Chương 1
Sáu giờ mười sáng.
Khi ánh nắng ban mai xuyên qua lớp kính cửa sổ phòng ngủ, Charles Friedman mới thả chiếc gậy gỗ truyền tay chạy tiếp sức xuống.
Đã nhiều năm rồi Charles không hề gặp lại giấc mơ đó, ấy vậy mà giờ đây anh thấy mình đang đứng đó, cao lớn ở cái tuổi mười hai, chạy tiếp sức vòng ba trong cuộc thi cắm trại hè, cuộc đua đấu loại trực tiếp giữa đội Xanh và đội Xám. Bầu trời xanh đến tận cùng, đám đông ngoài kia đang nhấp nhô như những làn sóng - làn sóng những đầu đinh, những cái má đỏ hồng mà cậu sẽ chẳng bao giờ được thấy ở một nơi nào khác ngoại trừ nơi này. Đồng đội của cậu là Kyle Bergman đang chạy về phía Charles, dẫn trước đội bạn ở khoảng cách không nhiều, hai má phập phồng theo từng nhịp thở.
Tới rồi...
Charles chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đón lấy chiếc gậy tiếp sức. Những ngón tay cậu giật nhẹ, chờ đón chiếc gậy đập vào lòng bàn tay.
Và đây rồi! Đã đến lúc! Charles đón lấy chiếc gậy.
Bỗng nhiên một tiếng rên lớn vang lên.
Charles ngừng lại, nhìn xuống hoảng sợ. Chiếc gậy nằm chỏng chơ dưới đường chạy. Đội Xám đã hoàn tất cung tiếp sức, vụt qua trước mặt Charles để tiến tới một chiến thắng mà trước đây không chắc sẽ xảy đến với họ. Đám cổ động viên cho đội Xám rồ lên vui sướng, tiếng hoan hô mừng vui hoà lẫn trong những lời chế giễu đầy thất vọng cứ vọng mãi trong đầu Charles.
Đó cũng chính là lúc Charles bừng tỉnh. Bao giờ cũng vậy. Tỉnh dậy, thở nặng nhọc, ga trải giường ướt đẫm mồ hôi. Charles đưa mắt nhìn hai bàn tay trống không. Anh đập xuống tấm ga trải giường như thể chiếc gậy tiếp sức vẫn còn ở đó, sau ba mươi năm đã qua.
Nhưng ở đó chỉ có Tobey, chú chó tha mồi Cao nguyên miền Tây màu trắng, đang nằm, hai chân xoài dưới ngực, chăm chăm nhìn anh chờ đợi.
Charles thở dài, thả người xuống gối.
Anh liếc nhìn đồng hồ. Sáu giờ mười. Mười phút trước chuông báo thức. Vợ anh, Karen, đang nằm úp thìa bên cạnh. Anh
ngủ chẳng được bao nhiêu. Anh đã thức trắng từ ba giờ đến bốn giờ sáng, chăm chú theo dõi Giải vô địch Nữ lực sĩ trên kênh ESPN2, không bật tiếng vì không muốn làm ảnh hưởng tới vợ. Có điều gì đó đang đè nặng tâm trí Charles.
Có lẽ đó là cái vị trí lớn lao mà anh đã chiếm được trên thị trường cát dầu ở Canada hôm thứ năm vừa qua và đã nắm giữ vị trí đó suốt mấy ngày cuối tuần đầy rủi ro, khi giá dầu đã bị rò rỉ ra ngoài bằng một cách nào đó. Hoặc có thể là cái cách anh dồn thêm vốn cho các hợp đồng khí đốt có thời hạn sáu tháng, trong khi lại rút bớt đi đối với những hợp đồng một năm. Hôm thứ sáu, chỉ số chứng khoán đối với các mặt hàng nhiên liệu tiếp tục giảm. Anh thực sự sợ hãi mỗi khi bước ra khỏi giường ngủ, bởi sợ không dám nhìn vào màn hình sáng nay để xem những gì đang diễn ra ở đó.
Hay đó là Sasha?
Trong mười năm qua, Charles điều hành quỹ đầu tư hợp tác năng lượng tại Manhattan, có năng lực tài chính thực sự trên mức đi vay lên đến một phần tám. Nhìn bên ngoài, với mái tóc hung hung nâu, cặp kính gọng sừng cùng dáng vẻ bình thản, trông anh giống nhà đầu tư bất động sản hay một nhà tư vấn hơn là một người sống nội tâm (trong cả những giấc mơ) luôn nghĩ về một thực tế là đã và đang phải sống trong địa ngục, mà thậm chí là địa ngục tầng hai.
Charles, trong chiếc quần hộp, chống khuỷu tay đẩy người lên, và ngừng lại. Tobey nhảy ra khỏi giường, cuống quýt cào lên cánh cửa.
“Cho nó ra đi anh.” Karen cựa quậy, cuộn người lăn sang bên, giật mạnh chăn phía trên đầu.
“Có chắc là mày muốn ra ngoài không?” - Charles hỏi lại chú chó, lúc này hai tai đang vểnh lại phía sau, đuôi ngoáy tít, nhảy trên hai chân sau chờ đợi, như thể nó có thể sắp xoay nắm đấm cửa với hai hàm răng của mình đến nơi. - "Mày biết chuyện gì sẽ xảy ra mà.”
“Thôi nào, Charles, sáng nay đến lượt anh đấy. Cho nó ra ngoài đi.”
"Những từ cuối cùng mới thật hay...”
Charles ra khỏi giường, mở cánh cửa dẫn ra khoảnh sân rộng chừng nửa yard (1) có hàng rào bao quanh, một khu nhà gần eo biển ở Old Greenwich. Tobey lao vụt ra khoảnh sân, đuổi theo mùi một con thỏ hay sóc nào đó vừa để lại.
Rồi ngay lập tức, con chó bắt đầu rít lên cái thứ tiếng bản năng có thanh vực cao của nó.
Karen vò chiếc gối trên đầu và cũng thốt ra những tiếng gầm gừ. "Ggggừừ....."
Vậy đấy, mỗi ngày đều bắt đầu như vậy, Charles chậm chạp bước vào bếp, bật kênh CNN và cắm điện bình cà phê, nghe tiếng chó sủa vọng vào từ bên ngoài. Sau đó, anh vào phòng làm việc kiểm tra lượng hàng bán qua mạng ở châu Âu trước khi đi tắm.
Sáng hôm đó, hàng bán không được tốt lắm, chỉ đạt giá 72.10 đô. Lại tiếp tục giảm. Charles làm nhanh một phép tính trong đầu. Anh lại buộc phải bán ra thêm ba hợp đồng nữa. Vài triệu đô đã không cánh mà bay. Charles ngâm mình trong bồn tắm, lúc đó mới chỉ hơn sáu giờ sáng một chút.
Bên ngoài, Tobey đang sủa tới tấp, tới ba phút không nghỉ. Trong phòng tắm, Charles điểm lại hoạt động trong ngày. Anh sẽ phải thay đổi vị trí liên tục. Giải quyết các hợp đồng dầu phi truyền thống, sau đó là họp với một trong những nhà đầu tư vốn. Liệu đã đến lúc anh gột rửa sạch sẽ? Anh đã chuyển tiền vào tài khoản của cô con gái, Sam, để dành cho nó học đại học; mùa thu tới con gái anh sẽ bước vào năm cuối trung học.
Khi đó cũng chính là lúc mọi việc đổ ụp lên anh. Chết tiệt thật!
Anh sẽ phải đi lấy chiếc xe khốn kiếp đó vào sáng nay.
Để bảo dưỡng cho xe Mercedes đã chạy được mười lăm ngàn dặm, tuần trước Karen đã kỳ kèo buộc anh phải làm chuyện này. Thế có nghĩa là anh sẽ phải đi tàu đến nơi làm việc. Anh sẽ bị muộn một chút. Trong khi anh muốn có mặt tại bàn làm việc của mình vào lúc bảy giờ ba mươi để thực hiện những công việc trong ngày như dự kiến. Sau đó Karen sẽ đón anh tại nhà ga vào buổi chiều.
Quần áo chỉnh tề, thường thì giờ này Charles đã sẵn sàng cho giờ cao điểm. Đúng sáu giờ ba mươi, việc cần làm là đánh thức Karen dậy, gõ cửa phòng hai đứa con Alex và Samatha cho chúng kịp đến trường. Và còn một việc nữa là lướt qua tiêu đề các bài viết trên tờ Tạp chí Phố Wall (2) được đưa tới ở cửa trước.
Sáng nay, cũng nhờ chiếc Mercedes của Karen mà anh có thêm chút thời gian nhấm nháp một tách cà phê.
Gia đình Charles sống trong căn nhà trên một đường phố sầm uất với kiến trúc cổ từ thời thuộc địa đã được sửa sang lại, với hai hàng cây, chạy dọc hai bên đường. Khu phố thuộc thị trấn Old Greenwich, yên tĩnh. Charles đã phải chi ra một khoản tiền để mua căn nhà này, khoản tiền có lẽ còn lớn hơn nhiều so với tất cả những gì bố anh, một doanh nhân chuyên buôn bán cà-vạt từ Scranton, kiếm được cả đời. Có thể anh chẳng dám so với một vài người bạn trong giới thượng lưu đang ở trong những căn nhà siêu lớn ở khu phố phía Bắc, nhưng anh đã hoàn thành xuất sắc được nhiều việc. Charles đã thực sự trải qua cả một cuộc chiến để được chấp nhận vào học tại trường đại học Pennsylvania trong số bảy trăm bạn học cùng phổ thông, trở thành nhân vật xuất sắc nhất trong công việc kinh doanh năng lượng của tập đoàn tài chính Morgan Stanley, lôi kéo được một số khách hàng tư nhân theo mình khi anh mở công ty riêng, Công ty tài chính Harbor (Harbor Capital). Gia đình anh sở hữu một căn nhà nghỉ đông ở Vermont, phí tổn cho con vào đại học cũng đã được chi trả, và còn đem lại cho vợ con những kỳ nghỉ kỳ thú.
Vậy thì anh đã sai lầm điều quái quỷ gì chứ?
Ngoài kia, Tobey đang đưa chân cào cào lên cánh cửa nhà bếp, cố tìm cách để quay vào. Được rồi, ổn thôi. Charles thở dài.
Tuần trước, con chó tha mồi Sasha của họ đã bị cán chết. Ngay tại khu phố yên tĩnh này, ngay trước cửa nhà họ. Chính Charles lại là người nhìn thấy nó, máu me loang lổ, không còn đủ sức để lê về. Mọi người còn đang buồn rầu thì lại anh nhận được một tin nhắn, mẩu giấy nhắn tin được gài vào giỏ hoa gửi đến văn phòng của anh chỉ ngay sau đó một ngày. Nó khiến anh toát mồ hôi lạnh và còn vào cả những giấc mơ kia nữa.
Charles, rất xin lỗi về con chó. Có lẽ tiếp theo sẽ là lũ trẻ nhà anh chăng?
Làm sao câu chuyện lại diễn ra đến thế này kia chứ?
Charles đứng dậy nhìn đồng hồ trên bếp, đã sáu giờ bốn lăm. May mắn thì anh có thể thoát khỏi cái khu bảo dưỡng ô tô ấy vào lúc bảy giờ ba mươi, tới bến tàu vào lúc bảy giờ năm mươi mốt, tới nơi làm việc tại đường Bốn chín, đại lộ Ba sau đó năm mươi phút. Đã rõ những việc phải làm, Charles mở cửa, con chó lập tức phi vụt qua anh băng qua phòng khách, vọt ra khỏi cửa trước, vừa chạy vừa tru lên ăng ẳng. Cánh cửa Charles đã quên không đóng lại, và giờ thì anh đã đánh thức cả khu phố.
Tobey còn ồn ào hơn cả lũ trẻ!
“Karen, anh đi đây!” - Charles kêu to, tay với lấy chiếc cặp, kẹp tờ Tạp chí dưới nách.
“Hôn anh.” - Karen vẫn còn quấn quanh tấm khăn tắm chạy vội từ phòng tắm ra đáp lại.
Trông cô vẫn còn hấp dẫn với mái tóc rối màu nâu nhạt còn ướt nước. Karen vẫn rất đẹp, dáng người đẹp và hấp dẫn là kết quả của nhiều năm tập yoga, nước da của cô cũng vẫn còn mượt mà, còn đôi mắt màu hạt dẻ mơ màng nhìn như bám lấy, xoắn lấy người khác. Charles thoáng chút hối hận đã không nằm rốn thêm một chút với Karen và để cơ hội ngẫu nhiên kéo hai người đi khi Tobey vụt chạy ra ngoài. Nhưng anh lại nói với Karen điều gì đó về chiếc xe anh sắp mang đi bảo dưỡng tại Metro-North, và rằng có thể anh sẽ gọi lại cho cô sau và cô sẽ đón khi anh về lấy xe.
"Yêu anh!” - Karen đáp lại qua tiếng ù ù của chiếc máy sấy tóc.
“Yêu em!”
“Mình sẽ đi chơi sau khi Alex thi đấu...”
Thật tuyệt, đúng không nhỉ, Alex sẽ chơi trận bóng vợt đầu tiên của mùa giải. Charles quay vào nhà, nguệch ngoạc vài chữ trên quầy bar của nhà bếp.
Gửi nhà vô địch, sát thủ số một của bố! Hãy cho đối thủ nếm mùi bại trận! CHÚC MAY MẮN!!!
Charles ký tắt chữ cái đầu, rồi lại xóa đi mà viết vào đó chỉ một chữ Bố. Anh nhìn dòng chữ chăm chăm. Anh phải chặn điều này lại. Dầu có xảy ra điều gì thì anh cũng không bao giờ cho phép bất cứ chuyện gì xảy đến với lũ trẻ.
Charles đi về phía ga-ra, lẫn trong tiếng cánh cửa ga-ra đang tự động mở và tiếng chó sủa ngoài sân, anh vẫn nghe tiếng vợ kêu to từ phía sau chiếc máy sấy tóc “Charles, nhốt ngay con chó đáng ghét ấy lại cho em!”
Chú Thích:
1. Yard: đơn vị đo độ dài thường được dùng ở Anh, Mỹ, Úc, tương đương 0.9144 mét.
2. Phố Wall: khu diễn ra các hoạt động kinh doanh, thị trường chứng khoán lớn nhất nước Mỹ và toàn thế giới, tại New York, Mỹ.
Chương 2
Tám giờ ba mươi.
Karen đang ở phòng tập yoga.
Cô đã đánh thức Alex và Samantha dậy, chuẩn bị bữa sáng cho lũ trẻ với bột ngũ cốc và bánh mì nướng, rồi tìm thấy chiếc áo quây trong ngăn kéo quần áo, mà cô con gái kêu với mẹ là đã “biến mất tiêu” và làm trọng tài cho hai cuộc cãi vã: ai sẽ là người lái xe chở người kia đi học sáng nay và rằng con rận trong bồn tắm chung của hai đứa là của đứa nào.
Con chó tha mồi cũng đã được ăn. Karen kiểm tra lại cho chắc chắn là bộ đồng phục bóng vợt của Alex đã được ủi, và khi cuộc cãi vã về việc ai là người gây chuyện trước sắp bùng lên thì cũng là lúc cô đẩy hai đứa ra khỏi cửa, vào chiếc Acura của Sam, hôn rồi vẫy tay tạm biệt lũ trẻ. Sau đó, cô tìm một trích dẫn trong cuốn Cứu lấy rừng cây cho một trong những cây đu cần chặt hạ của gia đình và gửi nhanh hai bức thư điện tử tới thành viên ban quản trị chiến dịch tài chính sắp tới của trường.
Một khởi đầu... Karen thở dài, gật gật đầu chào đáp lễ một vài người quen tại phòng ghi âm Sportplex tại Stamford.
Chiều nay sẽ là một buổi chiều đáng ghét.
Karen năm nay đã bốn mươi hai tuổi; cô biết rằng trông mình ít nhất cũng trẻ hơn năm năm so với tuổi thực. Với đôi mắt nâu sắc, tàn nhang đã thoáng điểm trên hai gò má, Karen thường được so sánh với Sela Ward (1). Mái tóc nâu nhạt được kẹp cao về phía sau gáy, trong bộ đồ bó sát để tập yoga. Karen ngắm nhìn mình trong gương, tự hào về thân hình của mình dù đã làm mẹ của hai đứa con. Trước đây cô đã từng là người gây quỹ hàng đầu cho Hội Ba- lê của thành phố.
Đó cũng là nơi cô và Charlie (2) lần đầu gặp nhau, tại bữa tiệc tối chiêu đãi của các nhà tài trợ lớn. Tất nhiên là anh đến đó với tư cách đại diện của công ty chứ cũng chẳng thể phân biệt được các động tác vũ ba-lê. Cô vẫn đùa anh rằng đến tận bây giờ anh vẫn chưa thể phân biệt được các động tác đó. Lúc đó trông anh có vẻ ngượng ngập và hơi bối rối. Mắt đeo cặp kính gọng sừng, chiếc quần có dây treo, mái tóc hung đỏ, trông anh giống một vị giáo sư khoa học chính trị hơn là một nhân vật mới nổi thuộc phòng kinh doanh năng lượng của tập đoàn Morgan Stanley. Có vẻ như Charlie rất thích thú khi biết rằng cô là người ở nơi khác tới - bằng chứng là giọng nói của cô thường kéo dài hơn so với cách nói của người vùng này. Chiếc găng tay nhung bó lấy bàn tay cứng rắn của cô, anh vẫn thường thán phục gọi bàn tay cô như vậy, bởi anh chưa bao giờ gặp người nào có thể làm được những việc như cô có thể làm.
Giờ thì giọng nói kéo dài theo cách phát âm địa phương không còn nữa, cả hai bờ hông thon thả của cô cũng vậy. Đấy là chưa nói đến cái cảm giác rằng: liệu cô còn có chút nào đó tính chủ động trong cuộc sống của mình.
Cô đã mất đi điều đó khi sinh lũ trẻ.
Karen, tập trung hít thở trong khi ngả người về phía trước trong tư thế toàn thân làm thành một đường thẳng, một tư thế rất khó với cô, vì phải tập trung vào kéo căng cánh tay hết cỡ và giữ cho cột sống thẳng đứng.
"Thẳng ra phía sau." - Cheryl, giáo viên hướng dẫn cao giọng, - "Donna, hai tay áp sát vào tai. Karen, tư thế chưa được. Xem lại vị trí hai đùi."
"Hai xương đùi tôi sắp rời ra rồi.” - Karen rên lên, loạng choạng. Vài tiếng cười vang lên. Nhưng rồi Karen lấy lại được thăng bằng và đứng thẳng.
"Đuợc lắm ” - Cheryl vỗ tay. - "Rất tốt."
Karen lớn lên ở Atlanta. Bố cô có một chuỗi cửa hàng chuyên sơn và tu sửa các công trình. Cô học trường nghệ thuật Emory. Hai mươi ba tuổi, cô và một người bạn gái tới New York và tìm được công việc đầu tiên ở phòng quảng cáo của Sotheby, và rồi mọi thứ dường như bắt đầu từ đó. Mọi việc không hề dễ dàng vào thời gian đầu khi cô và Charlie mới kết hôn. Cô nghỉ việc, về ở vùng quê này và bắt đầu cuộc sống gia đình. Charlie thì làm việc liên tục -hoặc đi vắng- mà ngay cả khi có mặt ở nhà thì anh cũng chẳng mấy khi rời được chiếc điện thoại.
Công việc ban đầu có chút mạo hiểm. Charlie đã có những bước đi chưa được đúng khi anh bắt đầu mở công ty nên suýt chút nữa là phá sản. Nhưng thật may là có một người thầy có kinh nghiệm ở Morgan Stanley đã giang tay giúp anh, rồi kể từ đó, mọi việc lại trở nên suông sẻ.
Nhưng đó cũng chẳng phải là một cuộc sống của giới thượng lưu bề thế - như một vài người họ quen biết đang sống điền viên trong những pháo đài kiểu Noócmăngđi khổng lồ ở Palm Beach và con cái của bọn họ thì chẳng bao giờ đi máy bay hạng bình dân. Nhưng có ai muốn được như vậy chứ? Gia đình Karen có khu nghỉ ở Vermont, một chiếc thuyền trong câu lạc bộ du thuyền ở Greenwich. Karen vẫn đi mua các loại rau quả và lái xe ra khỏi nhà. Cô cũng gây được quỹ quà tặng cho Trung tâm Thiếu niên, trong khi vẫn quản lý các hóa đơn chi tiêu trong gia đình. Sắc hồng nơi hai gò má như muốn nói rằng cô đang rất hạnh phúc. Cô yêu gia đình mình hơn bất cứ điều gì trên thế giới này.
Vẫn thở mạnh, cô chuyển sang tư thế ngồi. Thật thoải mái khi ít nhất là trong khoảng một giờ đồng hồ nữa cô không phải quanh quẩn với lũ trẻ, đàn chó và đống hóa đơn chất cao trên bàn làm việc ở nhà.
Qua gương, Karen bỗng để ý thấy có điều gì đó. Mọi người đang tập trung lại tại quầy lễ tân, mắt dán vào chiếc ti-vi treo trên đầu.
"Hãy nghĩ đến một nơi nào đó thật đẹp...” - Cheryl hướng dẫn. "Hít sâu. Hãy để hơi thở đưa mình đến đó...."
Karen như thấy mình đang phiêu diêu đến cái nơi cô luôn nghĩ tới, mội khu vịnh nhỏ ngoài đảo Tortola, vùng biển Ca-ri-bê. Cô, Charlie, và lũ trẻ đã tình cờ đến nơi này khi cả gia đình đang du ngoạn gần đó. Họ đã rẽ vào đây và dành trọn một ngày trên khu vịnh ngập tràn màu xanh lam tuyệt đẹp đó. Đó là một thế giới không điện thoại di động cũng chẳng có Nhà hát Hài kịch trung tâm. Karen chưa bao giờ thấy chồng mình thanh thản và thoải mái đến vậy. Anh luôn nói rằng khi lũ trẻ không còn sống chung với hai người nữa, khi anh có thể sắp xếp được công việc của mình, thì hai vợ chồng sẽ tới đó. Đúng thế, trong lòng Karen luôn khấp khởi một niềm vui. Charlie như một kẻ bị kết án chung thân trong công việc: Anh yêu thích nghề kinh doanh chứng khoán, yêu thích sự mạo hiểm. Vì vậy, khu vịnh này có thể sẽ tạo ra cho họ một khoảng cách, nếu có thể. Trong lòng ngập tràn hạnh phúc, cô mỉm cười khi thấy bóng mình trong gương.
Chợt Karen thấy đám đông phía quầy lễ tân bỗng trở nên đông hơn. Vài người đang tập chạy trên băng chuyền cũng bỏ ra xem, mắt họ dán vào chiếc ti-vi. Ngay cả một số huấn luyện viên cũng có mặt ở đó.
Có chuyện rồi!
Cheryl đang cố vỗ tay lôi kéo sự chú ý của mọi người. - “Thôi nào, mọi người, tập trung vào!” - Nhung chẳng ích gì.
Cứ lần lượt từng người một rời bỏ tư thế đang tập mà nhìn chăm chăm ra ngoài.
Một phụ nữ trong câu lạc bộ chạy tới, mở toang cửa. "Có chuyện xảy ra rồi!” - Người phụ nữ mặt trắng bệch thảng thốt. - “Cháy nhà ga trung tâm Grand Central rồi! Hình như có vụ đánh bom sao đó?"
Chú Thích:
1 Sela Ward: nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ.
2 Charlie: Tên gọi thân mật trong gia đình của Charles
Chương 3
Karen chạy vội qua cửa, chen vào trước màn hình ti-vi.
Tất cả mọi người đều chạy theo.
