự bổ xung đối với ý thức. Những điều mộng cung cấp đã vượt quá những điều chúng ta mong tìm, mộng làm cho chúng ta vô tình tìm hiểu được chỗ mấu chốt của tâm lí, hơn nữa cũng có thể kê ra một đơn thuốc cho nó. Ví như trong mộng xuất hiện cầu thang điện hoặc hình tượng trong mộng như cầu thang có tay vịn tự động khác, chuyên gia phân tích tâm lí cho rằng thang điện đi lên hoặc đi xuống sẽ biểu thị hành động sinh hoạt của người nằm mộng đối với mình, nhất là cảm thụ của nghề nghiệp và kết hôn. Cầu thang điện đi lên tượng trưng mình thuận lợi, ngược lại, cầu thang điện đi xuống tượng trưng mình đang đứng trước khó khăn và bất lợi. Máy bay biểu thị mình đang hành động, bị ép phải hành động, hoặc hăm hở muốn thử xem sao. Nó là tượng trưng của dã tâm, quyền lực, trốn tránh, tiến thủ và tử vong. Các nơi như nhà tù, trại giam, đồn công an, thì ý nghĩa tượng trưng của chúng là : đối với hành vi và cách nghĩ của mình ấp ủ cảm giác có tội và tự cho là mình phải nhận trừng phạt, đang nằm trong trạng thái mình bình thường xem nhẹ. Ý nghĩa tượng trưng của thi thể là : muốn trừ khử gấp người này, sợ mất đi người này. Từ đó dễ dàng nhận thấy các chuyên gia phân tích tâm lí phân tích ý nghĩa mộng của người từ ý nghĩa tượng trưng của hình tượng trong mộng. Cách phân tích này hầu như càng làm cho người ta tin phục hơn, vì cách làm của họ trung thực với hình tượng của mộng. Song, cũng có những mộng họ giải thích không rõ ràng, ví như mộng của Kêkulê chính là không có cách gì nói được rõ ràng. Còn việc này ở phía các nhà đoán mộng Trung Quốc thì có thể có giải thích khác : thành công trọn vẹn. Chỗ khác nhau của các nhà đoán mộng Trung Quốc với các chuyên gia phân tích tâm lí là ở chỗ họ quan sát đối với hoàn cảnh của mộng, mà không chú ý nhiều vào vật tượng cụ thể. Nghe nói : Nhạc Phi sau khi bị triệu về kinh, đã nằm thấy một mộng, thấy hai con chó đối thoại với nhau ở trước cửa. Chuyên gia phân tích tâm ỉí có lẽ đối với việc này không biết nói thế nào, còn khi Nhạc Phi hỏi mộng một vị sư, câu trả lời của họ là "có tai nạn bị giam trong ngục". Bởi vì hai chữ "khuyển" đối "ngôn" chính là chữ "ngục" (theo chữ Hán). Từ đó, chứng ta liệu có thể nói được rằng : dân tộc có nền văn hóa khác nhau có ý nghĩa của mộng khác nhau được chăng ? Chúng ta có thể tưởng tượng hơn nữa giải thích đối với mộng của người phương Tây không thật hợp lắm với hiện thực của phương Đồng hoặc của Trung Quốc. Nếu như cách suy nghĩ này đứng vững được, như thế thì việc nghiên cứu đối với thuật đoán mộng Trung Quốc sẽ càng có giá trị thực dụng. Thuyết bối cảnh của nhà đoán mộng Trung Quốc và thuyết bối cảnh của nhà nghệ thuật Trung Quốc có cách làm khác nhau mà hiệu quả như nhau. Thông qua bối cảnh ra đời của tác phẩm nhận ra tính cách và trạng thái tâm tư của tác giả, việc này đối với một người có trau dồi văn hóa cổ điển, thật ra không khó khăn. Nếu như dùng thuyết bối cảnh này đế tiến hành phân tích nhân vật, thi có thể được kết luận về tính cách này khiến người ta tin phục. Điểm này có không ít người đều đã từng tán thưởng. Nhưng về phần giải mộng lại ít có người chú ý. Vì vậy, có người nóí : thơ là mộng của cuộc sống. Ngược lại, chúng ta cũng có thể xem mộng thành thơ của cuộc sống. Như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được quan hệ giữa mộng với cuộc sống của chúng ta. Đoán mộng cần đọc : ý nghĩa tượng trưng của mộng Mộng có liên quan với tiền tài Mộng thấy cỏ cây um tùm, rậm rạp trên đường Mộng thấy đào đất chôn đồ vật Mộng thấy ngủ trong bãi tha ma Mộng thấy trong ao hồ hoặc đầm lấy có cá bơi lội Mộng thấy tàu thuyền đậu gần bờ Mộng thấy câu được cá to Mộng thấy ôm người chết Mộng thấy biến thành người ăn xin Mộng thấy vận chuyển tiền Mộng thấy nuôi mèo Mộng thấy bầy chim tụ tập Mộng thấy cảnh tế lễ Mộng thấy sấm đánh Mộng thấy bị chém bị thương Mộng thấy mất tiền Mộng thấy mài đao sẽ có lợi lớn. Mộng thấy trên đao có máu Mộng thấy đào được vàng bạc Mộng thấy có người đưa kim Mộng thấy có đá lớn đặt ở