Trên màn hình là một phóng viên đang thu hình tại một con phố trong khu Manhattan đối diện nhà ga, ngập ngừng khẳng định lại thông tin rằng đã có một vụ nổ bên trong nhà ga. "Có thể đã xảy ra nhiều vụ nổ liên tiếp trong nhà ga..." Ngay sau đó, màn hình ti-vi chuyển sang cảnh quay từ trên trực thăng. Từng đám khói lớn cuộn lên từ phía trong nhà ga.
“Ôi, lạy Chúa.” - Karen thì thầm, mắt dán chặt màn hình sợ hãi. - "Chuyện gì đã xảy ra kia chứ...?”
“Đám cháy ở ngay trên đường rầy.” - Một phụ nữ trong bộ đồ tập đứng cạnh Karen nói. - “Họ cho rằng đã có một quả bom nào đó phát nổ trên một trong những đoàn tàu tới nhà ga.”
“Trời ơi, sáng nay con trai tôi đi làm bằng tàu.” - Một người phụ nữ thở hổn hển kêu lên, một tay đưa lên bịt chặt miệng.
Người khác với chiếc khăn bông quàng quanh cổ cố kìm nước mắt nói: “Chồng tôi cũng vậy.”
Trước khi Karen kịp suy nghĩ thì một loạt tin mới tiếp tục được đưa ra: Một vụ nổ, vài vụ nổ, nổ ngay trên đường rầy, ngay khi chuyến tàu tới Metro-North vào ga. Một đám cháy đang cuộn lên ở đó. Khói tràn cả lên đường phố. Hàng chục, thậm chí hàng trăm người đang mắc kẹt dưới ga điện ngầm. Tình hình thật tồi tệ!
"Kẻ nào đã làm chuyện này?” - Mọi người bàn tán xôn xao. "Họ cho rằng đó là do bọn khủng bố.” - Một trong những nhân viên huấn luyện lắc lắc cái đầu. - “Họ cũng không biết...”
Trước đây họ đều đã phải trải qua những giây phút kinh hoàng như vậy. Karen và Charlie đều có người quen, những người đã không bao giờ trở lại sau vụ 11 tháng 9. Ban đầu Karen còn xem tin với nỗi lo lắng cảm thông của một người mà cuộc sống của mình không bị ảnh hưởng bởi tấn thảm kịch đang diễn ra trước mắt. Những con người không tên, không hình dạng, mà có lẽ cô đã gặp hàng trăm lần - đối mặt nhau trên tàu, hay đọc những trang báo thể thao ấy, hoặc vội vã trên đường để đón được chuyến tàu... Những con mắt đang dán lên màn hình ti-vi, giờ đây rất nhiều người trong câu lạc bộ đang nắm chặt lấy tay nhau.
Rồi bỗng nhiên, có điều gì đó đổ ụp lên Karen.
Không quá đột ngột - mà là cảm giác chết lặng đi, tê tái trong lồng ngực, rồi cảm giác đó ngày càng mạnh hơn, cùng với đó là nỗi kinh hoàng treo lơ lửng trước mắt.
Charlie đã gọi với vào nói với cô điều gì đó - về việc anh sẽ đi tàu sáng nay, lẫn trong tiếng máy sấy tóc.....Về việc anh phải mang xe đi bảo trì và cô sẽ phải đón anh chiều hôm đó.
Ôi, Chúa ơi...
Có cảm giác như vật gì đang xiết chặt lấy ngực cô. Karen liếc nhanh nhìn đồng hồ. Cô cuống cuồng sắp xếp lại lịch trình. Charlie, anh rời nhà lúc mấy giờ, bây giờ là mấy giờ... Cô bắt đầu cảm thấy hoảng sợ. Tim đập nhanh dần như tiếng trống gõ nhịp tốc độ cao.
Bản tin mới nhất lại được phát. Karen căng cứng cả người. "Có lẽ là chúng ta đang chứng kiến một vụ nổ bom.” - người phóng viên thông báo, - "trên chuyến tàu tới Metro-North ngay khi nó đang vào ga Trung tâm Grand Central. Thông tin này đã được kiểm chứng. Vụ nổ xảy ra ở nhánh Stamford."
Nhiều tiếng thở hắt ra vang lên từ phòng thu. Hầu hết những người trong số họ đều ở quanh khu vực đó. Tất cả mọi người đều biết đến những ai thường xuyên di chuyển bằng tàu điện ngầm, đó là người thân, bạn bè của họ. Những khuôn mặt đỏ bừng vì sốc. Mọi người quay ra nhìn nhau mà thậm chí không còn biết mình đang đứng cạnh ai nữa, điều duy nhất họ cần lúc đó là tìm kiếm sự chia sẻ, cảm thông trong ánh mắt nhau.
“Thật đáng sợ.” - Người phụ nữ đứng cạnh Karen lắc lắc đầu.
Karen thậm chí không thể đáp lại nổi câu nói của người phụ nữ đó. Cơn ớn lạnh đã kiểm soát toàn bộ cơ thể cô, nó lần chạy chậm chạp như từng nhát dao cứa vào xương thịt cô.
Chuyến tàu nhánh Stamford chạy qua Greenwich.
Cô chỉ còn biết nhìn lên đồng hồ và hoảng sợ - tám giờ năm mươi tư phút. Ngực nhói lên bóp nghẹt nhịp thở cô.
Người phụ nữ nhìn cô chăm chăm: “Này, cô có sao không thế?”
“Tôi cũng không biết...” - Ánh mắt Karen tràn ngập nỗi sợ hãi. - “Có lẽ chồng tôi trên chuyến tàu đó.”
Chương 4
Tám giờ bốn mươi lăm sáng.
Ty Hauck đang trên đường tới nơi làm việc.
Anh giảm động cơ còn năm dặm một giờ để đưa chiếc thuyền đánh cá loại nhỏ Merrily dài cỡ hai mươi tư foot (1) vào cảng Greenwich.
Hauck vẫn thường đi thuyền như vậy mỗi khi thời tiết đẹp. Sáng nay, bầu trời trong sáng, làn gió tháng tư khô và hơi lạnh, anh nhìn lên từ bàn làm việc và lẩm bẩm: Những ngày hè đã chính thức bắt đầu rồi! Hai mươi lăm phút tới eo Long Island từ chỗ ở của anh gần đảo Cove, Stamford cũng chẳng dài hơn việc phải đi như rùa tới đường 1-95 vào giờ này buổi sáng. Và cơn gió lộng thổi tung mái tóc khiến anh nhanh chóng tỉnh ngủ hơn bất cứ loại cà phê tốt nhất nào ở Starbucks (2). Anh bật chiếc máy nghe nhạc. Giọng ca của Fleetwood Mac vang lên một giai điệu yêu thích của Hauck:
Rhinannon cất tiếng vang như chuông chiều muộn
Anh lại chẳng thích được yêu cô ấy hay sao.
Đó là lý do tại sao anh chuyển đến đây bốn năm trước sau cái tai nạn đó, sau khi hôn nhân của anh tan vỡ. Có người cho rằng đó chỉ là một sự chạy trốn. Có lẽ cũng là thế thật, nhưng chỉ một chút thôi, nhưng nếu đúng thế thì đã sao?
Hauck là chỉ huy Cơ quan Điều tra tội phạm bạo lực thuộc Phòng Cảnh sát Greenwich. Mọi người đặt niềm tin lên anh. Liệu điều đó có phải là trốn chạy hay không? Đôi khi anh lấy thuyền chạy lòng vòng khoảng một tiếng trước khi đến nơi làm việc trong cái bình lặng đỏ hồng của mỗi buổi sáng trước bình minh, câu loại cá ngạnh màu xanh và loại có sọc. Liệu có phải đó là trốn chạy?
Anh đã lớn lên ở đây, trong gia đình trung lưu Byram, gần cảng Chester, ngay biên giới với bang New York, về địa lý thì chỉ cách cái khu bất động sản kếch sù vài dặm đường, nhưng đó lại là khoảng cách cả một đời người. Đó là cái khu bất động sản nằm dọc theo con đường về miền quê, đó là những cánh cổng giờ đây anh đã chạy qua để theo kịp đứa trẻ ranh đã lật ngược chiếc xe Hummer trị giá sáu mươi ngàn đô la của anh.
Nhưng giờ thì mọi việc đã khác. Những gia đình thôn dã đã sinh ra và lớn lên ở đó trong suốt tuổi thanh niên của anh đã phải nhường chỗ cho những gã nhà giàu kếch sù với những khoản quỹ đầu tư hợp tác lên tới con số trên ba mươi triệu. Đó là những kẻ đã kéo sập những khu nhà cũ rồi thay thế vào đó những pháo đài nằm phía sau cổng sắt với những chiếc bể bơi có kích thước của cả một chiếc hồ và cả nhà hát trong đó nữa. Bất cứ ai có tiền đều sẽ bước vào đó. Giờ thì những gã lắm tiền người Nga -có trời mới biết được bọn chúng lấy tiền ở đâu ra- đang mua sạch những khu bất động sản vùng quê nuôi ngựa ở trang trại Conyers, và xây trên đó cả những sân bay cho trực thăng hạ cánh.
Những gã tỷ phú đang làm hỏng mọi thứ chỉ dành cho triệu phú. Hauck lắc đầu.
Hai mươi năm trước, anh đã tham gia một cuộc phá án ở đồi Greenwich. Sau đó anh tiếp tục chuyển sang Colby, đơn vị số 3. Chẳng phải là vị trí cao hẳn nằm trong tốp ten, nhưng sự nổi tiếng cũng khiến anh thăng tiến nhanh trong chương trình đào tạo thanh tra của Sở cảnh sát New York. Điều này khiến bố anh, người đã dành cả đời mình cho chính quyền thành phố Greenwich Water, rất tự hào. Anh đã phá được một vài vụ án quan trọng và thăng tiến. Sau đó, anh chuyển sang làm ở Phòng thông tin của Sở khi xảy ra vụ tòa Tháp đôi bị tấn công.
Giờ anh lại quay trở lại.
Khi anh đưa thuyền vào cảng, phía bên trái là bãi cỏ có tên Bến cảng xinh đẹp được cắt tỉa gọn gàng, một vài chiếc thuyền nhỏ chạy ngang qua anh -chủ nhân những chiếc thuyền ấy cũng giống anh, vượt qua eo biển đến nơi làm việc ở Long Island trong thời gian chưa đến nửa giờ đồng hồ.
Hauck vẫy tay.
Anh thích nơi này, dẫu rằng đã có rất nhiều nỗi đau đã để lại dấu ấn của nó ở đây.
Kể từ khi hôn nhân với Beth tan vỡ, anh thấy mình thật lẻ loi. Anh cũng có hẹn hò đôi chút: với một cô thư ký xinh đẹp cho Tổng giám đốc điều hành của tập đoàn Tái bảo hiểm General, cô đã làm công việc tiếp thị ở Altria một thời gian. Ngoài ra anh còn hẹn hò với vài cô cùng làm trong ngành nữa, nhưng anh cũng chẳng tìm được ai có thể chia sẻ quãng đời còn lại. Thế mà Beth lại làm được điều đó.
Thi thoảng anh có tụ tập cùng vài người bạn cũ ở cùng thị trấn, một vài người đã kiếm được bộn tiền từ công việc xây dựng nhà ở, vài người khác lại chỉ là thợ sửa chữa đường ống hay môi giới chứng khoán hoặc sở hữu cả một công ty xây dựng vườn hoa. "Đôi chân huyền thoại," đó là cái cách mà mọi người thường gọi anh, với âm cuối đọc nhỏ đi, như ở trong từ “huyền thoại.” Những người nhiều tuổi hơn vẫn thường khen ngợi rằng đó là một trận thi đấu hay nhất mà họ từng được xem kể từ thời Steve Young và còn đãi bia anh nữa. Họ vẫn nhớ anh đã ào tới khu vực về đích, đánh bại Stamford West để dành lấy vương miện của hạt Lower Fairfield.
Nhưng điều lớn nhất đơn giản chỉ là anh cảm thấy tự do. Rằng quá khứ không còn đeo đẳng nữa. Anh đã cố gắng làm một điều gì đó tốt trong ngày, tạo ra những khoảng thời gian nghỉ ngơi cho mọi người. Đảm bảo công bằng, anh còn có Jessica bên cạnh nữa, con bé đã lên mười tuổi. Cuối tuần họ thường đi câu cá và đi đá bóng ở Tod’s Point rồi nấu ăn ngoài trời ở đó nữa. Các chiều chủ nhật, anh lại đưa con bé về Brooklyn, nơi nó đang sống, trên chiếc Bronco anh đã dùng tám năm nay. Những buổi tối thứ sáu mùa đông, anh thường chơi khúc côn cầu ở câu lạc bộ của những người trên bốn mươi tuổi của địa phương.
Cơ bản mà nói, mỗi ngày anh lại đẩy lùi điều đó về phía sau một chút - cố gắng tìm kiếm, đưa bản thân trở lại với cái thời điểm mà mọi thứ chưa đổ sập xuống anh. Cái thời điểm trước tai nạn đó, trước khi hôn nhân tan vỡ, trước cả khi anh đầu hàng.
Vậy thì tại sao lại quay lại đó, Ty?
Dầu có cố gắng đến đâu thì người ta cũng không thể đẩy mọi thứ về phía sau được. Cuộc sống không cho phép người ta làm điều đó.
Hauck đã nhìn thấy bến đỗ du thuyền của Câu lạc bộ du thuyền Indian Habour. Trên bến là người phụ trách bến, Hank Gordon, một người bạn cũ của Hauck, người vẫn thường cho anh đậu thuyền trong ngày, Hauck nhấc máy bộ đàm.
“Gordon, tôi đang vào bến...”
Nhưng Gordon vẫn đứng đợi anh ở cầu cảng.
“Anh làm cái quái gì ở đây vậy, Ty?"
“Mùa hè đã đến, anh bạn ạ!” - Hauck nói to. Anh quay đầu đưa chiếc Merrily vào bến.
Gordon tung sợi dây buộc chiếc thuyền lại. Hauck tắt máy. Anh bước tới phía đuôi thuyền khi con thuyền chạm chiếc phao lót, đáp vào cầu cảng.
“Ngoài kia chẳng khác nào một giấc mơ cả.”
“Ác mộng thì có,” - Hank nói. - “Cứ để tôi giữ nó ở đây, Ty. Tốt hơn hết là cậu nên lên phía trên đồi kia mà xem.”
Có điều gì đó trong ánh mắt Hank khiến Hauck khó hiểu. Anh liếc nhìn đồng hồ - tám giờ năm mươi hai phút. Anh và Gordon vẫn thường tán gẫu vài câu về đội Rangers hay những gì cảnh sát đã phát hiện ra vào tối hôm trước.
Cũng chính lúc đó tiếng chuông di động của Hauck vang lên. Điện thoại từ cơ quan. Hai-ba-bảy.
Hai-ba-bảy là số khẩn cấp của sở cảnh sát.
“Cậu không bật đài đúng không?” - Gordon hỏi, tay vẫn đang siết chặt lại sợi dây.
Hauck ngây ra lắc đầu.
“Vậy thì chắc chắn là cậu chưa hề biết rằng chuyện gì đang xảy ra ở đó cả, phải vậy không, trung úy?”
Chú Thích:
1 (foot) đơn vị đo lường Anh - Mỹ = 0,3048m
2 Starbucks: chuỗi cửa hàng cà phê nổi tiếng của Mỹ
Chương 5
Lúc đầu Karen cũng rất bình tĩnh. Làm rối mọi chuyện lên không phải là tính cách của cô. Cô phải luôn tự nhủ không biết bao nhiêu lần rằng mình phải bình tĩnh, thật bình tĩnh. Charlie có thể ở một nơi nào đó, bất cứ nơi nào khác.
Karen, mày còn chưa biết chắc rằng Charlie có đi chuyến tàu đó hay không kia mà.
Cách đây vài năm, đã có chuyện tương tự xảy ra với họ. Lúc đó Samantha mới chỉ bốn hoặc năm tuổi. Hai vợ chồng Karen tưởng đã mất con bé ở siêu thị Bloomie. Sau khi tìm kiếm hoảng loạn, lần cả lại những nơi cả gia đình đã đi qua, gọi cho người quản lý, và bắt đầu có ý nghĩ là phải chấp nhận một thực tế là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra - rằng đây chẳng phải là sự ngẫu nhiên hay một báo động giả nào đó! - thì cả hai bỗng thấy con bé đang đứng đó bình thản như thể đang đứng trên sân khấu trường học của mình, tay giơ lên vẫy bố mẹ, tay đang lần giở mấy trang của một trong những cuốn sách yêu thích trên đống thảm phương Đông.
Bây giờ mọi chuyện có thể cũng giống vậy, Karen tự trấn tĩnh. Cần phải bình tĩnh, Karen. Khốn thật, phải thật bình tĩnh!
Cô chạy vào phòng tập yoga, tìm chiếc túi, lục tìm điện thoại di động. Tim đập rộn từng hồi, cô ấn mạnh phím tắt gọi cho Charlie. Nào, thôi nào... Ngón tay cô run lên bần bật.
Trong khi đợi điện thoại kết nối, Karen cố gắng nhớ lịch trình buổi sáng hôm đó của Charlie. Anh rời nhà khoảng lúc bảy giờ. Lúc đó cô đang sắp sấy tóc xong. Mất mười phút để vào phố, mười phút nữa để tới nơi bảo dưỡng để xe ở đó để họ kiểm tra kỹ lưỡng những gì cần phải bảo dưỡng. Vậy thì lúc đó sẽ là bảy giờ hai mươi, phải không nhỉ? Cũng sẽ mất khoảng mười phút nữa để tới nhà ga. Bản tin có nói rằng vụ nổ xảy ra lúc tám giờ bốn mươi mốt phút. Có thể anh đi chuyến sớm hơn. Hay cũng có thể gặp một doanh nhân vay vốn nào đó và đi ô tô tới nơi làm việc. Trong giây lát, Karen cảm thấy nhẹ hẳn người. Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra... Charlie là người có tài xoay xở nhất mà cô từng biết.
Bắt đầu có tiếng chuông điện thoại. Karen bỗng thấy tay mình run lên. Nào, nhấc máy đi, trả lời điện thoại đi Charlie...
Giọng nói Charlie vang lên, nhưng chỉ là trong hộp thư thoại, khiến Karen mất hết bình tĩnh. "Đây là số điện thoại của Charlie Friedman..."
“Charlie, em đây. ” - Karen bật lên. - “Em thật sự lo lắng. Em biết anh đi tàu. Anh phải gọi cho em ngay sau khi anh nhận được tin này nhé. Em không quan tâm anh đang làm gì, Charlie, chỉ cần anh gọi, anh...”
Cô ấn nút tắt điện thoại trong tâm trạng hoàn toàn vô vọng. Rồi cô nhận ra rằng có một tin nhắn thoại tới điện thoại mình! Máu chạy rần rật trong huyết quản, cô nhanh chóng lần tới phần nhật ký các cuộc gọi tới gần nhất.
Chính là số của Charlie! Lạy Chúa! Tim cô như muốn vỡ tung ra vì hạnh phúc.
Tâm trạng bồn chồn, Karen nhập mã số, đưa điện thoại lên tai nghe. Giọng nói quen thuộc của Charlie vang lên, bình thản. “Nghe này, em yêu, anh nghĩ là khi nào tới nhà ga trung tâm Grand Central, anh sẽ mua một ít bít-tết ướp mà em ưa thích ở cửa hàng Ottomanelli trên đường về nhà, chúng mình sẽ nướng chứ không đi ăn hàng nữa... Nghe có vẻ cũng hay đấy chứ? Báo cho anh biết xem có được không nhé. Anh sẽ tới cơ quan vào lúc chín giờ. Anh cúp máy đây. Ở chỗ bảo dưỡng thật ồn ào và náo loạn. Thế nhé. "
Karen nhìn tin nhắn thoại, lúc đó là tám giờ ba mươi tư phút. Anh ấy đang trên đường tới ga Grand Central khi gọi cho mình. Lúc đó vẫn đang trên tàu. Mồ hôi bắt đầu túa ra. Cô nhìn lại màn hình ti-vi, nhìn lại cái màn khói đen đang phủ kín nhà ga Grand Central, một sự hỗn loạn và lộn xộn đang hiện ra trên màn hình.
Bỗng nhiên cô chợt hiểu ra, từ trong sâu thẳm trái tim. Cô chẳng thể phủ nhận được điều đó nữa.
Charlie đã đi trên chuyến tàu đó. Chồng cô đã đi trên chuyến tàu đó.
Không thể kiềm chế hơn được nữa, Karen vội vàng nhấn số điện thoại cơ quan Charlie. Thôi nào, nào, cô cứ lặp đi lặp lại câu nói đó trong suốt những giây đồng hồ kéo dài đầy đau đớn chờ đợi kết nối với điện thoại cơ quan Charlie. Cuối cùng thì Heather, trợ lý của Charlie, cũng nhấc ống nghe.
“Văn phòng Charles Friedman xin nghe.”
“Heather à, Karen đây.” - Karen cố giữ bình tĩnh. "Cô đã thấy chồng tôi đến cơ quan chưa?”
“Chưa, thưa bà Friedman. Nhưng trước đó ông nhà đã gửi cho tôi một email từ điện thoại di động nói rằng sáng nay ông phải mang xe đi bảo dưỡng hay gì đó. Chắc chắn tôi sẽ gặp ông nhà sớm thôi.”
“Tôi biết anh ấy đem xe đi bảo dưỡng. Đó chính là điều tôi đang lo lắng. Cô có xem tin không? Anh ấy đi tàu đến cơ quan."
"Ôi lạy Chúa tôi! ” - Cô trợ lý hoảng sợ, thực tế ập dến. Tất nhiên là cô ta đã xem thời sự. Tất cả mọi người đều đã xem tin ấy. Cả văn phòng đang xem.
“Cô Friedman, để tôi thử gọi lại cho ông nhà xem sao. Tôi chắc là hiện tại ở nhà ga Grand Central đang lộn xộn lắm. Có thể ông nhà đang tìm đường lên khỏi nhà ga tàu điện và ở đó điện thoại không có sóng. Có thể ông nhà đi chuyến tàu muộn hơn. - ”
“Anh ấy có gọi cho tôi! Lúc tám giờ ba mươi tư phút. Anh ấy nói rằng chỉ vài phút nữa là tàu vào nhà ga Grand Central...” - Giọng Karen trở nên run rẩy. - “Tám giờ ba mươi tư phút, Heather à! Anh ấy đã đi chuyến tàu ấy. Nếu không anh ấy đã gọi cho tôi rồi. Tôi nghĩ anh ấy đã đi chuyến tàu ấy... "
Heather khuyên Karen hãy bình tĩnh và nói rằng cô sẽ gửi thư điện tử cho Charlie, rằng cô chắc chắn sẽ sớm biết tin tức của Charlie. Karen đồng ý, nhưng khi cô bỏ điện thoại xuống, tim cô muốn nhảy vọt ra khỏi lồng ngực, máu chạy trong huyết quản dường như không còn nằm trong tầm kiểm soát của cô nữa. Karen không biết sẽ phải làm gì. Cô úp chặt chiếc điện thoại vào ngực, gọi cho Charlie một lần nữa.
Thôi nào, Charlie... Charlie, em xin anh đấy...
Phía ngoài nhà ga trung tâm Grand Central, viên phóng viên thời sự đang khẳng định lại thông tin rằng có ít nhất một quả bom đã phát nổ. Một vài người thoát nạn đang lên khỏi nhà ga. Họ túm lại phía trên đường, mặt mũi còn đầy hoảng hốt cùng những vệt máu ám khói. Họ đang nói điều gì đó về đường rầy số 109, đã có ít nhất hai vụ nổ lớn và một đám cháy đã bùng lên ở đó, rất nhiều người còn đang bị kẹt lại. Có vật nào đó phát nổ ở phía hai toa xe đầu tiên.
Karen chết điếng. Cuối cùng nước mắt cũng bắt đầu tràn xuống hai má.
Đó chính là nơi Charlie vẫn thường ngồi. Ngồi ở đó giống như một nghi lễ đối với anh vậy. Anh luôn ngồi ở toa đầu tiên!
Thôi nào, Charlie... Karen thầm cầu xin, mắt vẫn hướng lên màn hình phía bên ngoài. Người ta đang điều tra nguyên nhân. Hãy nhìn xem, người ta đang phỏng vấn những người thoát nạn.
Karen quay số Charlie một lần nữa, phó mặc toàn thân cho nỗi sợ hãi đến tận cùng.
“Charlie, trả lời điện thoại đi chứ, Charlie!"
Chương 6
Karen bỗng nhớ đến Samantha và Alex. Cô nhận ra rằng mình phải về nhà. Cô sẽ phải nói gì với lũ trẻ đây? Charlie vẫn luôn lái xe đi làm. Anh có nơi để xe riêng ở tòa nhà nơi làm việc. Thói quen đó đã kéo dài nhiều năm nay.
Vậy mà cái buổi sáng chết tiệt ấy anh lại đi tàu đến nơi làm việc!
Karen nhét chiếc áo đẫm mồ hôi vào túi xách và chạy vội ra ngoài, qua quầy lễ tân và cửa kính phía ngoài. Cô vội vã tới bên
chiếc Lexus của mình, chiếc xe sử dụng công nghệ hybrid (1) Charlie đã mua cho cô cách đây chưa đầy một tháng. Mùi khoang để đồ vẫn còn mới. Cô nhấn nút mở khóa tự động và nhảy vội vào xe.
Từ nơi tập về đến nhà mất mười phút. Chạy ra khỏi bãi đỗ xe, Karen bật điện thoại Bluetooth (2) về chế độ tự động gọi tới số máy của Charlie. Charlie, xin anh đấy, trả lời điện thoại đi Charlie!
Tim cô như sụi xuống. “Đây là số máy của Charlie Friedman..."
Nước mắt vẫn chảy dài trên má dẫu cô có cố kìm lại những dòng nước mắt tồi tệ nhất. Chuyện này không thể xảy ra!
Karen đột ngột ngoặt phải ra khỏi bãi đỗ xe của Sportsplex, ngay tại Prospect, vượt qua đèn giao thông ngay góc cua, và tăng tốc khi chạy vào đường 1-95. Các phương tiện giao thông đang di chuyển ngược trở lại, làm chậm tất cả những gì hướng tới trung tâm Greenwich.
Tất cả các loại bản tin mới nhất, mâu thuẫn nhau nhất cũng đang được truyền đi. Đài phát thanh cho rằng đã có nhiều tiếng nổ phát ra từ nhà ga. Rằng một đám cháy đã bùng lên giữa các đường rầy, người ta đang không thể kiếm soát được đám cháy. Rằng sức nóng tăng mạnh và khói độc khiến lính cứu hỏa không thể tiếp cận gần hơn chút nào với mục tiêu. Rằng con số thương vong là rất lớn.
Tất cả những thứ đó đang khiến Karen hoảng loạn thực sự.
Rất có thể Charlie đang bị mắc kẹt ở dưới đó. Hay ở bất cứ chỗ nào. Anh có thể đã bị bỏng hay bị thương mà không thể thoát ra khỏi chỗ đó. Hay cũng có thể anh đang trên đường tới bệnh viện. Có đến hàng tỷ kịch bản có thể xảy ra. Karen tiếp tục quay số Charlie.
“Charlie, anh đang ở đâu, chúa ơi? Thôi nào, Charlie... "
Karen lại nghĩ đến Samantha và Alex. Lũ trẻ chưa biết đã có chuyện gì xảy ra. Ngay cả khi chúng biết tin về vụ nổ thì chúng cũng không nghĩ đến điều gì vì Charlie luôn đi làm bằng ô tô.
Karen rẽ vào đường nhánh số 5, Old Greenwich, chạy vào đường Post Road. Đột nhiên điện thoại cô vang lên. Ơn Chúa! Tim cô như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Nhưng đó là Paula, bạn thân của Karen, nhà ở khu ven hồ, chỉ cách nhà cô vài phút đi đường.
"Cậu có nghe chuyện gì đang xảy ra không?” - Tiếng ti-vi loáng thoáng trong điện thoại.
"Tớ biết rồi, Paula à. Tớ.."
"Người ta nói rằng chuyến tàu tới từ ga Greenwich. Có thể có những người chúng ta - "
“Paula," - Karen ngắt lời, khó nhọc nói từng từ. -"Tớ nghĩ là Charlie đã đi chuyến tàu đó."
“Cái gì?"
Karen kể cho Paula về chuyện chiếc xe và rằng cô không thể liên lạc được với Charlie. Cô cũng nói cô đang trên đường về nhà và không muốn có cuộc điện thoại gọi đến phòng trường hợp Charlie hoặc văn phòng anh gọi điện tới.
“Chắc chắn rồi, bạn à. Tớ hiểu, Karen. Charlie sẽ ổn thôi. Anh ấy luôn biết cách thoát ra khỏi mọi trường hợp khó khăn. Cậu biết điều đó, phải không nào, Karen?”
"Tớ biết,” - Karen nói, dẫu rằng tự cô cũng biết rằng mình đang tự huyễn hoặc bản thân. - “Tớ biết mà.”
Karen chạy xe qua phố, tim đập dồn dập. Cô rẽ vào đường Shore Road gần eo biển, rồi tới Sea Wall. Cô đưa chiếc Lexus vào đường chạy xe vào khu nhà của mình. Chiếc Mustang cũ của Charlic đậu trong khoang thứ ba của ga-ra, vẫn vậy, như cách đây một giờ đồng hồ. Cô chạy thẳng từ ga-ra vào nhà bếp. Hy vọng trào lên trong cô khi thấy tin nhắn đang nhấp nháy trên máy gây âm cuộc gọi. Lạy Chúa... , cô thầm cầu nguyện và ấn nút play, máu chạy rần rật, sợ hãi.
"Xin chào bà Friedman...” - Một giọng nói u ám vang lên. Là Mal, thợ làm ống nước của họ, luôn than phiền về hệ thống làm nóng nước cô muốn sửa trước đó, về một cái van chết tiệt nào đó mà hắn đã phải bỏ công tìm kiếm. Nước mắt tràn xuống hai má, hai chân không còn đứng vững, cô dựa người vào tường, từ từ sụp xuống một cách vô vọng. Tobey ve vẩy đuôi, đưa mũi hít hít người Karen. Cô đưa hai lòng bàn tay lau nước mắt. " Thôi nào, Tobey, không phải bây giờ...”
Karen sờ soạng tìm kiếm chiếc điều khiển. Cô bật ti-vi. Tình hình đã trở nên xấu hơn. Matt Lauer đang xuất hiện trên màn hình ti-vi cùng Brian Williams -các bản tin đều đưa rằng con số thương vong ở dưới đường tàu điện ngầm đã lên tới hàng chục người, đám cháy đang lan rộng và chưa thể kiểm soát. Một phần phía dưới ga tàu điện đã bị sập, và trong khi người ta chuyển cảnh quay tới một chuyên gia về Al Qaeda thì một khung nhỏ màn hình đang hiện lên cảnh từng đám khói đen đang bốc lên bầu trời Manhattan.
Chắc anh ấy đã gọi điện cho họ, Karen biết, ít nhất là gọi cho Heather ở văn phòng -nếu không có chuyện gì xảy ra với anh. Thậm chí có thể còn trước khi gọi cho cô. Đó chính là điều khiến cô sợ nhất. Cô nhắm mắt.
Chỉ cần anh bình an là được, Charlie, dẫu anh có ở nơi nào. Chi cần không có chuyện gì xảy ra.
Có tiếng cửa ô tô đóng mạnh phía ngoài. Chuông cửa vang lên. Có ai đó vừa gọi tên cô vừa chạy thẳng vào nhà.
Là Paula. Paula nhìn chằm chằm vào Karen đang nằm rúm ró trên sàn nhà với ánh mắt cô chưa từng bao giờ nhìn thấy. Paula vội ngồi sụp xuống bên cạnh, hai người ôm lấy nhau, nước mắt tràn ra trên má hai người.
“Sẽ ổn thôi mà.” - Paula vuốt tóc Karen. - “Tớ biết là sẽ ổn cả thôi mà. Ở dưới ấy có tới hàng trăm người ấy chứ. Có thể dưới đó không có sóng điện thoại. Có lẽ anh ấy đang được nhân viên y tế chăm sóc. Anh ấy có thể là một trong những người thoát nạn. Nếu có ai đó thoát ra khỏi được nơi ấy thì đó phải là Charlie. Karen à, rồi cậu sẽ thấy. Sẽ ổn cả thôi mà.”
Karen gật đầu liên tục, miệng lặp đi lặp lại "Tớ biết, tớ biết..." và đưa ống tay áo lên lau mắt.
Cả hai thay nhau quay số Charlie. Biết làm sao được? Hết số điện thoại cùa Charlie lại đến số điện thoại cơ quan. Có lẽ phải đến ba mươi hay bốn mươi lần gì đó.
Đôi lúc Karen còn sụt sịt mỉm cười nói “Cậu biết không, Charlie sẽ phát điên lên mất nếu biết tớ kiểm soát anh ấy ở văn phòng như thế này.”
Chín giờ bốn mươi lăm phút, cả hai ra ngồi trên đi-văng trong phòng khách. Cũng chính lúc đó, cả hai nghe tiếng xe chạy tới và tiếng cửa ô tô sập mở. Alex và Samantha chạy ào vào bếp la lên "Được nghỉ học! ”
Lũ trẻ thò đầu vào phòng ti-vi. - “Mẹ biết đã xảy ra chuyện gì chưa?” Alex hỏi.
Karen không cất được lời. Sự xuất hiện của lũ trẻ khiến nỗi sợ hãi trào lên trong cô. Cô bảo lũ trẻ ngồi xuống. Giờ thì cả hai đều nhận ra nỗi sợ hãi và buồn rầu đang hiện lên trên mặt mẹ, nhận ra rằng có điều gì đó rất tồi tệ đã xảy ra.
Samantha ngồi xuống trước mặt cô.
“Mẹ, có chuyện gì sao?”
“Sáng nay bố con mang xe đi bảo dưỡng,” - Karen nói.
“Vậy thì sao chứ?”
Karen nuốt tiếng nấc nghẹn - nếu không, chắc hẳn cô đã bật lên tiếng khóc.
“Sau đó,” - cô ngừng lại. - “Mẹ nghĩ là bố con vào thành phố bằng tàu điện ngầm.”
Hai đứa trợn tròn mắt và cũng giống như Karen, bốn con mắt vội hướng về phía màn hình ti-vi.
“Bố đang ở đó sao? Ở nhà ga Trung tâm Grand Central? - Thằng con trai hỏi.
"Mẹ không biết, con à. Chúng ta chưa có tin tức gì của bố. Đó chính là điều đáng lo nhất. Bố đã gọi cho mẹ trước đó báo rằng bố đang ở trên tàu. Lúc đó là tám giờ ba mươi tư phút. Mà vụ này bắt đầu xảy ra lúc tám giờ bốn mươi mốt phút. Mẹ không biết...."
Karen cố gắng hết sức để tỏ ra lạc quan và mạnh mẽ, cố gắng bằng cả con tim mình để không làm lũ trẻ lo lắng, bởi cô biết rằng với cùng một điều chắc chắn không hề thay đổi ấy là bất cứ khi nào Charlie cũng sẽ gọi điện báo với họ rằng anh không hề gì. Vì vậy cô thậm chí còn không cảm nhận được những vệt nước mắt đang chảy dài hai bên má, rơi xuống đùi. Samantha đang nhìn mẹ chăm chăm, miệng mếu đi và cũng đang sắp khóc, còn Alex khốn khổ của cô thì mặt trắng như tờ giấy, mắt nhìn như bị thôi miên vào cột khói đang cuộn lên trên bầu trời Manhattan.
Một lúc lâu không ai nói một lời. Họ chỉ nhìn, tất cả đều chìm đắm vào cái thế giới của hy vọng và không tin vào những gì đang xảy ra trước mắt. Sam vòng tay lỏng ôm cổ Alex, gục đầu lo lắng trên vai anh trai, còn Alex thì lần đầu tiên trong năm, cậu nắm chặt tay mẹ, nhìn màn hình chăm chú, chờ đợi sự xuất hiện của bố. Paula đang chống khuỷu tay trên gối bỗng chỉ tay vào màn hình mà kêu lên: Nhìn kìa, Charlie đấy! và nhảy dựng lên sung sướng, chờ đợi với niềm tin chắc chắn rằng cô sẽ được nghe tiếng chuông điện thoại sẽ reo lên.
Alex quay qua Karen: - “Bố sẽ tìm được cách xoay xỏa mà. Phải vậy không mẹ?”
“Chắc chắn rồi con à.” - Karen xiết chặt tay cậu con trai. - “Con biết bố con mà. Nếu có ai đó xoay xở được thì đó chính là bố con.”
Cũng chính lúc đó, họ bỗng nghe một tiếng vang trầm đục. Màn hình camera rung lắc mạnh trong một tiếng nổ bị bóp nghẹt lại. Những người đứng xem thét lên khi một cột khói đen đặc nữa lại bốc lên từ nhà ga.
Samantha rền rĩ: "Không, Chúa ơi... ”
Karen thấy chân tay như rụng rời. Cô nắm chặt tay Alex, xiết mạnh: “ Ôi không, Charlie, Charlie, Charlie...”
“Lại có nhiều vụ nổ tiếp theo...” - Chỉ huy lực lượng cứu hỏa thì thào khi bước lên khỏi nhà ga, lắc đầu kết luận - “Có rất nhiều người đang mắc kẹt dưới đó. Chúng tôi thậm chí không thể tiếp cận được với họ.”
Chú Thích:
1 Công nghệ hybrid: công nghệ ô tô cho phép chạy được bằng hai loại nhiên liệu khác nhau (thường là gas và xăng)
2 Bluetooth: công nghệ truyền thông không dây tầm gần, thường tích hợp với điện thoại, máy tính và các thiết bị cầm tay khác.
Chương 7
Chiều
Hauck đang gọi điện cho phòng Xử lý tình trạng khẩn cấp thuộc Sở cảnh sát New York thì có điện thoại.
Có thể là ở 634. Hiện đang rời hiện trường vụ tai nạn. Phố West Street và Post Road.
Đã cả sáng nay Hauck không rời mắt khỏi vụ rối loạn đang diễn ra trong thành phố. Không liên lạc được với người thân của mình, không biết làm gì hơn, cả ngày hôm nay nhiều người hoảng loạn đã gọi đến Sở cảnh sát. Khi Tòa tháp đôi bị tấn công, anh đang làm việc ở phòng thông tin của Sở, và công việc của anh trong nhiều tuần sau đó là tìm kiếm số phận của những người đang mất tích - ở bệnh viện, trong đống đổ nát, trong mạng phản ứng nhanh. Hauck cũng có bạn bè ở dưới đó. Anh nhìn danh sách tên những người anh đã đưa xuống: Pomery. Bashtar. Grace. O'Connor.
Lần đầu, trong số hàng trăm người chưa rõ số mạng ra sao, người ta mới chỉ tìm thấy hai người.
“Có thể là 634 Ty à!” - viên trung sỹ trực ban lại một lần nữa thông báo. Chạy thôi. Về hướng đường Post Road, sát bên phố West Street, gần đại lý đồ ăn nhanh và điểm bán và bảo dưỡng ô tô.
“Không được,” - Hauck đáp lời trung sỹ. - “Gọi Munoz đi. Tôi đang bận việc khác.”
“Munoz đang ở hiện trường rồi, thưa trung úy. Đây là một vụ giết người. Có vẻ như đang có một xác người ở đó.”
Chỉ mất vài phút Hauck đã đưa chiếc Grand Corona ra khỏi bãi xe bên ngoài, chạy thẳng đến Mason, chiếc mũ bay phần phật trên đầu, chạy thẳng về đầu đại lộ gần công viên Greenwich Office, xuống đường Post Road đến phố West Street, đối diện điểm bán và bảo dưỡng ô tô Acura.
Chính vì anh là người đứng đầu đội điều tra tội phạm bạo lực nên cuộc gọi này là dành cho anh. Thường thì đội của anh hay phá những vụ lẻ tẻ ở trường trung học, đôi khi là vài vụ đột nhập nhà riêng và ẩu đả giữa các cặp vợ chồng. Những vụ ẩu đả dẫn đến án mạng ít khi xảy ra ở Greenwich.
Lừa đảo chứng khoán là loại tội phạm thường thấy ở đây hơn. Cuối đại lộ là bốn viên cảnh sát địa phương đang chặn con đường lớn, đèn cảnh sát lấp lóe. Các phương tiện giao thông được hướng vào một làn đường. Hauck chạy chậm lại, gật đầu chào một vài viên cảnh sát tuần tra anh quen. Freddy Munoz, một trong những thanh tra thuộc quyền Hauck bước tới khi anh ra khỏi xe.
"Cậu đang đùa đấy chứ, Freddy.” - Hauck lắc đầu vẻ không tin. - "Ngày hôm nay của tất cả mọi ngày...”
Viên thanh tra phác một cử chỉ dứt khoát về phía một đụn nhỏ đã được trùm vải che đi giữa đường West Street, nơi giao cắt với đường Post Road và cắt tới đại lộ Railroad và 1-95.
"Trông có giống chúng tôi đang đùa không, trung úy?”
Mấy chiếc xe tuần tra đã được sắp thành vòng tròn bảo vệ quanh cái xác. Một chiếc xe cứu thương đã tới, nhưng các nhân viên y tế đang đứng quanh xe chờ đợi đội y tế địa phương ở Farmington. Hauck quỳ gối kéo tấm nilon.
Chúa ơi! Anh kêu lên khó nhọc.
Nạn nhân mới chỉ ở độ tuổi khoảng hai mươi hai đến hai mươi ba tuổi, da hơi trắng, mặc bộ đồng phục lao động màu nâu, tóc tết thành từng túm nhỏ màu đỏ sát da đầu giống người thổ dân Jamaica. Cái xác bị biến dạng, hai bên hông vặn đi, hơi vắt lên vỉa hè trong khi lưng nằm thẳng dưới lòng đường, mặt ngửa lên trời. Hai mẳt nạn nhân mở to, trong hai con ngươi còn hằn lên nỗi hoảng sợ. Một dòng máu chảy từ khóe miệng nạn nhân lên phía vỉa hè.
"Đã biết tên nạn nhân chưa?”
"Họ Raymond. Tên Abel. Đệm John. Thường viết AJ, thông tin do ông chủ của nạn nhân ở cửa hàng sửa chữa ô-tô đàng kia cung cấp. Đó cũng chính là nơi làm việc của nạn nhân."
Một viên sỹ quan trẻ đứng bên cạnh với cuốn sổ ghi chép. Biển tên STASIO. Hauck đoán chắc đây là lần đầu tiên cậu ta có mặt tại hiện trường.
“Cậu ấy vừa mới thay ca," - Munoz nói - “nói là đi ra ngoài mua thuốc lá và gọi điện.” - Munoz chỉ sang phía bên kia đường.
- "Có vẻ như cậu ta va vào toa xe đằng kia.”
Hauck liếc mắt nhìn về phía mà anh biết ở đó là toa xe bán đồ ăn tối Fairfield, nơi thỉnh thoảng cánh cảnh sát vẫn thường đến. Anh cũng đã tới ăn tối ở đó một vài lần.
“Các anh đã tìm được những gì về toa xe đó rồi?”
Munoz gọi viên sỹ quan Stasio, trông có vẻ như mới hết khóa huấn luyện cách đây một tháng, đang giở đọc chiếc sổ gáy xoắn, trên mặt hiện lên chút lo lắng. “Có vẻ như chiếc xe gây tai nạn là một chiếc xe thể thao, thưa Trung úy. Chiếc xe này chạy tới từ phía đường Post Road và rẽ đột ngột vào đường West Street này... và đâm vào nạn nhân khi cậu ta đang sang đường. Chúng tôi đã tìm được hai người chứng kiến toàn bộ sự việc.”
Stasio chỉ về phía hai người đàn ông, một có thân hình to bè mặc áo khoác thể thao, để ria mép, ngồi trên ghế trước của chiếc xe tuần tra, đang đưa tay vuốt tóc. Người còn lại mặc chiếc áo bông xốp màu xanh đang nói chuyện với một viên sỹ quan, chiếc đầu ủ rũ lắc lắc. “Chúng tôi tìm được một người ở bãi đỗ xe Arby đằng kia. Hóa ra ông ta cũng đã từng là cảnh sát. Người thứ hai ở ngân hàng phía bên kia đường.”
Viên sỹ quan trẻ tổng hợp thông tin khá tốt.
“Tốt lắm, Stasio.”
“Cảm ơn trung úy.”
Hauck chầm chậm đứng dậy, hai đầu gối kêu lục khục, hậu quả của những ngày tập bóng đá. Anh quay lại nhìn vệt bánh xe xám xịt trên đường West Street - hai vệt cao su rộng khoảng hai mươi foot cán qua điện thoại di động và cặp kính của nạn nhân. Vệt phanh xe chỉ xuất hiện sau điểm va chạm với nạn nhân. Hauck hít một hơi nặng nhọc, bụng cuồn lên.
Thằng chó chết đó thậm chí đã chẳng thèm phanh lại.
Anh nhìn qua Stasio. “Có ổn không con trai?” Lần đầu tiên nỗi hoảng sợ hiện lên rõ ràng trên khuôn mặt viên sỹ quan trẻ. Stasio gật đầu. - “ Ổn thưa sếp.”
“Không dễ chút nào, phải không.” - Hauck vỗ vai viên sỹ quan. - “Điều này đúng với tất cả chúng ta.”
“Cảm ơn trung úy.”
Hauck kéo Munoz sang một bên, đưa mắt lướt dọc đường Post Road chạy về phía nam, hướng chiếc xe gây án chạy, rồi nhìn theo hướng của hai vệt bánh xe trên vỉa hè.
“Freddy, thấy không?”
Viên thanh tra gật đầu dứt khoát: - “Thằng khốn không thèm phanh lại."
"Đúng vậy.” - Hauck lôi đôi găng tay cao su từ túi áo khoác lồng vào tay.
“Được.” - Anh quỳ xuống bên cạnh cái xác. - “Để xem cái này cho ta biết những gì...”
Hauck nâng phần cơ thể phía trên của Abel Raymond, đủ để kéo chiếc ví của nạn nhân ra khỏi túi quần. Trong đó là một bằng lái xe mang tên Abel John Raymond, do bang Florida cấp, một thẻ sinh viên ép plastic của trường Cao đẳng Seminole, cấp cách đây hai năm. Vẫn là nụ cười với đôi mắt sáng bừng trên tấm bằng lái xe, tóc có ngắn hơn một chút. Có lẽ nạn nhân đã bỏ học giữa chừng.
Trong ví còn có một thẻ MasterCard mang tên nạn nhân, một chiếc của Sears, vài chiếc khác của các hãng Costco, ExxonMobil, một thẻ an sinh xã hội, bốn mươi hai đô-la tiền mặt, một chiếc cuống vé xem bóng đá trận Orange Bowl 1996, Notre Dame, bang Florida. Hauck vẫn nhớ trận đấu ngày hôm ấy. Ngăn ngoài chiếc ví gài tấm hình một phụ nữ tóc đen hấp dẫn quãng ngoài hai mươi tuổi bế một bé trai trên tay. Hauck đưa chiếc ví cho Munoz.
"Trông không giống em gái.” - Viên thanh tra nhún vai. Nạn nhân không đeo nhẫn cưới. - “Có thể là bạn gái.”
Họ sẽ phải tìm hiểu xem nhân vật này là ai.
“Sẽ có người chẳng mấy hạnh phúc đêm nay.” - Freddy Munoz thở dài.
Hauck nhét tấm ảnh lại vào chiếc ví và thở hắt ra. - “ Tôi e là sẽ có cả một danh sách dài dằng dặc, Freddy à.”