giữa sân b) Mộng xấu Mộng thấy, tiền bạc từ trên trời rơi xuống Mộng thấy đi lại với nữ giới Mộng thấy trở thành nhà triệu phú Mộng thấy giành được tiền ở sòng bạc Mộng thấy hoa hồng khắp mọi nưi Mộng thấy đưa đám ma Mộng thấy nhà bị gió thổi đổ Mộng thấy xuống núi Mộng thấy nằm ngủ trên tàu thuyền Mộng thấy nhặt tiền Mộng thấy nhặt lá cây đốt lửa Mộng có liên quan với sự nghiệp Mộng thấy đất nứt nẻ Mộng thấy tự tay khuân đất Mộng thấy cá chép đang bơi trong nước Mộng thấy bay lên trên trời Mộng thấy gội đầu Mộng thấy đi săn bắn Mộng thấy cưỡi trâu để đi sắp sửa trở thành có thế lực. Mộng thấy cưỡi hạc đế bay Mộng thấy trên ngực đeo huân chương Mộng thấy khóa vàng, khóa bạc hoặc chìa khóa Mộng thấy bế con Mộng thấy khói lửa Mộng thấy xây nhà mới Mộng gặp quý nhân (người có quyền thế) Mộng thấy bơi lên ngược dòng b) Mộng xấu Mộng thấy Mặt Trời, Mặt trăng cùng xuất hiện Mộng thấy người tàn tật Mộng thấy người chết khóc Mộng thấy đề tên trên bảng Mộng thấy nuôi chó Mộng thấy quất ngựa đi Mộng thấy ngồi trên cây Mộng thấy bỗng nhiên không thấy đường đi Mộng thấy đường đi khúc khuỷu quanh co Mộng thấy cùng bơi với rùa đen trong biển Mộng thấy cùng đánh cờ với người khác Phụ nữ mộng thấy hành vi tình dục Mộng thấy bị người lấy cắp Mộng thấy nước triều dâng Mộng thấy núi lở Mộng thấy trôi xuôi dòng có nhiều việc buồn phiền. Mộng có liên quan với gia sản Mộng thấy cây cối lớn um tùm Mộng thấy cây thông Mộng thắy mặt trăng, mặt trời mọc lên ở biển Mộng thấy mở kho vàng Mộng thấy có đưa chiếc chổi Mộng thấy người chết Phụ nữ mộng thấy nuốt mặt trởí, mật trăng Mộng thấy chim bay trên trời Mộng thầy trời tảng sáng Mộng thấy cây tùng lẫn trong mây Mộng thấy làm bánh tết b) Mộng xấu Mộng thấy xem kịch trong nhà hát Mộng thấy cây cối khô héo Mộng thấy pháo nổ từng đợt một Mộng thấy ăn bánh bao hoặc bánh mật Mộng thấy ăn bánh tết Mộng thấy gót giầy bị rơi Mộng thấy chiếc quạt tay mở rộng Mộng thấy mò cá chép Mộng thấy thuyền đi ra đi vào Mộng thấy bị rụng răng Mộng thấy mặt trời, mặt trăng bỏ rơi Mộng thấy nhặt hạt dẻ nhà có việc tang. Mộng thấy đi cấy Mộng có liên quan với sức khỏe Mộng thấy trông cây tùng Mộng thấy ăn quả hồng Mộng thấy lội trong nước để đi Mộng thấy mình chết b) Mộng xấu Mộng thấy ăn đồ thức ăn tanh Mộng thấy ăn cơm lạnh Mộng nhìn thấy cánh cửa rơi đổ gãy nát Mộng thấy nuốt răng Mộng thấy mũi chảy máu Mộng thấy người khác có việc vui mừng của con Mộng có liên quan đến yêu đương và hôn nhân Mộng thấy nước giỏ xuống không ngừng Mộng thấy hoa cỏ khắp núi b) Mộng xấu Mộng thấy ăn quả lê Mộng thấy liễu rủ Mộng thấy áo lót của phụ nữ Mộng có liên quan đến phúc họa Mộng thấy ăn quả táo Mộng thấy chùm nho tua tủa việc tốt sẽ đến. Mộng thấy hiên ngang dạo bước trên đường Mộng thấy nói chuyện với người đã chết Mộng thấy trượt thi (không có tên ghi trên danh sách) Mộng thấy cưỡi xe Mộng thấy cưỡi trên lưng sư tử Mộng thấy hoa mẫu đơn Nam giới mộng thấy hành vi tình dục Mộng thấy bị bỏng Mộng thấy cảnh hỏa táng Mộng thấy tàu hỏa phun khói Mộng thấy lửa cháy trong lò Mộng thấy bò lên nóc nhà Mộng thấy trâu Mộng thấy nhện Mộng thấy rắn độc Mộng thấy rùa biển Mộng thấy diều hầu bay trên trời cao Mộng thấy chim bồ câu Mộng thấy mồng một mồng hai Tết. Mộng thấy đi lễ bái Thần Phật Mộng thấy giữa đường gặp mưa Mộng thấy gió bão thổi mạnh Mộng thấy chiêm ngưỡng và trèo lên núi cao Mộng thấy trồng trọt điềm tốt lành. Mộng thấy lương thực chứa đầy bao tải Mộng thấy đếm nhẩm ngày b) Mộng xấu Mộng thấy các cây tre đứng sừng sững Mộng thấy gặt lúa Mộng thấy có người cười to Mộng thấy đánh nhau với người khác Mộng thấy đao kề cổ Mộng thấy quăng lưới bắt cá Mộng thấy ăn uống lu bù Mộng thấy gương bị vỡ Mộng thấy trong núi nổi lửa Mộng thấy cầm dao đưa cho người khác Mộng thấy gãy kim Mộng thấy kéo cưa Mộng thấy nhiều chim quần tụ Mộng thấy trèo đến đỉnh núi Mộng thấy nhìn trộm vào huyệt mộ Mộng thấy máy bay rơi Mộng thấy bị rơi xuống giữa ban ngày Mộng thấy bị giặc truy đuổi Mộng thấy ngồi máy bay |