"Thật điên rồ phải không, thưa trung úy?” - Munoz lẳc lắc đầu. Anh không còn nói về vụ tai nạn nữa. - “Trung úy biết không, anh vợ tôi đi chuyến tàu 7:57 sáng nay. Ra khỏi ga tàu ngay trước khi chuyện này xảy ra. Cô vợ anh ta như hóa điên. Cô ấy không làm sao liên lạc được với anh ta cho tới tận khi anh ta đến văn phòng. Anh biết không, anh ta ngủ rốn thêm một chút, rồi lại bị tắc đường ở một cột đèn giao thông, lỡ chuyến tàu... Anh ta thật là may mắn, phải không?”
Hauck nghĩ đến danh sách những cái tên sẽ chờ anh trên bàn làm việc, những giọng nói đầy hoảng sợ, đầy hy vọng của những người đã gọi đến để biết thông tin về họ. Anh liếc nhìn về phía những người làm chứng của Stasio.
“Nào Freddy, chúng ta đi tìm chiếc xe đó thôi.”
Chương 8
Hauck hỏi người mặc áo jacket, Freddy chọn nhân chứng mặc áo bông xù North Face.
Nhân chứng Hauck lấy lời khai hóa ra lại là một viên cảnh sát đã nghỉ hưu của bang South Jersey, tên Phil Dietz. Ông ta cho biết mục đích đến đây là để tiếp thị cho các hệ thống an ninh hiện đại - “Anh biết đấy, đó là các kiểu ‘nhà thông minh,’ nhận dạng dấu vân tay, nhận dạng danh tính, các hệ thống kiểu như vậy.” - Đó là những hệ thống ông ta đã vận hành, sử dụng từ khi ông nghỉ hưu cách đây ba năm. Khi Dietz mới chỉ tấp vào bên đường Arby để mua một chiếc bánh kẹp thì phải chứng kiến toàn bộ sự việc xảy ra.
“Hắn phóng xe tương đối nhanh,” - Dietz người mập và thấp với mái tóc hoa râm hơi mỏng phía trên đỉnh đầu, có bộ ria rậm. Dietz nói, hai tay cánh tay mập mạp khua mạnh: - "Tôi nghe tiếng máy rú lên. Hắn tăng tốc khi chạy dọc con đường này rồi ngoặt rẽ ở chỗ đó.” - Dietz đưa tay chỉ về phía giao cắt giữa đường West Street và Post Road. - ‘‘Thằng khốn đó thậm chí còn không thèm nhấn phanh khi đâm phải thằng bé. Khi tôi nhận ra thì đã quá muộn rồi.”
"Ông có nhớ được chiếc xe đó hiệu gì không?” - Hauck hỏi.
Dietz gật đầu. - “Đó là một chiếc xe thể thao đời mới màu trắng. Tôi nghĩ là Honda hay Acura gì đó. Tôi có thể nhận đuợc
qua ảnh. Biển số xe cũng nền trắng, chữ xanh lục hoặc xanh dương." - Dietz lắc lắc đầu. - “Xa quá. Mắt tôi lại không được tốt như lúc tôi còn làm việc.” - Ông ta đưa tay lắc lắc cặp kính đọc sách gài trên túi áo ngực nói. - “Bây giờ tôi phải dùng đến cái này nếu muốn đọc địa chỉ hộp thư.”
Hauck mỉm cười viết mẩu chú thích trong sổ ghi chép. - "Không phải biển số ở vùng này chứ?”
Dietz lắc đầu. '"Không. Có lẽ là ở New Hampshire hoặc Massachussetts. Xin lỗi tôi không đọc rõ được chữ nào. Thằng khốn đó ngừng lại một giây - sau đó. Tôi kêu lên: “Này, anh kia!" và bắt đầu chạy về phía vụ tai nạn thì hắn rồ máy vọt đi. Tôi cố gắng chụp một tấm hình bằng điện thoại di động nhưng không kịp, mọi việc xảy ra nhanh quá. Lúc đó thì hắn đã biến mất rồi.”
Dietz chỉ lên phía trên đồi, chỗ đỉnh cao nhất của đại lộ Railroad. Đường West Street chạy thành một khúc quanh khi đi qua một khoảng đất trống và một tòa nhà văn phòng. Khi tới đó, chạy tới đường cao tốc 1-95 chỉ mất khoảng một đến hai phút. Hauck biết rằng chỉ có điều cực kỳ may mắn xảy ra với anh nếu như có ai đó nhìn thấy hắn chạy qua đó.
Hauck bước gần tới phía Dietz: - " Ông nói ông nghe tiếng động cơ tăng tốc?"
"Đúng thế. Lúc đó tôi đang bước ra khỏi xe và nghĩ rằng mình sẽ phải đợi một chút trước khi đến với cuộc hẹn sắp tới.” - Dietz vòng hai bàn tay với những ngón tay đan vào nhau ra phía sau đầu. - "Cố gắng lên... Đừng bỏ cuộc.”
"Tôi sẽ cố không bỏ cuộc.” - Hauck cười, chỉ về phía nam. - "Chiếc xe chạy từ phía đó phải không? Ông đã phát hiện và theo dõi trước khi nó đến đoạn rẽ?”
“Đúng vậy. Tôi phát hiện ra khi nó bắt đầu tăng tốc.” - Dietz gật đầu.
"Lái xe là đàn ông phải không?”
"Chính xác.”
“Ông có thể mô tả qua được không?”
Dietz lắc đầu: “Sau khi chiếc xe dừng lại, thằng khốn đó nhìn lại phía sau qua gương chiếu hậu một thoáng rất nhanh. Có lẽ lúc đó hắn đang nghĩ cách khác cho việc hắn đã làm. Không thể phát hiện ra mặt hắn. Cửa sổ ô tô làm bằng kính tối màu. Tin tôi đi, tôi cũng mong mình có thể nhìn thấy hắn.”
Hauck quay lại nhìn lên đồi, tâm trí trôi theo dòng tưởng tượng về đường đi của nạn nhân xấu số. Nếu làm việc ở xưởng sơn sửa ô-tô J&D thì cậu ta sẽ phải băng qua đường West Street, sau đó lại qua bên kia đường ở đường Post Road ngay tại chỗ đèn giao thông rồi mới đến được chỗ toa xe bán đồ ăn.
" Ông nói ông đã từng phục vụ trong ngành cảnh sát?”
“Cảnh sát Tiểu hạt Freehold ” - Ánh mắt Dietz bừng sáng. - "Bang South Jersey. Gần Atlantic City. Tôi đã phục vụ trong ngành hai mươi ba năm.”
“Rất tốt. Vậy thì ông có thể hiểu những gì tôi sắp hỏi ông. Ông có nhận thấy chiếc xe đã chạy với tốc độ cao liên tục trước khi rẽ không? Hay chiếc xe chỉ bắt đầu tăng tốc khi thấy nạn nhân bước xuống đường?”
“Anh đang xác định xem đây là một vụ tai nạn hay là giết người có chủ định?” — Viên cảnh sát nghỉ hưu gật gật đầu.
“Tôi chỉ tìm cách dựng lại toàn bộ khung cảnh của sự việc.” - Hauck đáp lời.
“Tôi nghe tiếng động cơ từ phía đằng kia.” - Dietz chỉ về phía tòa nhà hướng đại lộ Arby. - "Hắn phi xuống dốc, sau đó quặt vào chỗ rẽ, không làm chủ được tốc độ. Tôi nghĩ có vẻ như hắn đã uống rất nhiều. Tôi cũng không rõ. Tôi chỉ kịp nhìn lên khi nghe tiếng va chạm. Chiếc xe kéo lê nạn nhân như kéo một chiếc bao tải bột mì. Anh vẫn còn thấy hai vết xe đấy. Sau đó hắn dừng xe. Tôi nghĩ nạn nhân nằm dưới gầm xe vào thời điểm đó, trước khi hắn rú ga phóng đi."
Dietz nói ông ta sẽ rất vui nếu được nhìn qua vài mẫu xe thể thao màu trắng để cố hạn chế lại nhãn hiệu và đời xe. - ‘'Nếu bắt được thằng khốn đó, trung úy à, hãy cho tôi biết tôi có thể giúp gì. Tôi sẽ là người đóng đinh lên chiếc quan tài cho hắn."
Hauck cám ơn Dietz. Không có gì nhiều để tiếp tục lấy lời khai như anh đã muốn trước đó. Munoz bước tới. Nhân chứng mà cậu ta lấy lời khai đã chứng kiến tai nạn từ phía bên kia đường. Một hướng dẫn viên lái máy cày ở Wilton, cách đó hai mươi dặm, đúng tuýp nông dân điển hình - anh ta cũng xác định cùng một kiểu xe màu trắng, biển số của bang khác. - “Có vẻ như biển số là AD hay cái gì đó như vậy, có thể là số 8 nữa...” - Anh ta vừa mới bước ra vỉa hè sau khi rút tiền ở máy ATM ngân hàng. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh nên anh ta cũng không kịp nhìn thấy gì. Lời khai cũng chỉ là một bức tranh mờ nhạt về những gì đã xảy ra.
Munoz nhún vai thất vọng. - "Chẳng có gì nhiều để tiếp tục điều tra cả, phải vậy không, trung úy?”
Hauck mím môi thất vọng: - "Phải."
Anh đi về phía xe mình, gọi một cuộc điện thoại khẩn cấp tìm kiếm một chiếc xe thể thao đời mới màu trắng, lái xe là người da trắng, - "có thể là một chiếc Honda hoặc Acura, biển kiểm soát có thể là của bang Massachussetts hoặc New Hampshire, có khả năng bắt đầu bằng các ký tự AD8, có thể có vết va chạm ở phần đầu xe.” - Mẩu tin này sẽ được gửi đến cho các trạm cảnh sát và các cửa hàng sửa chữa ô tô trên toàn bộ vùng đông bắc. Họ sẽ tìm kiếm thông tin từ mọi người dọc theo đường West Street xem liệu có ai phát hiện ra thủ phạm chạy qua hay không. Có thể có một số camera kiểm soát tốc độ dọc theo đường cao tốc nữa. Đây chính là hy vọng lớn nhất của họ.
Tất nhiên là trừ trường hợp có người đến nhận trách nhiệm về vụ Abel Raymond.
Một người đàn ông đội mũ lưỡi trai miền Bắc đứng gần đó, tay khoanh lại trước ngực vì lạnh. Stasio đưa anh ta tới. Đó là Dave Corso, chủ cửa hàng sơn sửa ô tô nơi AJ Raymond làm việc.
“Cậu ấy rất ngoan.” - Corso lắc lắc đầu, tỏ vẻ đau buồn. - "Cậu ấy làm việc cho tôi được khoảng một năm nay. Abel rất có khiếu. Cậu ấy đã tự mình dựng lại các mẫu xe cổ. Cậu ấy tới từ Florida.”
Hauck nhớ tới chiếc bằng lái xe của Abel và hỏi. - “Ông có biết chính xác là ở đâu không?”
Người chủ cửa hàng nhún vai, - “Tôi không biết, có thể là Tallahassee, Pensacola hay đâu đó... Cậu ấy bao giờ cũng mặc những chiếc áo phông đỏ, kiểu của người Seminole (1) ở bang Florida. Tôi nghĩ cậu ấy đã đãi tất cả mọi người một chầu bia khi bang này giành chiến thắng trong giải bóng đá giữa các trường đại học năm ngoái. Tôi cho rằng bố cậu ấy là một thủy thủ hoặc làm nghề gì đó ở dưới tàu.
“Ý ông là hải quân?”
"Không. Tàu kéo hay gì đó. Cậu ấy luôn treo hình ông ấy trên bảng. Tấm hình vẫn còn ở đó.”
Hauck gật đầu. - “Raymond ở chỗ nào?”
“ Ở trên Bridgeport, tôi chắc chắn đấy. Tôi biết vì chúng tôi có lưu hồ sơ, nhưng anh biết rồi đấy - mọi thứ đều có thể thay đổi. Nhưng tôi biết cậu ấy gửi tiền ở ngân hàng First City...” - Người chủ cửa hàng khai thêm rằng AJ nhận một cuộc điện thoại, khoảng hai mươi phút trước khi cậu ấy đi. Lúc đó Abel đang sơn dở. Sau đó cậu ấy tới nói với ông ta rằng cậu muốn nghỉ giải lao sớm một chút. - “Hình như có ai đó tên là Marty gọi cho cậu ấy. Abel nói cậu ấy sẽ qua bên kia đường mua vài điếu thuốc. Tôi nghĩ là cậu ấy đến chỗ quầy bán đồ ăn. Ở đó có một chiếc máy bán hàng.” - Corso liếc nhìn về phía có ụ đất nhỏ bị che khuất bên đường. - "Thế rồi... Không thể hiểu nổi.”
Hauck rút chiếc ví của nạn nhân ra khỏi túi ni-lon, đưa cho Corso xem tấm hình cô gái và đứa con trai. - “Ông có biết người này không? "
Người chủ cửa hàng ô tô nhún vai tiếp. - “Tôi nghĩ là cậu ấy có một người bạn gái nào đó ở chỗ ở... hoặc có thể là ở Stamford. Cô ấy đã đến đón cậu ấy một, hai lần gì đó. Để tôi xem nào... Đúng, chắc chắn là cô ấy. Abel đam mê làm việc với các loại xe cổ và tân trang lại chúng, ông biết rồi đấy. Các loại xe như Corvettes, LeSabres, Mustangs. Có lẽ cậu ấy mới đến một cuộc triển lãm xe cổ vào tuần trước, Chúa ơi...."
“ Ông Corso.” - Hauck kéo người đàn ông sang một bên. - “Ông có nghĩ là có ai đó muốn làm hại Raymond không? Cậu ấy có nợ nần ai không? Có đánh bạc, sử dụng ma túy không? Hay ông có thông tin gì có thể có ích cho chúng tôi không.”
“Ông cho rằng đây không phải là một vụ tai nạn giao thông?" - Ông chủ của nạn nhân trợn mắt kinh ngạc.
“Chỉ là thủ tục công việc thôi mà.” - Munoz nói.
" Ờ, tôi không biết. Với tôi thì cậu ấy chỉ là một thằng bé lớn xác. Cậu ấy đến và làm việc ở đây. Mọi người đều quý cậu ấy nhưng nếu ông đã nói vậy thì cô bạn gái của cậu ấy... tôi nghĩ là đã có chồng hoặc vừa mới ly dị. Tôi nhớ là đã có lúc Abel nói rằng cậu ấy gặp rắc rối với chồng cũ của cô ta. Có thể Jackie sẽ biết nội tình. Jackie gần gũi với cậu ấy hơn mọi người.”
Hauck gật đầu. Anh ra hiệu cho Munoz tiến hành việc đó.
"Ông Corso ạ, trong khi chúng tôi đang ở đây, chúng tôi có thể kiểm tra xem cuộc gọi Abel tới từ đâu được không?” - Có điều gì đó gợn lên trong Hauck, có điều gì đó không ổn lắm.
Anh bước ra ngoài, đi về phía mé đường, nhìn vào hiện trường xảy ra tai nạn. Rất rõ ràng. Ngay điểm rẽ từ đường West Street, không có vật gì che khuất tầm nhìn. Chiếc xe gây tai nạn đã không hề giảm tốc độ, chẳng hề có động thái nào dừng xe lại hay tránh nạn nhân. Nếu kẻ gây tai nạn đã ở trong tình trạng say xỉn thì chắc sẽ không tránh khỏi bị lao ra khỏi xe, vì đã mất khả năng kiểm soát, vào một buổi trưa ngày thứ hai như thế này khi đâm thẳng đầu xe vào nạn nhân.
Đội pháp y từ phía bắc của bang cuối cùng cũng đã tới. Hauck quay xuống dưới đồi, lấy chiếc điện thoại di động của nạn nhân, kiểm tra các số đã gọi gần đây nhất. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu số điện thoại gọi đến số máy của nạn nhân có thể truy được tới hung thủ.
Những chuyện thế này vẫn thường cho kết quả tốt theo cách đó.
Hauck quỳ xuống bên xác Abel Raymond một lần cuối, nhìn kỹ khuôn mặt cậu thanh niên. Ta sẽ tìm bằng được hung thủ, con trai à, Hauck tự hứa. Và bỗng tâm trí anh đột nhiên nhớ đến vụ đánh bom tàu điện ngầm. Sẽ có rất nhiều người trong thành phố không về nhà đêm nay. Ở đây thì chỉ có một. Nhưng một người này chính là người anh có thể làm được điều gì đó. Cậu thanh niên này - Hauck nhìn chằm chằm vào lọn tóc đỏ, một nỗi đau dâng lên trong anh, đau đớn tột cùng - đã từng có một khuôn mặt của riêng mình.
Trước khi đứng dậy, Hauck kiểm tra túi quần, áo nạn nhân lần cuối. Trong túi quần Abel, Hauck thấy một hóa đơn thanh toán xăng và một ít tiền lẻ. Sau đó anh tìm túi áo ngực, ngay phía dưới hai chữ cái AJ được thêu nổi. Hauck đưa một ngón tay tìm kiếm quanh túi áo và phát hiện một mẩu giấy màu vàng, loại nhắc việc, trên đó có viết một cái tên và số điện thoại, số của tổng đài điện thoại địa phương.
Rất có thể đó là người AJ Raymond đang trên đường đi gặp. Cũng có thể mẩu giấy đã nằm trong túi áo nạn nhân nhiều tuần rồi. Hauck nhét mẩu giấy vào túi cùng những vật chứng khác anh thu thập được. Một đầu mối nữa để kiểm tra.
Charles Friedman.
Chương 9
Tôi không bao giờ còn gặp chồng mình nữa. Tôi chưa bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra.
Ngọn lửa đã bùng lên và cháy dữ dội tại nhà ga trung tâm Grand Central hầu như cả ngày hôm đó. Đã có một phản ứng hóa học rất mạnh xảy ra. Bốn tiếng nổ cả thảy. Hai tiếng nổ phát ra từ toa xe đầu tiên của chuyến tàu chạy lúc 7 giờ 51 từ Greenwich, ngay khi chúng vừa đến điểm đỗ. Hai tiếng nổ còn lại là từ các thùng rác đặt dọc theo sân ga. Đã có hàng trăm kí thuốc nổ hexagen được nhồi trong đó, đủ để phá sập cả một tòa nhà cỡ lớn vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ như người ta nói. Như ở Irắc. Không thể tưởng tượng nổi. Charlie căm thù cuộc chiến ở Irắc. Người ta đã tìm thấy những cái tên, những tấm hình của nhà ga, dấu vết của hóa chất nơi những quả bom được tạo ra. Đám lửa đã cháy trong nhà ga gần hai ngày, nhiệt độ trong đó đã lên gần tới hai nghìn ba trăm độ.
Chúng tôi đã chờ đợi. Chúng tôi chờ đợi cả ngày hôm đó mong nghe được thông tin nào đó. Bất cứ thông tin nào. Giọng nói của Charlie. Hay tin nhắn của một bệnh viện rằng anh đang ở đó. Gần như chúng tôi đã gọi điện thoại cho cả thế giới này để tìm kiếm: Sở Cảnh sát New York, đường dây nóng mới được thành lập sau vụ đánh bom. Đại biểu nghị viện của chúng tôi ở địa phương có quen biết với Charlie.
Chúng tôi đã chẳng còn nhận được một thông tin gì nữa.
Một trăm mười một người đã chết, trong đó có ba thủ phạm đánh bom mà người ta cho rằng đã ngồi ở hai toa xe đầu tiên. Ở chính toa xe Charlie vẫn thường ngồi. Rất nhiều nạn nhân trong số đó không xác định được danh tính. Không còn một chút thi hài nào sót lại có thể nhận dạng được. Những con người đó như thể đã đi làm vào một buổi sáng và rồi biến mất hoàn toàn trên thế gian này. Đó là Charlie. Người chồng mười tám năm của tôi. Anh đã chào tạm biệt tôi qua tiếng máy sấy tóc rồi đi lấy xe bảo dưỡng.
Và rồi không còn trở về nữa.
Thứ duy nhất người ta tìm được là chiếc quai cặp da lũ trẻ tặng anh năm ngoái - miếng da đính bên trên vẫn còn dính lại, hằn lên ở chỗ cháy, đó là chữ lồng chạm nổi, CMF, ba chữ cái này lần đầu tiên đã kết thúc sự chờ đợi của chúng tôi và khiến chúng tôi bật khóc.
Đó chính là ba chữ viết tắt của Charles Michael Friedman.
Trong những ngày đầu tiên tôi cứ ngỡ anh sắp lết ra khỏi được đống hỗn độn đó. Charlie có thể thoát khỏi mọi tình huống.
Anh có thể ngã lộn nhào từ mái nhà trong khi sửa ăng-ten, nhưng lại nhẹ nhàng tiếp đất bằng hai chân. Người ta có thể tin tưởng rất nhiều vào một người như Charlie.
Nhưng anh đã không về. Chẳng có cú điện thoại nào, không có một mảnh quần áo nào của anh còn sót lại, thậm chí chẳng còn một chút tro tàn.
Và tôi sẽ không bao giờ biết được. Tôi sẽ không bao giờ biết được rằng anh đã không còn trên cõi đời này nữa ngay từ khi bom phát nổ hay trong đám cháy. Không biết rằng anh còn tỉnh táo vào lúc đó hay có cảm thấy đau đớn hay không. Liệu anh có kịp nghĩ, ý nghĩ cuối cùng, về chúng tôi không. Không biết liệu anh có gọi tên chúng tôi vào lúc đó hay không.
Một phần trong tôi muốn có một cơ hội cuối cùng là được ôm lấy vai anh mà hét lên: “Làm sao anh có thể cho phép mình ra đi ở nơi đó chứ, Charlie? Tại sao?”
Giờ thì tôi cho rằng mình phải chấp nhận sự thật là anh đã ra đi. Rằng anh sẽ không bao giờ trở lại. Dẫu rằng chấp nhận sự thật khốn kiếp đó thật khó khăn... Rằng anh sẽ chẳng bao giờ đưa Samantha tới trường ngày đầu tiên nó vào đại học; hay được xem Alex ghi bàn thắng; hay có thể thấy được lũ trẻ lớn lên thành những con người ra sao. Tất cả những điều đã khiến anh thực sự tự hào.
Và chúng tôi sẽ cùng về già. Sẽ tới cái vịnh ở vùng biển Caribê đó. Giờ thì anh đã chẳng còn nữa. Anh ra đi chỉ trong một tích tắc.
Mười tám năm chung sống trong cuộc đời.
Mười tám năm...
Tôi đã thậm chí chẳng còn kịp hôn từ biệt anh.
Chương10
Vài ngày sau - thứ sáu, thứ bảy, Karen đã không còn nhớ gì nữa - một viên thanh tra cảnh sát lại tới.
Ông không phải là cảnh sát thành phố hay là người của Sở cảnh sát New York và FBI đã vài lần tìm cách lần ra những hoạt động của Charlie trong ngày hôm đó. Đây là viên cảnh sát địa phương. Anh ta gọi trước khi tới và hỏi xem liệu có thể nói chuyện với Karen đôi chút về một vấn đề không liên quan tới vụ đánh bom. Karen đồng ý. Bất cứ điều gì có thể giúp cô không nghĩ tới những chuyện đó nữa giờ đều là điều mong đợi của cô.
Cô đang trong nhà bếp, cắm mấy bông hoa, đuợc gửi tới từ một trong những cửa hàng Charlie đã trang trải hết nợ nần, thì viên cảnh sát tới.
Karen biết trông cô giờ hơi nhếch nhác. Giờ cô không chăm chút cho vẻ bề ngoài mấy nữa. Bố cô, ông Sid, người luôn lo lắng bảo vệ cho cô, vừa mới tới từ Alanta, đưa viên cảnh sát vào.
“Tôi là trung úy Hauck.” - Viên cảnh sát nói. Với vai trò một viên cảnh sát, anh ăn mặc rất hợp mắt với chiếc áo khoác thể thao vải tuýt, chiếc quần ống rộng, và một chiếc cà vạt trang nhã. - “Tôi đã gặp cô trong buổi gặp mặt ở thành phố vào buổi tối hôm thứ hai. Tôi chỉ xin cô vài phút thôi. Tôi rất lấy làm tiếc với những mất mát của gia đình cô.”
"Cảm ơn anh.” - Karen gật đầu, đưa tay hất mớ tóc ra sau khi cả hai cùng ngồi xuống trong phòng khách có nhiều cửa sổ, cố gắng thay đổi tâm trạng bằng một nụ cười biết ơn.
“Con gái tôi không được khỏe lắm.” - Bố cô cắt ngang. - “Vì vậy, bất cứ đó là việc gì thì cũng xin anh...”
“Bố, con ổn mà.” - Karen mỉm cười. Cô đưa mắt nhìn bố trìu mến, sau đó quay ra và bắt gặp ánh mắt viên trung úy. - "Không sao đâu. Để con nói chuyện với anh ấy.”
"Thôi được, thôi được...” - Bố Karen nói. - “Bố sẽ đợi ở ngoài kia. Nếu cần thì..." - Ông đi vào phòng xem ti-vi và đóng cửa lại.
"Bố tôi chẳng biết phải làm sao.” - Karen thở dài. - "Không ai biết phải làm gì. Giờ đây mọi việc đều thật sự khó khăn với tất cả mọi người.”
"Rất cám ơn cô đã đồng ý gặp tôi.” - Hauck nói. - “Sẽ không lâu đâu." - Hauck ngồi xuống, đối diện Karen và lấy từ trong túi ra một vật. - "Tôi không biết liệu cô có biết rằng vào ngày thứ hai hôm đó, cũng xảy ra một sự việc khác hay không. Đó là một vụ tai nạn giao thông mà thủ phạm đã bỏ trốn, xảy ra ở đường Post Road. Một thanh niên đã thiệt mạng.”
"Không, tôi không rõ.” - Karen ngạc nhiên nói.
"Tên nạn nhân là Raymond. Abel John Raymond." - Viên trung uý đưa Karen tấm hình một thanh niên thân hình cân đối đang mỉm cười với mái tóc tết thành lọn màu đỏ, đứng bên chiếc ván lướt sóng trên bãi biển. - '"Cậu ấy còn được gọi là AJ, làm việc tại một cửa hàng tân trang ô tô trong thành phố. Trong khi băng qua đường West Street, cậu đã bị một chiếc xe thể thao chạy với tốc độ cao cán phải trong khi quẹo. Kẻ gây tai nạn đó thậm chí đã không thèm dừng lại. Hắn kéo nạn nhân đi khoảng năm mươi foot trước khi bỏ chạy luôn."
“Thật kinh khủng.” - Karen nói, chăm chú nhìn lại khuôn mặt trong ảnh, cảm giác như có mũi dao đầy đau đớn xuyên qua người. Dầu có điều gì đã xảy ra với cô thì ở đây vẫn chỉ là một thành phố nhỏ. Điều đó có thể xảy ra với bất cứ ai. Hay với bất cứ con trai của người nào. Cùng vào cái ngày cô mất Charlie.
Karen ngẩng lên nhìn viên trung úy. - “Nhưng chuyện này thì có liên quan gì đến tôi?”
'‘Cô đã gặp người trong ảnh bao giờ chưa?”
Karen lại ngắm nhìn tấm hình. Một khuôn mặt ưa nhìn, đầy sức sống. Những lọn tóc đỏ chắc sẽ là ấn tượng khó quên với những ai đã từng gặp. - “Không. Tôi không nghĩ là mình quen cậu ấy.”
“Cô cũng chưa bao giờ nghe thấy ai nhắc tới cái tên Abel Raymond hay có thể là AJ Raymond sao?”
Karen nhìn tấm hình một lần nữa, lắc đầu. - “Tôi không nghĩ là vậy, thưa trung úy. Nhưng vì sao chứ?”
Viên thanh tra cảnh sát tỏ vẻ thất vọng. Anh lại đưa tay vào túi, lần này là một mẩu giấy vàng, loại giấy nhắc việc đã nhàu nát đựng trong túi ni-lon. - “Chúng tôi tìm thấy cái này trong bộ quần áo lao động của nạn nhân tại hiện trường.”
Karen nhìn tờ giấy, người cô như căng ra, hai mắt trợn tròn kinh ngạc.
“Đây là tên chồng cô phải không? Charles Friedman. Và cả số di động của ông nhà nữa?”
Karen bối rối ngẩng lên nhìn, gật đầu. - “Đúng vậy.”
“Có chắc cô chưa bao giờ nghe thấy chồng mình nhắc đến tên của nạn nhân? Raymond? Cậu ấy chuyên sơn và vẽ hình trên ô-tô tại một cửa hàng tân trang ô tô trong thành phố.”
“Sơn ô tô?" - Karen lắc đầu, mắt ánh lên nụ cười. - "Trừ khi Charlie đã sẵn sàng cho một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên nào đó mà anh ấy không cho tôi biết.”
Hauck mỉm cười đáp lại, nhưng Karen có thể nhìn rõ sự thất vọng của viên trung úy.
‘‘Tôi cũng muốn giúp được điều gì đó, thưa trung úy. Có phải anh cho rằng đây là một vụ tai nạn có chủ ý?”
"Chỉ là xem xét sự việc kỹ lưỡng hơn thôi mà.” - Hauck lấy lại tấm hình và mẩu giấy có tên Charlie. Quả thật là một viên cảnh sát hấp dẫn, Karen nghĩ, hấp dẫn theo kiểu xù xì và thô nhám với đôi mắt xanh nghiêm nghị. Nhưng trong đó lấp lánh ánh nhìn đầy quan tâm, chu đáo. Chắc hẳn đã rất khó khăn Hauck mới có thể đưa ra quyết định tới đây ngày hôm nay. Rõ ràng anh muốn đem lại công bằng cho nạn nhân.
Karen nhún vai. - “Có đôi chút trùng hợp phải không trung úy? Tên của chồng tôi trên mảnh giấy đó ấy mà. Nó ở trong túi áo của nạn nhân. Và cũng trong cùng một ngày hôm đó... và anh phải đến đây thế này?”
“Một ngày tồi tệ.” - Hauck gật đầu, chật vật mỉm cười. - "Vâng. Tôi sẽ không làm phiền cô nữa.” - Cả hai cùng đứng dậy. - "Nếu cô nhớ ra điều gì thì hãy báo cho tôi. Đây là danh thiếp của tôi.”
"Tất nhiên rồi.” - Karen nhận danh thiếp, trên đó ghi dòng chữ:
Ty Hauck
ĐỘI TRƯỞNG THANH TRA TỘI PHẠM BẠO LỰC.
CẢNH SÁT GREEWICH.
”Tôi rất tiếc về việc của ông nhà.” - Viên cảnh sát nhắc lại. Đôi mắt Hauck hướng về phía tấm hình Karen để trên giá. Đó là hình chụp cô và Charlie trong trang phục trang trọng tại lễ cưới em họ Meredith của cô. Karen vẫn rất thích mỗi khi hai người cùng ngắm nhìn tấm hình đó.
Cô mỉm cười buồn bã. - “Mười tám năm chung sống. Vậy mà tôi cũng chẳng kịp hôn từ biệt anh ấy.”
Trong một thoáng, cả hai cùng đứng lại trước tấm hình. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Karen ước gì mình đã không nói câu đó; còn Hauck, anh đổi chân, dường như đang suy nghĩ điều gì đó và có đôi chút gắng gượng, không tự nhiên. Sau cùng anh lên tiếng, - "Ngày 11 tháng 9, khi đó tôi đang làm việc ở phòng Thông tin, Sở cảnh sát thành phố New York. Việc của tôi là tìm kiếm người mất tích. Cô biết đấy, những người được cho là ở trong tòa tháp đôi, và đã biến mất. Đó là công việc đầy khó khăn. Tôi đã gặp rất nhiều gia đình.." Hauck liếm môi - ''Trong cùng một hoàn cảnh như thế này. Tôi cho rằng tất cả những gì tôi muốn nói là tôi cũng hiểu được đôi chút những gì cô đang phải trải qua.....”
Có cái gì đó nhói lên ở đuôi mắt Karen. Cô ngẩng lên nhìn, cố nở một nụ cười nhưng chẳng biết nói thêm điều gì nữa.
"Hãy cho tôi biết nếu tôi có thể giúp cô được điều gì.” — Hauck bước ra cửa. “Một vài đồng nghiệp của tôi vẫn đang tiếp tục công việc điều tra ở dưới ga tàu điện ngầm đó.”
“Cám ơn trung úy.” - Cô đưa viên cảnh sát qua nhà bếp tới cửa sau để tránh đám đông phía cửa trước. - “Thật khủng khiếp, tôi mong anh may mắn trong việc truy tìm hung thủ. Tôi ước gì có thể giúp được anh nhiều hơn.”
“Cô cũng có điều bận tâm riêng của mình mà.” - Hauck nói và đưa tay mở cửa.
Karen nhìn viên cảnh sát. Hy vọng bỗng dâng lên trong giọng nói: “Vậy, khi anh làm công việc tìm kiếm đó, đã có ai trở lại chưa?”
"Hai người.” - Hauck nhún vai. - “Một ở bệnh viện thánh Vincent, bị chấn thương do mảnh vỡ của tòa nhà đổ vào người. Người còn lại thì không đến được nơi làm việc vào ngày hôm đó. Anh ta đã chứng kiến tất cả sự việc xảy ra và lại không thể về nhà trong vài ngày liền."
“Cũng chắng phải là điều ngớ ngẩn tuyệt vời nhất.” - Karen mỉm cười, nhìn viên cảnh sát như thể cô hiểu điều anh có thể nghĩ tới. — “Sẽ là thật tốt, anh biết đấy, nếu có điều gì đó..."
"Chúc cô cùng gia đình điều tốt đẹp nhất, thưa cô Friedman." - Hauck mở cửa. - “Rất tiếc về những mất mát của gia đình."
Bước ra ngoài, Hauck đứng một lúc lâu trên đường ra.
Anh đã hy vọng cái tên và số điện thoại lấy được từ túi áo AJ Raymond hứa hẹn nhiều hơn. Đó cũng gần như là tất cả những gì anh có. Việc kiểm tra danh mục các cuộc gọi tới nơi nạn nhân làm việc đã không mang lại kết quả gì. Cuộc gọi tới nạn nhân, mà theo mô tả của người chủ cửa hàng, là của ai đó tên Marty, được gọi tới từ một số điện thoại ẩn số, từ điện thoại di động, và giờ thì hoàn toàn không thể truy tìm được tung tích.
Cà người chồng cũ của bạn gái nạn nhân cũng vậy, gã này hóa ra đã từng phạm tội, có lẽ là tội đánh vợ, nhưng chứng cớ ngoại phạm của hắn đã được kiểm chứng. Vào thời điểm xảy ra tai nạn, hắn đang có mặt tại trường học của con, và dù sao thì hắn cũng đang chạy một chiếc Toyota Corolla màu xanh nước biển, chứ không phải xe thể thao. Hauck đã kiểm tra manh mối này nhiều lần. Giờ thì tất cả những gì anh có là hai lời khai trái ngược nhau của hai nhân chứng và thông báo về chiếc xe thể thao màu trẳng.
Thế cũng có nghĩa là gần như chẳng có gì.
Vụ này cứ như lửa đốt trong lòng Hauck. Ngọn lửa chẳng khác nào những lọn tóc đỏ của AJ Raymond vậy. Có kẻ nhởn nhơ sau khi gây án mạng, còn anh thì lại không thể chứng minh được điều đó.
Karen Friedman là một người phụ nữ hấp dẫn và dễ chịu. Anh ước gì mình có thể giúp đỡ cô chút nào đó. Quả thật khi nhìn nỗi đau và sự vô định trong mắt cô anh cũng thấy đau, nhất là khi anh biết rõ điều cô đang phải trải qua, điều gì cô sẽ phải đối mặt. Có điều gì đó đè nặng trái tim anh, anh biết nỗi đau đó không dữ dội như nỗi đau của những nạn nhân ngày 11 tháng 9 như anh đã nói, nhưng nỗi đau đó như sâu hơn, và lại không hề xa lạ.
Norah. Nếu còn, con bé mới lên tám, phải vậy không?
Ý nghĩ về con bé như một mũi dao găm vào tim anh, như nó vẫn thường vậy. Con bé trong chiếc áo ngắn tay và quần có dây đeo màu xanh lơ, đang chơi cùng chị gái trên vỉa hè. Đồ chơi là chiếc tàu kéo Annie.
Anh vẫn còn nhớ giọng con bé âm vang ngọt ngào. Merily, Merily, Merily, Merily...
Anh vẫn thấy ẩn hiện bím tóc đỏ của con bé.
Một chiếc xe xịch đỗ bên đường, kéo anh trở lại thực tại. Hauck ngẩng nhìn lên, thấy một đôi nam nữ ăn mặc ưa nhìn, ôm bó hoa bước vào cửa trước nhà Karen.
Một vật đập vào mắt Hauck.
Một cánh cửa ga-ra vẫn mở từ lúc anh đến. Người giúp việc đang kéo lê túi rác. Trong ga-ra là một chiếc Mustang màu đồng, Hauck đoán là đời '65' hay '66’ gì đó thuộc loại có thể tháo mui trần. Một miếng đề-can hình trái tim màu đỏ dán trên chắn sốc phía sau, và một vệt trắng chạy dọc bên thân xe.
Biển kiểm soát là CHRLYS BABY. Hauck bước tới, quỳ xuống, đưa tay lần dọc theo đường viền vàng mịn mượt, tinh tế.
Khốn kiếp...
Đó chính là tác phẩm của AJ Raymond! Trong thoáng chốc, điều đó suýt khiến Hauck bật cười to. Anh cũng chẳng chắc lắm rằng điều này khiến anh cảm thấy thế nào, là thất vọng hay thoải mái khi trút được gánh nặng, đầu mối truy tìm cuối cùng của anh thế là cũng không còn nữa.
Vẫn đi cắt ngang đường về nơi đỗ xe, anh nghĩ ít nhất thì anh cũng biết được vì sao nạn nhân lại có số điện thoại của Charles Friedman.
Chương 11
Pensacola, Florida
Con tàu chở dầu khổng lồ màu xám dần hiện ra trong đám sương mù và tắt máy ngay khi tiến vào cảng.
Khu công nghiệp nặng hiện lên: tất cả những bộ khung thép xám đen, nhũng bể lọc dầu với hệ thống bơm thủy lực khổng lồ đang chờ đợi khí đốt và dầu thô, tất cả nằm lặng lẽ trên đường vào cảng của con tàu.
Một chiếc tàu kéo chạy thẳng ra phía tàu chở dầu. Trên bánh lái, người hoa tiêu có tên là Pappy đã áp sát con tàu chở dầu. Với vị trí trợ lý quản lý cầu cảng, Đội quản lý cảng Pensacola, việc của ông là hoa tiêu cho các loại tàu cỡ lớn qua những nơi nước cạn đáy nhiều cát và đá vôi quanh khu vực Singleton rồi sau đó dẫn đường vào các làn thuộc cầu cảng phía trong mà lúc nào cũng bận rộn với giao thông thương mại mỗi khi ngày ngả về chiều. Ông đã làm công việc đưa dẫn tàu cỡ lớn từ khi mới hai mươi hai tuổi, một công việc mang nặng nét truyền thống được truyền lại từ đời bố ông, người cũng bắt đầu công việc từ lúc mới hai mươi hai tuổi. Gần ba mươi năm, Pappy đã làm công việc này rất nhiều lần đến mức có thể làm được việc ngay cả khi đang ngủ, trong cái yên bình của đêm tối trước khi ánh bình minh hé rạng - nếu đó cũng là một buổi sáng như tất cả những buổi sáng bình thường khác và cũng là những con tàu chở dầu như thế - thì đây cũng chính là lúc ông chuẩn bị bước vào làm việc.
Con tàu đã chờ đợi ở đó, cao lớn và hùng vĩ, Pappy ghi nhận khi nhìn vào vỏ tàu.
Con tàu quả thật là quá lớn. Vạch mớm nước hiện ra rõ nét. Ông chăm chú nhìn biểu tượng nơi mũi tàu. Trước đây ông cũng đã từng gặp loại tàu như thế này.
Thường thì kỹ năng thực sự nằm ở việc đo chuẩn đường viền ngoài của con tàu đang kéo và dẫn con tàu qua những dải cát phía rìa ngoài cảng. Sau đó đơn giản chỉ cần đi theo các làn dẫn, mà vào lúc mười giờ sáng sẽ nguy hiểm hơn so với đường vòng đi vào thành phố, rồi quay một góc rộng vào cầu cảng số 12, nơi con tàu Persephone, theo biên bản đã ghi là chở đầy dầu từ Venezuela, được xếp vào đổ dầu.
Nhưng điều đó không diễn ra sáng hôm nay.
Chiếc tàu kéo của Pappy tiếp cận chiếc tàu chở dầu từ mé bên của cảng. Khi tới gần, ông nhìn kỹ cái biểu tượng con cá heo đang nhảy trên vỏ tàu Persephone.
Công ty dầu lửa Dolphin (Cá heo).
Pappy đưa cánh tay dãi dầu sương gió gãi gãi ria mép đoạn lướt qua tập giấy nhập dầu của Cục quản lý Hàng hải: 2,3 triệu tấn dầu thô hiện đang đợi trên tàu, con tàu này chỉ mất chưa đến mười bốn tiếng để đi từ Trinidad tới đây. Nhanh, Pappy nhận xét, đặc biệt là với loại tàu lớp ULCC 1970 cũ kỹ và chở nặng hết công suất thế này.
Quả là rất nhanh.
Dầu lửa Dolphin.
Lần đầu tiên ông cảm thấy ngạc nhiên là khi chuyến tầu tới từ Jakarta. Ông cứ băn khoăn mãi làm sao một con tàu chở đầy thứ chất lỏng thế này lại có thể đi với vận tốc nhanh đến vậy. Lần thứ hai cũng chỉ mới cách đây vài tuần thôi, thực ra ông đã lẻn chui xuống dưới hầm tầu sau khi vào cảng, lẻn qua đám thủy thủ không để ý, và kiểm tra mấy bể dầu phía trước.
Trống trơn, thật chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Ít nhất là đối với ông.
Sạch như chùi vậy.
Ông đã đem chuyện này nói lại với quản lý cảng, không chỉ một mà đến hai lần. Nhưng ông ta chỉ vỗ vỗ vào lưng Pappy như thể ông là một lão già ngu xuẩn và hỏi ông về kế hoạch sắp tới khi ông nghỉ hưu. Lần này, mặc dầu vậy, sẽ không có nhân viên bàn giấy nào dấu nó xuống dưới đống giấy tờ được nữa. Pappy biết nhiều người. Những người làm việc ở chỗ ấy. Những người quan tâm tới những vấn đề như thế này. Lần này, khi ông cho tầu vào nơi quy định, ông sẽ chứng tỏ được điều đó.
2.3 triệu thùng...
2.3 triệu thùng cái con khỉ.
Pappy kéo còi và chạy dọc theo mũi con tầu. Bạn ông, Al, đứng cầm bánh lái. Một chiếc cầu di động được được hạ xuống từ boong chính. Ông chuẩn bị lên tầu.
Chính khi đó thì điện thoại di động của ông rung lên. Ông với lấy điện thoại, bây giờ là năm giờ ba mươi sáng. Bất cứ một người bình thường nào cũng đều đang ngủ vào giờ này. Trên màn hình hiện lên chữ SỐ MÁY CÁ NHÂN. Một tin nhắn.
Có vẻ như đó là một bức hình gì đó.
Pappy gọi to về phía Al để dừng tàu lại và lùi lại từ chiếc cầu nối lên chiếc Persephone. Trong cái ánh sáng mờ mờ khi bình minh sắp đến, ông ghé mắt nhìn tấm hình trong điện thoại.
Và ông bỗng chết đứng.
Một xác chết. Nằm lăn lóc và biến dạng trên đường phố. Pappy nhận ra một vũng máu đã thâm lại dưới đầu cái xác.
Ông ghé sát mẳt hơn vào màn hình điện thoại để có thêm ánh sáng.
Và "Ôi, Chúa ơi, không...”
Ông trừng trừng nhìn những búi tóc dài và đỏ của nạn nhân trong ảnh. Tim ông ngập tràn đau đớn như có ai đó đã đâm vào đó bằng một con dao nhọn. Ông ngã vật ra sau, như có một chiếc ngoàm sắt đang bóp nát từng rẻ xương sườn.
“Pappy!” - Al cất tiếng gọi từ phía cầu tầu. - “Anh không sao chứ?”
Không. Ông không hề ổn chút nào.
“Là Abel,” - ông thở gấp, khí quản như bít chặt lại. - "Con trai tôi!"
Đột nhiên, điện thoại lại rung lên, một tin nhắn nữa lại đến. Vẫn là tin nhắn từ cái điện thoại ẩn số đó.
Lần này chỉ có ba từ nhảy múa trên màn hình.
Pappy giật toang cổ áo, cố thở. Nhưng nỗi đau như càng cứa sâu hơn vào tim ông, hơn cả một cơn đau tim. Và cơn thịnh nộ nổi lên - từ lòng kiêu hãnh.
Ông sụp xuống sàn boong tàu, ba con chữ cứ nhảy múa trong đầu.
XEM ĐÃ CHƯA?
Chương 12
Một tháng sau - chỉ vài ngày sau khi cuối cùng cũng tổ chức một buổi tưởng niệm cho Charlie, còn Karen thì đang gắng hết sức để sống lạc quan hơn, nhưng quả thật là không hề dễ dàng chút nào, vì quả là thật khó - nhân viên chuyển phát nhanh gửi một gói bưu phẩm trước nhà Karen.
Lúc đó là khoảng giữa ngày, lũ trẻ đều đã tới trường. Karen cũng đang chuẩn bị đi. Cô có cuộc họp với ban lãnh đạo ở trường của lũ trẻ. Cô đang cố gắng hết sức để có thể trở lại với những hoạt động thường ngày của mình.
Đúng lúc đó thì Rita, người giúp việc gia đình, mang gói bưu phẩm, gõ cửa phòng ngủ Karen.
Đó là một chiếc phong bì cỡ lớn, rất dày. Karen kiểm tra địa chỉ người nhận thì thấy ghi được gửi từ một đại lý của công ty vận chuyển Shipping Plus tại Brooklyn. Không có tên và địa chỉ hoàn lại. Karen không nghĩ mình có quen ai ở Brooklyn.
Cô đi vào nhà bếp, lấy dao mở chiếc phong bì. Nội dung bên trong được bọc một lớp giấy bóng bọt. Cô cẩn thận mở túi giấy bóng, nhấc nội dung của chiếc phong bì ra.
Đó là một chiếc khung hình chữ nhật, có lẽ là kích thước mười nhân mười hai inch. Người đóng gói chắc cũng rất vất vả với cái này. Bên trong là một cái gì đó giống tờ giấy xé từ sổ ghi chép, cháy xém, có nhiều vết ố bẩn, mé trên bên phải đã bị rách. Một loạt những con số ngẫu nhiên nguệch ngoạc trên tờ giấy, và cả một cái tên nữa.
Karen cảm thấy nghẹt thở vì trên đó là dòng chữ Từ bàn làm việc của Charles Friedman. Những con số và cái tên nguệch ngoạc trên đó là của Charlie.
“Quà tặng phải không ạ?” - Rita hỏi trong khi đưa tay vơ đám giấy gói.
Karen gật đầu, cố gắng cất tiếng - "Đúng vậy. "
Cô mang chiếc khung về phòng khách, ngồi xuống bên cửa sổ, bên ngoài trời đang mưa tầm tã. Đó là mẩu ghi chép của chồng cô. Tập giấy văn phòng phẩm tự tay Karen đã mua cho anh vài năm trước. Tờ giấy này đã bị xé ra từ đó. Những con số trên đó chẳng có ý nghĩa gì với cô, cả cái tên ngoằn ngoèo trên đó cũng chẳng quen thuộc gì với Karen. Megan Walsh. Một góc mảnh giấy đã bị cháy xém. Trông tờ giấy có vẻ như đã phải nằm dưới đất rất lâu rồi.
Nhưng đó chính là Charlie - là chữ viết của Charlie. Karen thấy toàn thân nóng bừng. Một mảnh giấy đính kèm vào chiếc khung, nội dung: Tôi tìm thấy cái này ba ngày sau khi xảy ra vụ đánh bom nhà ga trung tâm Grand Central. Chắc cái này đã bay ra khỏi đó. Tôi đã giữ nó bởi tôi không biết nó sẽ làm cho nỗi đau lớn hơn hay giúp ích được điều gì đó. Tôi mong là nó sẽ có ích.
Không có chữ ký của người viết.
Karen không tin vào mắt mình nữa. Ti-vi đưa tin đã có hàng nghìn mảnh giấy bay ra từ nhà ga sau vụ đánh bom. Chúng rơi vãi khắp nơi, chẳng khác nào những bông hoa giấy sau một cuộc diễu hành.
Karen chăm chú nhìn những nét chữ của Charlie. Chỉ là một loạt những con số và cái tên vô nghĩa mà cô chẳng thể nhận ra, được viết ở những góc viết rất lạ. Nó được viết vào ngày 22/3, nhiều tuần trước khi Charlie không còn nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là những tin nhắn ngẫu nhiên.
Nhưng đó là của Charlie. Là chữ viết của Charlie, là một phần của anh trước cái ngày định mệnh ấy.
Họ cũng chẳng đem trả lại cho cô mảnh da còn sót lại từ chiếc cặp của anh mà người ta đã tìm thấy. Và đây là tất cả những gì cô còn lại. Áp mảnh giấy vào lòng, trong một thoáng, Karen như cảm thấy anh đang ở cạnh bên cô.
Mắt cô lại ngấn nước. “Ôi, Charlie của em.."
Như thể anh đang nói lời từ biệt với cô.
Tôi không biết nó sẽ làm cho nỗi đau lớn hơn hay giúp ích được điều gì đó, người gửi đã viết vậy.
Có chứ, giúp ích nhiều lắm chứ. Và còn hơn cả thế nữa... Karen ấp chặt hơn mảnh giấy. Hơn thế ngàn lần.
Đó chỉ là những con số ngu xuẩn, không trật tự và một cái tên do Charlie viết ra, nhưng đó là tất cả những gì cô còn lại.
Cô đã không thể khóc tại buổi tưởng niệm vì có quá nhiều nguời tới dự. Bức hình phóng to của Charlie dập dờn quanh họ, và họ muốn buổi tưởng niệm phải đem lại sự lạc quan chứ không phải nỗi buồn, và cô đã cố gắng tỏ ra cứng rắn.
Nhưng giờ đây, tại đây, ngay bên khung cửa sổ này, cô cảm thấy mọi việc đều ổn khi ôm chặt những nét chữ của chồng mình vào tim. Cô thầm nhủ: Charlie, em đang ở đây, bên anh, và cuối cùng cô cũng thực sự cho phép mình được khóc.
Chương 13
Dưới đường, một người đàn ông đang cúi người trong chiếc xe tối màu, dòng nước mưa đang chảy dài theo kính xe. Người đàn ông châm thuốc hút trong khi vẫn đưa mắt canh chừng ngôi nhà, kéo cửa kính xuống đôi chút, vẩy tàn thuốc xuống đường.
Chiếc xe của hãng chuyển phát nhanh cũng chỉ vừa mới rời khỏi. Người đàn ông biết rằng thứ mà hãng mang tới cho ngôi nhà này sẽ khiến mọi việc xoay chuyển. Không lâu sau, Karen Friedman che áo mưa trên đầu, chạy vội ra khỏi nhà, nhảy lên chiếc Lexus.
Hứa hẹn sẽ có những điều thú vị xảy ra.
Karen lui xe ra khỏi đường vào nhà, vào đường chính, quay đầu xe chạy thẳng về hướng chiếc xe người đàn ông đang ngồi. Người đàn ông hụp thấp đầu hơn nữa trong xe, đèn pha chiếc Lexus rọi thẳng vào kính xe của người đàn ông, lấp lánh dưới mưa khi chạy ngang qua.
Loại xe hai tính năng. Người đàn ông tỏ vẻ thán phục khi quan sát qua gương chiếu hậu khi chiếc xe chạy qua. Ông ta nhấc điện thoại đặt bên cạnh ghế lái, cạnh chiếc Walther P38, nhập số máy cá nhân, mắt nhìn xuống đôi bàn tay xù xì, thô ráp của một người quen với công việc nặng nhọc.
Lại phải nhúng chàm một lần nữa, người đàn ông thở dài.
“Kế hoạch A có vẻ như không ổn.” - Người đàn ông nói khi đầu dây bên kia trả lời điện thoại.
“Chúng ta không phải làm như vậy mãi.” — Giọng nói phía bên kia đầu dây đáp lại.
"Tôi đang rất hào hứng.” - Người đàn ông thở ra một hơi thuốc, khởi động xe, búng tàn thuốc qua cửa sổ và tăng tốc chầm chậm chạy theo chiếc Lexus. - "Tôi đã sẵn sàng tiến hành kế hoạch B."
Chương 14
Một trong những việc Karen đang phải giải quyết vài tuần sau đó là việc giải thể công ty của Charlie.
Cô chưa từng bao giờ có liên quan sâu vào công việc kinh doanh của chồng. Harbor là công ty “cổ đông trách nhiệm hữu hạn chung." Thỏa thuận về cổ phần, trong trường hợp đối tác chính qua đời hay không thể tiếp tục cộng tác, là phần tài sản của công ty sẽ được chia lại cho các đối tác khác. Charlie nắm giữ một khoản tương đối nhỏ, với giá trị tài sản vào khoảng 250 triệu đô la. Người nắm giữ cổ phần lớn nhất là Goldman Sachs, nơi Charlie bắt đầu làm việc nhiều năm trước đây, và một vài gia đình giàu có mà anh lôi kéo được những năm sau đó.
Saul Lennick, sếp đầu tiên của Charlie tại công ty Goldman Sachs, người đã giúp anh bắt đầu công việc kinh doanh, là ủy viên quản trị. Thật khó để Karen vượt qua giai đoạn này. Một giai đoạn có vị ngọt cay đắng. Charlie chỉ có bảy người giúp việc cho mình: một nhân viên giao dịch thuộc quyền, Sally -nhân viên trông coi sổ sách, cũng là người quản lý phần bảo mật thông tin văn phòng và đã bắt đầu làm việc cho Charlie kể từ ngày đầu tiên anh bắt đầu công việc kinh doanh. Một thư ký, Heather, người xử lý rất nhiều vấn đề cá nhân của họ. Karen gần như hiểu rõ tất cả những nhân viên này.
Lennick bảo cô rằng sẽ phải mất vài tháng để mọi việc đi vào ổn định. Và điều này cũng tốt với cô. Charlie chắc hẳn cũng muốn mọi thứ đều phải được chăm nom cẩn thận. “Chúa ạ, ông biết đấy, những năm vừa qua Charlie dành nhiều thời gian cho những thứ này hơn là thời gian dành cho mình,” cô mỉm cười nói với Saul. Dù sao thì tiền cũng chẳng phải là vấn đề cần quan tâm lúc này.
Về tài chính thì cô và lũ trẻ vẫn ổn. Cô vẫn có ngôi nhà, sở hữu khu trượt tuyết ở Vermont. Thêm nữa là Charlie cũng đã kịp rút ra một khoản tiền sau những năm kinh doanh. Nhưng khó có thể chịu đựng được việc phải chứng kiến những gì Charlie từng yêu quý lần lượt bị dỡ bỏ. Nhiều vị trí đã bị bán đi, văn phòng tại đại lộ Park đã phải rao giá cho thuê. Nhân viên của anh cũng lần lượt phải đi tìm việc khác và bắt đầu rời khỏi công ty.
Chẳng khác nào những dấu ấn nhỏ nhoi của anh, những dấu ấn cuối cùng của anh đã biến mất.
Trong khoảng thời gian đó, nhân viên giao dịch của Charlie, Jonathan Lauer, mới chỉ tới công ty vài tháng trước đây, gọi điện về nhà cho cô. Lúc đó Karen không có nhà. Anh ta đã để lại mẩu tin nhắn qua điện thoại: “Bà Friedman, tôi muốn nói chuyện với bà. Vào lúc nào bà thấy thuận tiện. Có một vài chuyện bà cần phải biết.”
Một vài điều... Bất cứ đó là điều gì thì cô cũng chưa đủ khả năng để giải quyết ngay vào thời điểm đó được. Jonathan là nhân viên mới, anh ta mới chỉ bắt đầu làm việc cho Charlie từ năm ngoái. Charlie đã lôi kéo được anh ta sang làm việc cho mình từ tập đoàn Morgan. Cô đã gửi tin nhắn đó cho Saul.
"Đừng lo. Tôi sẽ xử lý vụ này." - Saul bảo cô. - “Với tất cả những công việc khó khăn như đóng cửa một công ty thế này. Người ta đang tìm kiếm thỏa thuận cho riêng mình. Có thể đã có một thỏa thuận về tiền thưởng được tính tới trước đó. Charlie không phải là người lưu trữ tốt lắm những vấn đề như thế này. Cô không cần phải giải quyết bất cứ vấn đề nào như vậy ngay vào thời điểm này.”
Ông ấy nói đúng, cô không thể giải quyết được vấn đề vào lúc này được. Vào tháng bảy, cô sẽ rất cần có một tuần nghỉ ngơi tại nhà Paula và Rick tại Sag Habour. Cô lại tiếp tục tham gia vào nhóm đã đăng ký, bắt đầu tập lại yoga. Chúa ơi, cô rất cần phải có tuần nghỉ ngơi đó. Cơ thể cô đã bắt đầu quay trở lại với chính nó, và cảm thấy tràn đầy sức sống. Dần dần tinh thần cô cũng phải vậy.
Tháng tám đã tới. Samantha đã kiếm được việc làm ở một câu lạc bộ ở bãi biển địa phương. Alex đang đi dã ngoại đánh bóng vợt. Karen đang cân nhắc có lẽ cô nên xem xét việc xin đăng ký bất động sản.
Jonathan Lauer lại tiếp tục gọi cho cô.
Lần này cô ở nhà, nhưng vẫn không nhấc máy. Cô vẫn nghe cái tin nhắn đầy bí ẩn qua máy ghi âm: “Cô Friedman, tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta nên nói chuyện...”
Nhưng Karen vẫn để cho mẩu tin nhắn tiếp tục chạy cho đến hết, cô không muốn né tránh anh ta. Charlie đã luôn đánh giá rất cao nhân vật này. Người ta đang tìm kiếm thỏa thuận cho riêng mình...
Cô không thể trả lời điện thoại. Nghe giọng nói của anh ta trôi qua mà cô cảm thấy buồn.
Chương 15
Một ngày tháng chín, khi lũ trẻ đã trở lại trường học, thì Karen ngẫu nhiên gặp lại trung úy Hauck, viên thanh tra cảnh sát Greenwich.
Khi đó là giờ giải lao giữa trận bóng đá cấp ba tại sân Greenwich, tranh giải Stamford West. Karen đã tình nguyện bán vé đặt cược đua xe Teen Center của phòng thể dục thể thao. Tất cả những chỗ đứng đều đã chật kín. Đó là một buổi sáng thứ bảy đầu thu khô lạnh. Ban nhạc Huskies đang chơi dưới sân bóng. Karen đi về phía quầy bán đồ uống mua một tách cà phê cho đỡ lạnh.
Ban đầu cô gần như không nhận ra viên cảnh sát. Anh mặc quần jeans và áo len chui đầu bông xù. Một cô bé xinh xắn khoảng chín, mười tuổi đang ngồi trên vai anh. Cả hai gần như đã đâm sầm vào nhau trong đám đông.
"Trung úy...?”
“Hauck." - Anh quay đầu và dừng lại, mắt ánh lên nét mừng rỡ.
“Tôi, Karen Friedman đây.” - Cô gật đầu chào, đưa tay che ánh nắng mặt trời đang rọi vào mắt.
"Tất nhiên tôi nhớ chứ." - Anh thả cô bé xuống. - “Jess, chào cô Friedman đi con.”
“Chào cô ạ.” - Cô bé xinh xắn đưa tay vẫy, hơi ngượng nghịu. - “Rất vui được gặp cô.”
“Cô cũng rất vui được gặp cháu, cưng ạ." - Karen mỉm cười, - "Con gái anh phải không?"
Hauck gật đầu. - "Đúng vậy.” - Viên cảnh sát rên rỉ, tay giữ lấy thắt lưng. - "con bé đã quá lớn để tôi kiệu trên vai lâu như thế này. Đúng không, con? Con đi trước tìm các bạn nhé. Lát nữa bố sẽ tới đón.”
“Vâng ạ.” - Con bé chạy đi, lẫn vào đám đông, về phía đường biên bên kia.
“Tôi đoán nhé, con bé lên chín?” - Karen nói, cặp lông mày hơi nhướng lên tò mò.
"Mười tuổi rồi. Vậy mà đôi lúc con bé vẫn đòi tôi phải kiệu. Tôi đoán mình cũng chỉ làm vậy được một hai năm nữa trước khi con bé bắt đầu phát ngượng lên mỗi khi tôi bảo con bé ngồi lên vai cho tôi kiệu.”
"Không phải giữa con gái và bố.” - Karen lắc đầu cười. - "Dẫu sao thì vịệc đó cũng chẳng khác nào cái miệng chuông cả.
Một lúc nào đó sẽ lặp lại thôi. Mọi người nói với tôi như vậy. Tôi cũng đang chờ đợi điều đó xảy ra đây.
Hai người đứng đó vài phút, giữa đám đông. Mộc nguời đàn ông cao to chắc nịch trong chiếc áo lạnh ngắn tay Greenwich vỗ mạnh vào vai Hauck khi bước ngang qua: “Này, anh bạn..."
“ Ô, Rollie.” - Hauck vẫy tay đáp lại.
“Tôi đến cửa hàng đồ uống mua một tách cà phê.” - Karen nói.
“Để tôi.” - Hauck đề nghị. - “Tin tôi đi, cô không lấy được đâu.”
Cả hai cùng bước tới dãy bán đồ uống. Người phụ nữ đang bán hàng tại quầy cà phê nhận ra Hauck. - “ Chào Ty! Dạo này thế nào, trung úy? Có vẻ như hôm nay chúng tôi có thể trông đợi vào anh được đấy nhỉ.”
“Đúng thế, chỉ cần cho tôi hai mươi tách này cộng thêm một mũi tiêm chống viêm vào cả hai đầu gối là được.” - Hauck rút trong túi ra vài tờ một đô.
"Đãi anh luôn, trung úy à.” - Người phụ nữ vẫy tay. - "Chương trình ủng hộ mà."
“Cám ơn Mary.” - Hauck nháy mắt, đưa một tách cà phê cho Karen. Anh chỉ về phía một chiếc bàn còn trống, mỗi người cầm một chiếc ghế sắt.
“Thấy không?” - Hauck nhấp một ngụm cà phê. - “Một trong những cái lợi về mặt pháp lý mà tôi có đấy.”
“Chức vụ có đặc quyền đặc lợi riêng của nó.” - Karen nháy mắt, giả vờ như rất ấn tượng.
"Đâu có.” - Hauck nhún vai. - “Là do vị trí phòng thủ của tôi trong đội Greenwich High năm 1975. Chúng tôi đã vào tận đến vòng chung kết năm đó. Họ không bao giờ quên.”
Karen mỉm cười. Cô hất mái tóc ra sau chiếc áo rét có mũ trùm đầu của đội Greenwich High, rồi đưa tay ôm lấy tách cà phê nóng.
"Vậy, dạo này tình hình cô thế nào?” - Hauck hỏi. - "Thực sự tôi đã muốn gọi cho cô một vài lần. Lần cuối cùng tôi gặp cô, mọi thứ vẫn còn tương đối khó khăn."
“Tôi biết."' - Karen lại nhún vai. - "Đúng vậy. Giờ tôi đã khá hơn rồi. Thời gian.. - Cô thở dài, nghiêng nghiêng tách cà phê.
"Vâng, như người ta vẫn nói..." - Viên trung úy cũng nhún vai mỉm cười. - "Vậy, hai cháu đang học trung học?”
“Hai đứa. Samatha năm nay tốt nghiệp. Alex đang học đại học năm thứ hai. Thằng bé chơi bóng vợt. Hiện thằng bé đang rất cố gắng và bận bịu.”
“Chắc chắn rồi." - Viên trung úy nói. Có người chạm nhẹ vào lưng anh khi đi ngang qua. Anh gật đầu, môi mím lại, còn nói được gì nữa?
"Lúc đó anh đang điều tra vụ tai nạn giao thông.” - Karen chuyển chủ đề. - “Nạn nhân là một cậu bé nào đó ở Florida. Anh đã tìm thấy hung thủ chưa?"
''Không. Nhưng tôi phát hiện ra lý do tại sao tên chồng cô lại nằm trong túi nạn nhân.”
Hauck kể cho Karen về chiếc Mustang.
"Chiếc xe Charlie yêu thích. ” - Karen gật đầu mỉm cười. - “Cũng dễ hiểu. Tôi vẫn giữ chiếc xe đó. Charlic đã viết trong di chúc là không được bán. Còn về chiếc xe thì sao, Trung úy? anh muốn có biểu tượng của nước Mỹ không, chỉ có năm đó sản xuất mầu Emberglow. Và mất khoảng tám nghìn đô một năm để đem đi báo dưỡng một vài lần.”
“Xin lỗi. Tôi cũng có biểu tượng nước Mỹ của riêng mình rồi. Đó là tài khoản đại học.” - Hauck cười.
Loa phóng thanh thông báo hai đội đang bắt đầu quay lại sân thi đấu. Ban nhạc Huskies rời sân trong hành khúc: “Ai nói em không thể về nhà?” của Bon Jovi. Con gái Hauck chạy ra khỏi đám đông, kêu lên: “Bố ơi, đi thôi! Con muốn ngồi với Elyse!”
“Hiệp hai bắt đầu rồi.” - Hauck lên tiếng.
“Con bé xinh quá.” - Karen nhận xét. - “Cháu là con út phải không?”
“Tôi chỉ có mình cháu. ” - Hauck đáp lời sau một chút im lặng. - “Cảm ơn cô, Karen.”
Trong giây lát, bốn mắt gặp nhau. Karen cảm thấy có điều gì đó ẩn chứa sau đôi mắt sâu thẳm kia.
“Vậy còn chuyện vé đặt cược xem đua xe này thì sao?” - Karen hỏi. - “Vé bán với mục đích tốt mà. Chương trình ủng hộ.” - Cô cười lục khục. - “Mua đi nào, tôi bán hơi chậm đây này.”
"Tôi e là tôi đã đóng thuế rồi kia mà.” - Hauck thở dài cam chịu, tay vỗ vỗ vào hai đầu gối.
Karen xé một chiếc vé, ghi tên Hauck vào chỗ trống.
"Tặng anh làm kỷ niệm nhé. Anh biết đấy, hôm ấy anh đã nói với tôi những điều thật tốt. Rằng anh hiểu những gì tôi đang phải trải qua lúc đó. Tôi cho rằng lúc đó tôi rất cần có một điều gì như vậy và tôi rất biết ơn anh vì hôm ấy.”
“Chúa ơi...” - Hauck lắc lắc đầu, đưa tay nhận chiếc vé từ tay Karen, những ngón tay họ vô tình chạm nhau, rất nhanh. - “Những món quà chẳng chịu bỏ tôi ngày hôm nay.”
“'Xứng đáng với việc tốt anh đã làm mà, trung úy.”
Cả hai đứng dậy. Con gái Hauck gọi to nôn nóng. - “Bố ơi, đi thôi!"
"Chúc cô bán được nhiều vé.” - Hauck nói. - “Cô biết đấy, có lẽ sẽ tốt hơn nếu cô bán được vài chiếc ngày hôm nay.”
Karen cười lớn. - “Rất vui được gặp anh hôm nay.” - Cô lắc lắc hai nắm tay như đang nắm hai quả cầu tua của đội cổ vũ: "Tiến lên, Huskies!”
Hauck vẫy tay, lẫn vào trong đám đông. - “Hẹn gặp lại cô.”
Chương16
Một điều bất ngờ đã đến với Hauck đêm hôm đó. Hauck đã quyết định khi anh chấm lên bức tranh sơn dầu trong căn nhà hai phòng ngủ anh thuê tại đại lộclid ở Stamford. Căn nhà nhìn ra vịnh Holly.
Vẫn một bức tranh bến du thuyền. Một chiếc tàu tuần tra nhỏ, đang chạy chậm dần lại. Rất giống với cảnh anh nhìn thấy từ ban-công. Đó là tất cả những gì anh từng vẽ. Những con tầu...
Jessie (1) đang ở trong phòng, xem ti-vi và nhắn tin qua điện thoại di động. Hai bố con đã ăn bánh pizza trước đó tại nhà hàng Mona Lisa trong phố và đi xem phim hoạt hình mới phát hành. Jessie vờ tỏ ra chán, Hauck thì rất thích bộ phim.
"Bộ phim này dành cho trẻ lên ba mà bố.” - Jessie nheo nheo mắt.
“ Ồ.” - Hauck ngừng quảng cáo. - “Những chú chim cánh cụt tuyệt đấy chứ.”
Hauck thích nơi này, căn nhà hai tầng kiểu thập niên sáu mươi, trên dải đất nhô ra vịnh. Chỉ cách vịnh có một khu nhà. Chủ nhà đã gia công sửa lại trước đó. Từ trên ban-công tầng hai, nơi bố trí phòng khách, có thể nhìn thấy eo Long Island. Láng giềng là một cặp vợ chồng người Pháp, Richard và Jacqueline, làm nghề sửa chữa nội thất trong nhà - xưởng làm việc của họ được đặt trong ga-ra. Họ vẫn thường mời anh tới dự tiệc bên nhà, có rất nhiều người tới dự với đủ loại tiếng Anh của các vùng, và rượu vang thì cũng không đến nỗi tồi lắm.
Đúng vậy, điều đó khiến anh bất ngờ. Điều anh đang cảm nhận được. Anh đã cảm nhận đôi mắt của cô ra sao - xanh và to hấp dẫn. Ánh mắt chết người như một nét phù hợp thật tự nhiên. Giọng nói của cô mới nhẹ nhàng và du dương như thể không phải là cô đang đứng đó. Mái tóc nâu vàng của cô buộc gọn đuôi gà trẻ trung phía sau gáy.
Cảm nhận cả cái cách cô nhét chiếc vé đặt cược vào túi anh và cố tìm cách khiến anh mỉm cười.
Không giống Beth. Khi thế giới của cô tan vỡ.
Hauck đưa bút vẽ dọc một đường nhỏ theo cột buồm của chiếc thuyền và hòa lẫn nó với màu xanh của nước biển. Xong, anh nhìn chăm chú. Trông thật chẳng ra sao. Không ai có thể nhầm lẫn anh với Picasso được.
Cô đã hỏi anh rằng Jess có phải là con út hay không, và anh đã trả lời, sau một chút ngập ngừng mà tưởng chừng như vô tận - Tôi chỉ có mình cháu. Lẽ ra anh đã có thể nói với cô điều đó. Cô có thể đã hiểu. Cô cũng đã phải trải qua nỗi đau đó.
Thôi nào, Ty, lại sao lại cứ phải quay lại với điều đó?
Lúc đó, cả hai đã có tất cả. Anh cùng Beth. Thật khó có thể nhớ được rằng họ đã từng rất yêu nhau. Beth đã từng cho rằng anh là người đàn ông hấp dẫn nhất trên thế giới này, và anh cũng nghĩ về cô như vậy.
Chỉ có mình cháu...
Anh đã quên điều gì tại cái cửa hàng đã khiến anh chạy vội trở lại? Đó là món snack pudding... .
Vội vàng đỗ xe vào bãi, đã bao nhiêu lần anh làm việc đó và nó vẫn sẽ còn nguyên như vậy? Một nghìn lần chăng? Hay một vạn lần?
"Cẩn thận nào. Bố sẽ lùi xe vào ga-ra...”
Khi anh quay trở lại ga-ra, trên tay là tấm hóa đơn và ví tiền, họ đã nghe thấy tiếng kêu. Đó là Jessie. Beth tròn mắt kinh sợ - "Ôi, Chúa ơi, Ty, không! ” - qua cửa sổ nhà bếp, họ thấy chiếc xe tải đang lùi lại.
Norah đã không còn kịp kêu lên một tiếng nào.
Hauck đặt cây cọ xuống. Anh đưa tay ôm trán. Điều đó đã lấy đi cuộc hôn nhân của anh. Nó đã khiến anh không còn có thể nhìn vào trong gương mà không phải bật lên tiếng khóc. Và trong một thời gian rất lâu sau đó, anh không thể đưa tay ôm Jess vào lòng.
Và tất cả mọi thứ.
Tâm trí anh quay lại với buổi sáng hôm đó. Những vệt nắng như nhảy múa trên má cô, khiến anh phải mỉm cười.
Thực tế vào, Ty... Có lẽ cô ấy đang sở hữu chiếc xe còn đắt hơn cả tổng số lương hưu của anh ấy chứ. Chồng cô ấy vừa mới mất. Có thể sẽ là một cuộc sống khác.
Một thời điểm khác.
Nhưng anh vẫn ngạc nhiên khi lại cầm đến cây cọ. Ngạc nhiên về điều nó khiến anh phải nghĩ tới... điều anh cảm nhận được.
Một sự thức tỉnh.
Và điều đó thật lạ lùng, bởi không còn điều gì có thể khiến anh ngạc nhiên hơn được nữa.
Chú Thích:
1 Jessie: Tên gọi trang trọng của Jess.
Chương 17
Tháng mười hai
Cuộc sống của họ đã bắt đầu có chút trở lại với cái bình yên thường nhật. Sam đang làm thủ tục xét tuyển vào đại học, hai lựa chọn đầu bảng của con bé là trường đại học Tufts và Bucknell. Karen đã cùng với con bé đến thăm hai trường theo quy định bắt buộc.
Cũng chính vào thời điểm đó thì có hai nguời đàn ông tới từ Archer gõ cửa nhà cô.
"Bà Friedman phải không ạ?” - Người thấp hơn đứng trước cửa cất tiếng hỏi. Đó là người có bộ mặt như chiếc đục thợ mộc với mái tóc húi cua cắt rất sát. Người này mặc bộ vét doanh nhân màu xám bên trong chiếc áo đi mưa. Người còn lại gầy guộc và cao hơn, đeo một cặp kính gọng sừng, mang một chiếc cặp da luật sư.
"Bà Friedman, chúng tôi từ công ty kiểm toán tư nhân. Chúng tôi có làm phiền bà không?”
Ban đầu Karen có một ý nghĩ thoáng qua rằng họ tới từ một quỹ nào đó của chính phủ đã được thành lập cho các gia đình nạn nhân, cô đã nghe được điều này từ nhóm bạn vận động ủng hộ rằng những người này có thể trông rất lạnh lùng và không chuyên nghiệp. Cô mở cửa.
“Cảm ơn bà.” - Người tóc ngắn có giọng nói pha trộn của người châu Âu đưa cô tấm danh thiếp. Hiệp hội Archer và Bey. Johannesburg, Nam Mỹ. - “Tên tôi là Paul Roos, còn đây là Alan Gillespie. Chúng tôi sẽ không làm mất nhiều thì giờ của bà. Chúng tôi có thể ngồi được chứ?”
“Tất nhiên...” - Karen hơi ngập ngừng. Có điều gì đó lạnh lùng và vô cảm ở hai con người này. Cô nhìn kỹ hơn tấm danh thiếp. — “Nếu là điều gì đó liên quan tới chồng tôi thì các ông biết đấy, Saul Lennick, nhân viên Tập đoàn Tài chính Whiteacre, hiện đang phụ trách việc sắp xếp các quỹ.”
“Chúng tôi đã liên hệ với ông Lennick rồi.” - Người tên Roos đáp lời, giọng nói có chút thực tế. Người này tiến thêm một bước về phía phòng khách. - “Nếu không phiền...."
Karen đưa cả hai tới bên đi-văng.
“Bà có một căn nhà rất đẹp.” - Roos nói, mắt nhìn quanh căn nhà chăm chú.
“Cám ơn ông. Ông nói các ông là nhân viên kiểm toán.” - Karen đáp lời. - “Tôi nghĩ chồng tôi đuợc quản lý bởi một người không nằm trong khu vực thành phố, Ross và Weiner. Tôi không nhớ có tên công ty của các ông.”
“Thực ra chúng tôi không đến đây đại diện cho chồng bà." Người đàn ông Nam Phi gác chân lên nhau. - “Chúng tôi đại diện cho một số nhà đầu tư của ông ấy.”
“Các nhà đầu tư?”
Karen chỉ biết Morgan Stanley là nhà đầu tư lớn nhất của Charlie cho đến thời điểm này. Sau đó là O'Flynns và Hazens, đó là những nhà đầu tư đã theo anh suốt từ những ngày đầu kinh doanh.
“Nhà đầu tư nào vậy?” - Karen nhìn người đàn ông, khó hiểu.
Roos nhìn Karen, mỉm cười do dự. - "chỉ là... những nhà đầu tư thôi." - Nụ cười khiến Karen cảm thấy bất an.
Người đồng hành tên Gillespie mở cặp. - “Bà Friedman, bà đã nhận được tiền thu được từ việc giải thể tài sản công ty của chồng bà chưa?"
"Nghe có vẻ như là một cuộc kiểm toán vậy.” - Karen dè dặt. - “Rồi. Có điều gì không ổn sao?” - Thủ tục với các quỹ đã hoàn tất. Cổ phần của Charlie, trừ đi một vài chi trả cuối cùng cho việc đóng cửa công ty, vào khoảng dưới bốn triệu đô một chút. - "Có lẽ ông có thể nói cho tôi biết rằng chuyện này liên quan tới cái gì được chứ.”
“Chúng tôi đang kiểm tra lại một số hoạt động giao dịch.” - Gillespie đặt một tập báo cáo dày lên mặt bàn trước mặt.
“Các ông nghe này, tôi vốn không quan tâm nhiều đến công việc kinh doanh của chồng tôi.” - Karen lên tiếng. Điều này bắt đầu khiến cô cảm thấy lo lắng. — “Tôi chắc rằng nếu các ông làm việc với ông Lennick...”
"Đúng ra là thâm hụt tài chính.'’ - Người nhân viên kiểm toán tự sửa lại, mắt hấp háy.
Karen không thích loại người như vậy. Cô không hiểu tại sao họ lại có thể có mặt ở đây. Cô lại ghé nhìn tấm danh thiếp. - “Các ông là kiểm toán viên?”
“Chúng tôi là kiểm toán viên, và điều tra viên pháp lý, thưa bà Friedman.” - Paul Roos đáp lời.
"Điều tra viên...?”
"Chúng tôi đang chắp nối lại một vài lĩnh vực nhất định của công ty chồng bà.” - Gillespie giải thích. - “Sổ sách của công ty cho thấy có đôi chút... có thể nói là mập mờ. Chúng tôi nhận thấy với tư cách là một quỹ đầu tư hợp tác, chồng bà chịu sự ràng buộc của một số thủ tục."
"Nghe này, tôi nghĩ tốt hơn hết là các ông nên đi. Tốt hơn hết là các ông nên dừng lại nếu các ông đưa chuyện này đến chỗ..."
"Nhưng rõ ràng là không thể tránh khỏi việc đã có một luợng tiền lớn bị thất thoát.” - Người đàn ông tiếp tục.
“Thất thoát... ” Karen nhìn thẳng vào mắt người đàn ông, giận dữ. Saul không bao giờ nhắc tới bất cứ điều gì liên quan tới thất thoát tài chính. - “Đó chính là lý do các ông có mặt tại đây sao? Ô, chuyện này có phải là tồi tệ lắm không, ông Gillespie? Chồng tôi đã không còn nữa, có vẻ như các ông cũng biết điều đó. Anh ấy đi làm vào một buổi sáng cách đây tám tháng và không còn bao giờ có thể về nhà được nữa. Vậy thì làm ơn hãy nói cho tôi biết.” - Ánh mắt Karen cháy lên, thiêu đốt Gillespie như tia quang tuyến X. Rồi cô đứng dậy. - “Hãy nói đi xem khoản tiền các ông đang nói đến là bao nhiêu, thưa ông Gillespie. Tôi sẽ đi lấy ví ngay đây.”
"Số tiền đó là hai trăm năm mươi triệu đô la, thưa bà Friedman. Bà có giữ số tiền lớn như vậy bằng tiền mặt hay không?”
Karen muốn xỉu. Cô ngồi phịch xuống, những con số như từng viên đạn găm vào người cô. Hai người đàn ông không hề thay đổi thái độ.
"Các ông nói cái quái quỷ gì thế?”
Roos hơi nhoài người về phía trước, nhắc lại. “Điều chúng tôi muốn nói là đã có rất nhiều tiền không được kiểm toán cho công ty của chồng bà, bà Friedman ạ. Và khách hàng của chúng tôi muốn điều tra xem số tiền đó biến đi đâu.”
Hai trăm năm mươi triệu đô. Karen quá choáng váng đến nỗi không còn cười được nữa. Số tiền thu lại từ việc giải thể công ty đã được hoàn tất không chút bất ngờ nào. Toàn bộ giá trị kinh doanh của Charlie cũng khó có thể vượt qua được con số đó.
Cô quay ra nhìn lại vào những đôi mắt vô tri, vô cảm của hai người đàn ông. Cô biết họ đang ẩn ý điều gì đó về chồng mình. Charlie đã mất. Anh không thể tự bào chữa cho bản thân.
"Tôi không chắc là chúng ta còn có điều gì để bàn nữa, thưa ông Gillespie và ông Roos.” - Karen lại đứng dậy. Cô muốn những người này biến khỏi nhà mình. Biến khỏi nhà cô, ngay bây giờ. - “Tôi đã nói với hai ông rằng tôi không bao giờ quan tâm tới công việc kinh doanh của chồng tôi. Các ông sẽ phải nói chuyện với Lennick. Giờ thì tôi muốn hai ông đi cho.”
Hai người đàn ông nhìn nhau. Gillespie gấp tập hồ sơ, nhét lại vào cặp, đóng sập lại. Cả hai cùng đứng dậy.
"Chúng tôi không có ý xúc phạm gì ở đây, thưa bà Friedman.” - Roos nói, giọng hòa hoãn. - “Nhưng dẫu sao thì điều tôi muốn nói là sẽ có một cuộc điều tra. Tôi sẽ không đụng đến một chút nào trong số tiền giải thể mà bà vừa mới nhận.” - Người đàn ông mỉm cười vẻ trong sáng và đưa mắt nhìn quanh.
“Như tôi đã nói, bà có một căn nhà rất đẹp... Nhưng sẽ là công bằng hơn khi cảnh báo trước cho bà.” - Roos quay ra cửa. - "Các tài khoản cá nhân cũng sẽ bị kiểm tra.”
Nghe vậy, Karen bỗng dựng tóc gáy.
Chương 18
Chỉ mất vài phút để Karen đang hoảng loạn, gọi điện thoại cho Saul Lennick.
Văn phòng của ông ta cũng khó có thể tìm được Saul. Ông đang đi công tác ở nước ngoài. Nhưng thư ký của Saul đã nhận ra sự lo lắng trong giọng nói của Karen. Và cuối cùng thì người ta cũng tìm được ông.
“Karen à...?”
“Saul, tôi xin lỗi đã làm phiền.” - Bằng giọng muốn khóc, cô kể cho Saul nghe về chuyến viếng thăm của hai người từ hãng Archer.
"Ai?"
“Họ tới từ một Tập đoàn nào đó có tên là Archer & Bey. Là những nhân viên điều tra pháp lý và là kiếm toán viên, từ Nam Phi và nói rằng đã nói chuyện với ông trước khi đến gặp tôi."
Saul bảo Karen kể lại toàn bộ chi tiết sự việc, đôi lúc chen vào vài câu hỏi về tên tuổi và đặc biệt là những nội dung họ nói.
“Nghe này, Karen. Trước tiên tôi muốn nói rằng cô không phải lo lắng điều gì cả. Việc giải thể của công ty hợp doanh Habour đang diễn ra suông sẻ, và tôi đảm bảo với cô một trăm phần trăm về sổ sách. Còn về ghi chép tài chính thì đúng, Charlie đã bị thua lỗ chút ít trong thời gian cuối. Charlie đã đầu tư rất nhiều vào các hợp đồng dầu lửa Canada có tăng trưởng."
“Những người đó là ai vậy, Saul?”
“Tôi cũng không biết. Tôi nghi đó là một tập đoàn kiểm toán nước ngoài, nhưng tôi sẽ tìm ra thôi. Có thể họ được một trong những nhà đầu tư của Charlie ở nước ngoài thuê với hy vọng ngăn chặn quy trình giải thể.”
“Họ nói về khoản tiền hàng trăm triệu đô la, Saul à! Ông biết là Charlie không quản lý tài chính kiểu như vậy mà. Họ bóng gió và cảnh báo tôi không nên sử dụng chút nào trong số tiền thu được từ việc giải thể công ty. Đó là tiền của Charlie mà Paul! Thật đáng sợ. Họ nói rằng kể cả các tài khoản cá nhân của tôi cũng sẽ bị kiểm tra.”
"Sẽ không có chuyện đó xảy ra, Karen. Xem này, có một vài chi tiết đang bị treo mà người khác có thể đưa thêm thông tin vào nếu muốn.”
“Chi tiết gì thế, Paul?” - Cô chưa từng bao giờ nghe thấy bất cứ điều gì về chuyện này cả.
“Có thể là một vài chi tiết mà người ta có thể đặt nghi vấn. Một vài chi tiết không được tốt trong hợp đồng cho vay của Charlie. Nhưng tôi không muốn đi trước một bước. Chưa đến lúc.”
"Charlie đã không còn nữa, Saul à! Anh ấy sẽ không thể tự bảo vệ mình được nữa. Tôi muốn nói là đã bao nhiều lần tôi nghe thấy anh ấy than phiền về những khoản tiền chết tiệt dành cho khách hàng của anh ấy chứ. Chỉ là một phần của một con số nào đó. Và những kẻ đó, với những lời ám chỉ bóng gió như vậy... Họ không có quyền đến đây, Saul à.”
“Karen, tôi đảm bảo rằng không có chút căn cứ nào về những gì họ nói cả. Dầu họ có là ai, họ cũng chỉ đang tìm cách quấy rối mà thôi. Nhưng họ cũng đã đi sai đường.”
“Đúng, đúng vậy.” - Nỗi bực tức trong cô bắt đầu giảm xuống. - “Đúng là họ đã đi lầm đường. Tôi không muốn họ quay lại nhà tôi nữa. Thật may mắn là Samantha và Alex không có mặt ở nhà lúc đó.”
"Nghe này Karen, tôi muốn cô fax cho tôi cái danh thiếp đó. Tôi sẽ xem qua. Tôi hứa sẽ đảm bảo điều đó không xảy ra nữa.”
“Charlie là người đáng tin cậy, Saul à. Ông biết điều đó rõ hơn ai hết.”
“Tôi hiểu, Karen. Tôi coi Charlie như đứa con thứ hai của tôi. Cô biết là tôi thực sự luôn quan tâm đến lợi ích của cô mà.”
Karen đưa tay vuốt tóc cho bớt cơn tức giận. - “Tôi hiểu mà..."
"Karen, gửi cho tôi tấm danh thiếp. Tôi muốn là người đầu tiên được thông tin xem họ có quay lại hay không.”
“Cám ơn ông, Saul.”
Bỗng nhiên có điều gì đó thật lạ ùa đến bên Karen, những dòng nước mắt trào dâng đột ngột không thể lý giải được. Có những lúc điều đó thường xảy ra. Không vì sao cả. Là ý nghĩ phải bảo vệ người chồng quá cố. Cô im lặng một quãng trước khi lấy lại bình tĩnh.
“Thật sự, Saul à... Thật sự cám ơn ông.”
Giọng người thầy già dặn của chồng cô vang lên nhỏ nhẹ: "Cô không cần phải nói điều đó, Karen.”
oOo
Hiện tại, ông chẳng có đủ can đảm để nói với cô. Hay cũng có thể là không đủ ý chí. Lennick gác ống nghe tại hành lang Thế giới cổ của Khách sạn Vier Jahreszeiten ở Munich.
Một tuần trước, đối tác của ông tại Ngân hàng Hoàng gia Scotland đã gọi tới, đó là một trong những nhà cho vay tài chính ông đã sắp xếp cho Charlie, người đã giúp đỡ cho các quỹ của công ty. Nghe có vẻ hình thức, người chủ nhà hăng này hơi tỏ ra lo ngại vì một đợt kiểm tra ngẫu nhiên của nhân viên hải quan trên một tàu chở dầu tại Jarkarta làm họ phải chú ý.
Tim Lennick như ngừng đập. Ông đẩy chiếc ghế quay lưng vào bàn làm việc hỏi: “Tại sao?”
“Đã có sự khác biệt giữa thực tế và số hàng khai báo.” - Người chủ nhà băng giải thích. Theo đó thì trên tàu phải chở 1,4 triệu thùng dầu. Nhưng theo người chủ ngân hàng thì chiếc tầu chở dầu đó hoàn toàn rỗng không.
Lennick tái mặt.
"Tôi chắc là đã có một sự nhầm lẫn nào đó.” - Người chủ ngân hàng Scotland nói. Có vẻ như 1,4 triệu thùng dầu với giá 66 đô/thùng đã được ký trong hợp đồng với Charles Friedman truớc đó dưới dạng ký gửi cho số tiền vay.
Người chủ ngân hàng hắng giọng. - “Có nguyên nhân nào đáng báo động không?”
Lennick cảm thấy một luồng lo lắng ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Ông nói với người chủ ngân hàng rằng ông sẽ xem xét vấn đề này, và như vậy cũng đủ để người ở đầu dây bên kia yên tâm. Nhưng ngay khi đặt ống nghe xuống, Lennick đã phải nhắm nghiền hai mắt.
Ông nghĩ tới những khoản lỗ gần đây của Charlie, nghĩ tới áp lực ông đang phải gánh chịu. Áp lực mà tất cả mọi người trong số họ đã phải gánh chịu. Nghĩ tới việc ông đã phải chịu một gánh nặng tài chính lớn thế vào cho Charlie.
Charlie, cậu thật là một thằng ngu xuẩn khốn kiếp. Lennick thở dài. Ông đưa tay với ống nghe và quay số. Sao cậu có thể liều lĩnh như vậy, đúng là đồ xuẩn ngốc, làm sao có thể bất cẩn đến như vậy chứ? Cậu không biết một chút cóc khô rằng những người này là ai hay sao ?
Những người không muốn người khác xía vào việc của mình, hay người khác kiểm tra việc làm ăn của mình. Giờ thì tất cả mọi thứ đều phải bắt đầu lại từ đầu. Mọi thứ, Charlie ạ.
Và hiện tại, đã nhiều tuần trôi qua, tại hành lang của khách sạn Vier Jahreszeiten, câu hỏi quá tế nhị của người chủ ngân hàng vẫn khiến Lennick cảm thấy miệng mình đắng ngắt.
Có nguyên nhân nào đáng báo động không?
Chương19
Đã sang ngày tập thứ hai của khúc côn cầu trên cỏ vào gần cuối tháng hai. Sam Friedman quẳng chiếc gậy vào đáy tủ đựng đồ.
Cô đang chơi ở vị trí tiền đạo cánh phải cho đội nữ. Năm ngoái đội đã bị mất một vài vị trí tấn công giỏi nhất, vì vậy mùa giải này chắc chắn sẽ rất khó khăn. Sam với lấy chiếc áo có mũ trùm đầu ra khỏi mắc áo, đưa mắt lướt qua một vài cuốn sách. Ngày mai cô sẽ phải làm một bài kiểm tra về một cuốn truyện của tác giả Tobias Wolfe, một chương về Việt Nam. Kể từ khi được nhận vào trường đại học Tufts, quyết định sớm thứ hai vào hồi tháng một, Sam đã trượt dốc tương đối nhiều. Tối nay một nhóm bạn sẽ tụ tập trong phố tại Thataways với đồ ăn sẵn mua về và có thể còn lén uống một chút bia nữa.
Khu sinh viên khóa trên sẽ chơi tới bến đêm nay.
Ra ngoài, Sam bước tới bên chiếc xe thể thao Acura màu xanh cô để ở bãi xe phía tây sau khi xong bữa trưa. Sam bước vào, vứt túi lên ghế xe và nổ máy. Sam đặt chiếc iPod vào giá và bật giai điệu ưa thích.
"Anh nói với em rằng anh sẽ không rời bỏ... ” Sam hát theo, cố gắng bắt chước thật giống Jennifer Hudson trong album Dreamgirls, rồi nhả côn cho chiếc Acura vụt đi.
Ngay lúc đó, một bàn tay bịt chặt lấy miệng cô và giật mạnh đầu cô về phía sau.
Samantha đảo mắt nhìn ra phía sau và cố bật lên một tiếng kêu. Nhưng một giọng nói vang lên từ phía sau: “Không được kêu, Samantha.”
Ôi, Chúa ơi! Samantha càng cảm thấy sợ hãi hơn khi người đó biết cả tên cô. Nỗi sợ hãi bủn rủn chạy dọc sống lưng. Sam đảo mắt cố tìm cách nhìn mặt kẻ phía sau qua gương chiếc hậu.
“Á chà, Samantha.” - Kẻ tấn công vặn đầu Sam trở lại phía trước. - “Đừng có tìm cách nhìn tao. Tốt hơn hết là đừng làm như vậy.”
Làm sao hắn có thể biết được tên cô?
Chuyện này thật tệ. Cô đã đọc qua cả tỷ thứ cô vẫn nghe nói trong trường hợp như thế này xảy ra. Đừng tìm cách chống cự. Hãy cứ để hắn làm điều hắn muốn. Đưa tiền, trang sức cho hắn, thậm chí ngay cả thứ gì quan trọng nữa thì cũng cứ để hắn được vừa ý.
Bất cứ thứ gì.
“Sợ hãi, phải không Samantha?” - Gã đàn ông hạ thấp giọng hỏi. Bàn tay hắn vẫn bịt chặt miệng Samantha, hai mắt cô căng lên muốn rách.
Sam gật đầu.
“Đừng tự trách mình. Tao cũng sợ.”
Samantha liếc mắt nhìn ra ngoài, hy vọng có ai đó đi ngang qua. Nhưng lúc đó đã muộn, bên ngoài trời đã rất tối. Bãi đỗ xe thì trống không. Cô cảm nhận được hơi thở của hắn, nóng hổi phía sau gáy. Samantha nhắm mắt. Ôi, Chúa ơi, hắn sắp hãm hiếp mình rồi. Mà có thể còn tệ hơn...
“Nhưng hôm nay vẫn là ngày may mắn của mày đấy. Tao sẽ không làm gì mày cả. Tao chỉ muốn mày gửi tin đến cho một người. Có được không?”
Được, Samantha gật đầu, được. Bình tĩnh nào, bình tĩnh. Cô tự nhủ. Hắn sẽ tha cho mình.
“Gửi tin đến cho mẹ mày.”
Mẹ mình... Mẹ mình có liên quan gì đến chuyện này chứ?
“Tao muốn mày nói với mẹ mày, Sam ạ, rằng cuộc điều tra sẽ sớm bắt đầu. Và nó sẽ rất riêng tư đấy. Mẹ mày sẽ hiểu. Và rằng chúng tao không phải là loại người mãi kiên nhẫn được đâu. Tao nghĩ là mày nhớ chứ, phải không? Hiểu không, Samantha?”
Sam nhắm mắt. Toàn thân run lên. Cô gật đầu.
“Tốt. Nhớ nói với mẹ mày là đồng hồ thời gian đã bắt đầu chạy. Và mẹ mày chắc không muốn để cho nó chạy qua thời hạn của mình. Có nghe không, Sam?” - Gã nới lỏng tay bịt miệng.
“Có. ” - Sam run rẩy thì thào.
“Giờ thì đừng có quay lại. Tao sẽ ra khỏi xe từ phía sau.” - Kẻ tấn công mặc chiếc áo có mũ trùm đầu che kín mặt. - “Tin tao đi, càng nhìn thấy ít càng tốt cho mày đấy.”
Samantha ngồi chết cứng. Đầu gật lên gật xuống. “Tôi hiểu.”
"Tốt." - Kẻ tấn công mở cửa xe và nhảy ra. Cô không nhìn lên, cũng không quay lại nhìn. Cô chỉ ngồi đó chăm chăm nhìn về phía trước, đúng như mệnh lệnh.
"Mày là con gái nhỏ bé của Charlie phải vậy không, Sam?”
Samantha tròn mẳt.
“Nhớ lấy con số. Hai trăm năm mươi triệu đô-la. Nói với mẹ mày là chúng tao không đợi lâu đâu."
Chương 20
Karen ôm chặt lấy con gái trên chiếc đi-văng phòng khách. Samantha đang sụt sịt khóc, đầu gục trên vai mẹ, không nói lên lời. Cô đã gọi Karen ngay sau khi gã đàn ông rời khỏi xe, và lái xe về nhà trong cơn hoảng loạn. Karen ngay lập tức gọi cảnh sát. Phía bên ngoài, con đường vắng lặng sáng rực ánh đèn xe cảnh sát.
Karen kể lại sự việc với những viên sỹ quan cảnh sát tới đầu tiên: “Tại sao trường học lại không được bảo vệ? Tại sao một kẻ như vậy có thể lọt được vào trường học như vậy chứ?” Rồi quay sang Samantha, Karen hỏi: “Mà tại sao con lại không khóa xe?”
“Con không biết mà mẹ. ”
Nhưng trong lòng, Karen hiểu - những ngón tay Samantha đan chặt với nhau, run rẩy, khuôn mặt nhòe nước mắt - rằng đó chẳng phải vì Samantha, không phải vì việc bảo vệ trường học, cũng chẳng phải bởi việc Samantha không khóa cửa xe.
Đó là vì Charlie.
Vì một việc gì đó anh đã làm. Một việc gì đó mà cô đang ngày càng cảm thấy sợ hãi anh đã dấu không cho cô biết.
Chúng có thể tìm được Samantha ở khu buôn bán, ở nhà ai đó, hay ở câu lạc bộ nơi con bé làm việc. Nhưng cô biết lý do không phải bởi chúng quan tâm tới Samantha.
Chúng đang gây áp lực lên cô.
Đáng sợ nhất là cô không hề biết những kẻ này muốn điều gì ở cô.
Khi thấy trung úy Hauck bước qua cửa chính, Karen gần như muốn quỵ xuống. Cô bật dậy lao về phía Hauck, và cố gắng lắm mới không ôm choàng lấy anh.
Anh đặt một tay lên vai Karen, hỏi. - “Con bé có ổn không?”
“ Ổn.” - Karen gật đầu như trút được gánh nặng. - “Tôi nghĩ là con bé ổn.”
“Tôi biết là Samantha đã phải trải qua nỗi sợ hãi vài lần rồi, nhưng tôi cũng cần phải nói chuyện với con bé.”
“Được.” - Và Karen đưa Hauck tới chỗ Samantha.
Hauck ngồi xuống bên bàn trà đối diện Samantha. - “Sam này, chú là Hauck, là chỉ huy trưởng thanh tra lực luợng cảnh sát của Greenwich. Chú biết mẹ cháu đôi chút sau cái chết của cha cháu. Chú muốn cháu kể lại chính xác mọi chi tiết sự việc xảy ra.”
Karen gật đầu với Sam và ngồi xuống bên cạnh, cầm tay con bé. Samantha gắng gượng không khóc và kể lại toàn bộ sự việc. Từ lúc cô rời khỏi phòng thể dục dụng cụ sau giờ tập, bước ra xe, đặt iPod vào khay ra sao, đến việc gã đàn ông ngồi ở băng ghế sau, khiến cô hoàn toàn bất ngờ như thế nào. Rồi hắn bịt chặt miệng không cho cô kêu, giọng nói của gã thật lạnh lùng và ngay sát bên tai khiến từng từ thốt ra từ miệng gã như từng mũi kim nhói lên dọc sống lưng cô.
“Chuyện này thật là điên rồ, mẹ à.”
Karen ôm lấy Samantha. - “Mẹ biết, con à, mẹ biết.."
Sam bảo Hauck rằng cô không nhìn rõ người đàn ông đó. - “Hẳn ra lệnh cho cháu không được nhìn.” - Lúc đó Sam chắc rằng mình sẽ bị hãm hiếp hoặc có thể bị giết nữa.
"Cháu đã làm đúng, Sam à.” - Hauck nói.
‘‘Hắn nói rằng việc điều tra sẽ nhanh chóng được thực hiện. Và rằng nó sẽ rất riêng tư. Hắn có nói điều gì đó về một con số hai trăm năm mươi triệu đô la.” - Samantha ngẩng lên nhìn Karen hỏi. - "Hắn định ám chỉ điều quái quỷ gì thế mẹ?"
Karen lắc đầu ngập ngừng. - “Mẹ cũng không biết.”
Khi cả hai đã nói xong việc, Karen rời khỏi con gái. Cô đề nghị Hauck ra ngoài cùng cô. Mái hiên che sân vẫn chưa được kéo lên. Trời vẫn còn rất lạnh. Trong bóng tối, ánh đèn xe cảnh sát vẫn lấp lóe trong tiếng còi.
“Cô có hiểu những gì Sam nói không?” - Hauck hỏi.
Karen hít một hơi thật sâu rồi gật đầu. - “Có.”
Mà cũng không...
Cô kể qua cho Hauck về chuyến viếng thăm của hai người đàn ông tới từ công ty Archer & Bey, những người này đã gây áp lực cho cô về khoản tiền thất thoát. - “Hai trăm năm mươi triệu đô la.” - Karen thừa nhận.
Giờ thì đến lượt chuyện này xảy ra.
“Tôi không biết có chuyện quái quỷ gì đang xảy ra nữa." - Karen lắc lắc đầu, mắt lấp lánh ánh đèn. - “Người ủy nhiệm của Charlie và cũng là một nguời bạn của anh ấy đảm bảo rằng mọi việc trong quan hệ hợp doanh là đúng một trăm phần trăm theo sổ sách. Và tôi cũng tin là như vậy. Những kẻ này...” - Karen nhìn Hauck bối rối. - “Charlie là người tốt. Anh ấy không bao giờ động đến những đồng tiền như thế này. Hình như chúng đã chọn nhầm mục tiêu, Trung úy à. Chồng tôi có rất nhiều khách hàng. Tập đoàn Morgan Stanley và một số gia đình khá giả mà anh ấy đã có quan hệ trong nhiều năm.”
“Cô biết đấy, tôi sẽ phải điều tra vụ này.” - Hauck nói.
Karen gật đầu.
“Nhưng tôi cũng cần phải nói rằng Sam không mô tả được ngoại hình của gã đàn ông đó sẽ khiến công việc điều tra rất khó khăn. Ở cổng ra vào của trường học có gắn ca-mê-ra. Có lẽ có ai đó quanh đấy sẽ phát hiện ra chiếc xe. Nhưng vào thời điểm đó trời tối và rất vắng vẻ. Thêm nữa, dẫu gã đó có là ai thì rõ ràng là gã đã làm việc đó một cách rất chuyên nghiệp.”
Karen gật đầu. - “Tôi biết.”
Cô ngả người về phía Hauck, đột nhiên có quá nhiều điều nghi vấn khiến cô như rơi vào cơn mê sảng, hai đầu gối muốn đổ sụp xuống. Viên trung úy đặt một tay lên vai Karen. Cô cứ để nguyên như vậy. không tránh né.
Cô đã trải qua cái chết của Charlie, những tháng ngày đằng đẵng vô định và cô đơn, việc kinh doanh của anh đổ vỡ. Nhưng thế này thì thật là quá sức. Nước mắt ầng ậc dâng lên trong mắt cô - nóng bỏng. Nước mắt của nỗi sợ hãi và hoảng loạn ngày càng tăng lên. Sợ rằng lũ trẻ bỗng đột nhiên liên quan tới vấn đề, sợ điều cô không được biết, nước mắt nhỏ xuống nhiều hơn. Cô ghét cảm giác này. Cảm giác nghi ngờ về chồng cô bất ngờ dấy lên. Cô ghét những con người đã xâm phạm vào cuộc sống của gia đình cô.
“Tôi sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho cô.” - Hauck nói, tay siết chặt vai Karen. - “Tôi sẽ cho người gác bên ngoài nhà cô. Chúng tôi cũng sẽ theo dõi xem có ai bám theo lũ trẻ khi chúng đến trường hay không trong một thời gian.”
Cô nhìn Hauck, hít một hơi thật sâu: - “Tôi có cảm giác rằng chồng tôi đã làm điều gì đó, trung úy ạ. Trong công việc kinh doanh, Charlie luôn mạo hiểm, và bây giờ thì một trong số đó đang quay lại đây ám ảnh chúng tôi. Nhưng anh ấy đã không còn nữa. Charlie không còn có thể gỡ rối được vấn đề cho chúng tôi nữa."
Karen đưa tay lau mắt: - “Anh ấy không còn nữa, nhưng chúng tôi thì vẫn ở lại đây.”
“Tôi cần có danh sách các khách hàng của Charlie.” - Hauck nói, tay vẫn đặt trên vai Karen.
“Đuợc mà.”
“Và tôi cũng cần phải nói chuyện với Lennick, người ủy nhiệm của Charlie.”
“Tôi hiểu.” - Karen lùi lại, hít một hơi dài, cố trấn tĩnh. Lớp mascara (1) đã chảy hết, cô đưa tay chấm nhẹ lên mắt.
“Tôi sẽ tìm ra điều gì đó. Tôi hứa. Tôi sẽ cố hết sức để đảm bảo cô được an toàn.”
“Cảm ơn anh, trung úy.” - Karen tựa vào Hauck. - “Về tất cả.” Tĩnh điện từ chiếc áo len của Karen gợn lên trong tay Hauck khi anh rút tay về.
“Nghe này.” - Anh nói. - “Tôi không phải là một tay buôn phố Wall (2), nhưng tôi không cho rằng đó là cách Morgan Stanley đi đòi nợ.”
Chú Thích:
1 Mascara: mỹ phẩm chải lông mi mắt
2 Phố Wall: thị trường chứng khoán Mỹ
Chương 21
Cuộc điện thoại gọi đến vào lúc mười một giờ ba mươi đêm hôm đó. Chiếc xe hơi sang trọng thả Saul Lennick trước cửa căn hộ của ông tại đại lộ Park. Hai vợ chồng vừa đi xem ôpêra về. Trong nhà tắm, vợ ông, Mimi, đang tẩy lớp trang điểm.
“Anh nghe điện đi, Saul.”
Lennick vừa mới kịp cởi giầy và tháo càvạt. Ông biết điện thoại vào giờ muộn như thế này thường là về nội dung gì. Ông nhấc ống nghe thất vọng. Không đợi đến sáng được hay sao?
“Alô”
“Saul phải không? ”
Là Karen Friedman. Giọng cô có điều gì đó đổ vỡ và rất buồn. Ông biết có điều gì đó không ổn. - “Có chuyện gì vậy, Karen?”
Giọng bực tức, Karen kể lại chuyện vừa xảy ra với Samantha khi rời trường học.
Lennick đứng bật dậy. Samantha đối với ông chẳng khác nào cháu gái. Ông đã có mặt ở lễ tròn mười ba tuổi của con bé. Ông cũng đã lập tài khoản riêng cho con bé cùng với Alex tại công ty của mình. Mọi khớp xương trong cái cơ thể già nua của ông như cứng lại.
"Chúa ơi, con bé có sao không, Karen? ”
“Con bé ổn rồi...” - Karen sụt sịt, thất vọng. - “Nhưng...” Cô kể lại điều gã đàn ông đó đã bắt con bé phải báo lại cho cô, về việc đòi khoản tiền của chúng, vẫn là con số hai trăm năm mươi triệu đô la như lần trước, cả câu nói con bé là con gái bé bỏng của Charlie nữa.
"Saul, bọn chúng đang muốn nói đến cái quái quỷ gì thế? Có phải đây là một kiểu đe dọa hay không?”
Vẫn mặc bộ đồ lót và chưa kịp cởi tất, Lennick ngồi phịch xuống giường. Tâm trí ông quay lại với Charles và cơn tuyết lở anh đã làm.
Đúng là đồ ngu xuẩn chết tiệt, ông lắc đầu thở dài.
“Có chuyện gì đó đang xảy ra phải không Saul. Ông đã định nói với tôi điều gì đó vài tuần trước đây. Ông nói lúc đó chưa phải thời điểm để nói... Giờ thì tôi đang đưa con bé vào giường ngủ.” — Giọng Karen đanh lại. — "Con bé đang sợ đến từng lỗ chân lông. Ông nghĩ sao, Saul - bây giờ đã đúng là thời điểm để nói hay chưa?”
Chương22
Hóa ra Archer & Bey là một công ty ma.
Nó chỉ có cái tên trên tấm danh thiếp. Một cuộc điện thoại tới một người quen cũ làm việc tại Interpol và việc rà soát trên mạng toàn bộ các công ty đăng ký tại Nam Phi đã xác định điều đó. Thậm chí ngay cả địa chỉ và số điện thoại tại Johannesburg cũng là giả mạo.
Có kẻ nào đó đang tìm cách tống tiền Karen, Hauck hiểu điều đó. Phải là một kẻ nào đó rất quen với những giao dịch buôn bán của chồng cô. Thậm chí cả người ủy nhiệm của Charlie, Lennick, người có vẻ như rất đứng đắn mà Hauck đã trao đổi trước đó cũng đồng ý với điều này.
“Điện thoại của Người ấy, trung úy! ”
Có tiếng gọi từ phòng họp của đội, tiếp sau là ai đó giả tiếng rít của đạn cối bay trong không khí và phát nổ. “Người ấy” là từ mà mọi người dùng để chỉ mỗi khi vợ cũ của Hauck gọi điện.
Hauck nắm ống nghe, ngừng một giây trước khi nhấc lên. - “Beth à, em khỏe không?”
“Vẫn khỏe. Còn anh?”
“Rick ổn chứ?”
“Anh ấy vẫn khỏe. Địa bàn kinh doanh của anh ấy vừa mới được mở rộng thêm. Bây giờ anh ấy có thêm cả hai bang Pennsylvania và Maryland nữa.” - Chồng mới của Beth là người quản lý khu vực kinh doanh của một công ty cho vay thế chấp.
“Thật tốt. Chúc mừng. Jess cũng đã nói đến chuyện này rồi.”
“Đó là lý do em gọi điện. Bọn em nghĩ rằng đã đến lúc hai vợ chồng em phải thực hiện chuyến du lịch đã bị hoãn lại quá lâu rồi. Anh biết là con bé đã được hứa cho đi Orlando chứ? Đến công viên giải trí ấy.”
Hauck ngồi thẳng dậy: - “Em biết là anh vẫn muốn đi cùng con bé mà, Beth.”
“Đúng vậy, em hiểu anh luôn nói câu đó, Ty. Nhưng... chuyến đi này là thật.”
Câu chỉ trích như găm thẳng vào bên sườn Hauck, nhưng có thể Beth nói đúng. - “Vậy thì khi nào hai nguời dự định bắt đầu chuyến đi?”
Beth trả lời sau một lúc ngập ngừng: - “Bọn em đang cân nhắc dịp Lễ Tạ ơn, Ty à.”
“Lễ Tạ ơn? ” - Lần này câu nói thậm chí còn khía sâu hơn vào Hauck. - “Anh nghĩ là chúng ta đã thỏa thuận rằng năm nay Lễ Tạ ơn con bé sẽ ở với anh, Beth. Anh sẽ đưa con bé tới chơi nhà chị gái anh ở Boston. Để con bé có cơ hội đuợc gặp anh em họ của nó. Đã lâu rồi con bé chưa về đó.”
“Em chắc là con bé sẽ rất thích như vậy, nhưng hiện đang có cơ hội cho chuyến đi này, và đây là chuyến đi tới Thế giới Disney.”
Hauck khịt mũi khó chịu. - “Gì cơ? Có phải Rick đi hội nghị bán hàng ở đó hay đại loại một cái gì tương tự thế vào dịp này không?”
Beth không trả lời. - “Đó là chuyến đi tới Thế giới Disney. Con bé có thể ở với anh vào dịp Lễ Giáng sinh mà.”
"Không. ’’ - Hauck ném chiếc bút xuống mặt bàn. - “Con bé không thể ở với anh vào dịp Giáng sinh được. Chúng ta đã bàn và lập kế hoạch với nhau rồi. Anh sẽ phải đi xa trong dịp Giáng sinh.” - Hauck đã lập kế hoạch đi câu cá cảnh ở Bahamas với một nhóm bạn học thời phổ thông. Đây sẽ là lần đầu tiên anh đi xa trong một thời gian dài như vậy. - “Chúng ta đã thống nhất rồi mà Beth!"
"‘Đúng vậy." - Beth thở dài như thể điều đó không hiểu sao lại vuột khỏi trí nhớ của cô. - “Anh nói đúng. Giờ thì em nhớ ra rồi.”
“Tại sao không hỏi ý kiến Jess?”
“Hỏi ý kiến Jess ư, Ty?”
“Hỏi xem con bé muốn đi đâu.”
“Em không phải hỏi ý kiến Jess. Em là mẹ nó.”
Anh muốn đáp trả một câu: Mẹ kiếp, tôi cũng là bố nó! nhưng anh hiểu câu nói đó sẽ dẫn đến đâu.
“Ty, bọn em thực ra đã đặt vé trước rồi. Em xin lỗi. Em thực sự không phải gọi điện chỉ để cãi vã.”
Hauck thở dài, ngán ngẩm. - “Em biết là con bé thích đến đó đẻ chơi với anh chị em họ của mình. Lũ trẻ cũng đang mong được gặp con bé. Điều đó tốt cho con bé ở thời điểm hiện tại - tốt cho con bé nếu nó được tới đó một vài lần trong năm.”
“Em biết, Ty. Anh nói đúng. Lần sau, em hứa, con bé sẽ được đến đó.” - Lại một khoảng lặng kéo dài. - “Nghe này, em rất vui nếu anh hiểu.”
Cả hai cúp máy. Anh xoay chiếc ghế lại phía sau, đưa mắt ngắm nhìn tấm hình chụp Jessie và Norah anh vẫn để trong phòng làm việc của mình. Hai đứa, một lên năm, một lên ba. Ảnh chụp một năm trước khi xảy ra vụ tai nạn. Tất cả đều đang mỉm cười.
Thật khó có thể nhớ được rằng họ đã từng yêu nhau.
Bỗng có tiếng gõ cửa khiến Hauck giật mình. - "Này, cười lên nào! ”
Đó là Steve Christofel, phụ trách tội phạm cờ bạc và lừa đảo.
“Chuyện gì vậy, Steve?”
Viên thanh tra nhún vai vẻ biết lỗi, trên tay là một tập giấy ghi chép. - “Có lẽ tôi sẽ quay lại sau, sếp ạ. Có thể lúc này không phải là thời điểm thích hợp.”
“Không, ổn mà. Vào đây.” - Hauck quay ghế lại bàn làm việc, cảm thấy muốn xỉ vả chính mình. - “Xin lỗi cậu. Cậu biết đấy, thói quen mà.”
“Luôn là có chuyện gì đó, phải không sếp? Nhưng mà này, trung úy, anh có phiền không nếu tôi xem qua hồ sơ vụ án mà anh lúc nào cũng giữ ở đây ấy?”
“Hồ sơ?”
“Anh biết mà, tập hồ sơ anh dấu trong bàn làm việc ở đằng kia.” - Viên thanh tra cười. - “Hồ sơ về cái vụ gây tai nạn và bỏ chạy từ lâu rồi ấy. Nạn nhân Raymond. ”
“À, cái đó.” - Hauck nhún vai như thể bị đứng trước nguy cơ bị ai bóc mẽ. Anh vẫn luôn để tập hồ sơ dưới cả đống hồ sơ để mở khác. Nhưng chưa từng bao giờ quên nó, dù chỉ là một giây. Chỉ là chưa giải quyết thôi. Anh nhấc đống giấy tờ, lấy ra tập hồ sơ màu vàng từ dưới đáy. - “Có chuyện gì vậy?”
“Tôi nhớ hơi lờ mờ một chút, trung úy à. Nhưng hình như có một cái tên liên quan đến vụ này ở đâu đó đúng không nhi? Marty hay gì đó?”
Hauck gật đầu. Chính là người đã gọi AJ Raymond ở cửa hàng ngay trước khi cậu ta bước qua bên kia đường. Có vẻ như là Marty, người chủ cửa hàng đã nói vậy. Nhưng chi tiết này chưa bao giờ dẫn đến điều gì cả.
“Nhưng tại sao?”
“Tin vừa gửi đến.” - Christotel bước quanh phòng và đặt mẩu giấy lên bàn Hauck. - “Một đơn vị phụ trách tội phạm lừa đảo thẻ tín dụng hiện đang truy tìm cái tên này. Một chiếc thẻ tín dụng Amex thuộc về một người nào đó có cái tên là Thomas Mardy - M-A-R-D-Y anh rõ không - đã được dùng để thanh toán cho hợp đồng thuê một chiếc xe sang trọng tới Greenwich. Chiếc xe này thả ông ta xuống quầy bán đồ ăn Fairfield ngay trước buổi trưa. Trưa ngày mùng chín tháng tư."
Hauck ngẩng nhìn lên, máu chảy rần rật trong huyết quản. Mùng chín tháng tư. Đó chính là sáng ngày xảy ra vụ đâm xe. Mardy, không phải Marty - thật phù hợp. Một kẻ có tên Thomas Mardy đã dừng lại bên đường nơi AJ Raymond bị sát hại.
Mọi tế bào trong người anh như đột ngột bừng tỉnh.
“Chỉ có điều.” - Viên thanh tra gãi đầu. - “Trung úy nghe này... Người có tên Thomas Mardy là chủ nhân chiếc thẻ Amex thực ra đã chết trong vụ đánh bom nhà ga trung tâm Grand Central vào ngày mùng chín tháng tư. Chết khi đang đi tàu điện ngầm...”
Hauck ngẩng lên nhìn chẳm chằm vào viên thanh tra.
“Và thời điểm đó là ba giờ đồng hồ,” - viên thanh tra tiếp tục. - “trước khi xảy ra vụ đâm xe tại Greenwich.”
Chương 23
Hauck không tài nào ngủ được. Lúc đó đã quá mười hai giờ đêm một chút. Anh ra khỏi giường. Chương trình trao thưởng cho những học sinh có thành tích thể thao đang được phát trên truyền hình nhưng anh không xem. Hauck bước tới bên cửa sổ nhìn ra eo biển. Một cơn gió lạnh cất qua không gian. Tâm trí anh đang như một dòng nước lũ.
Tại sao lại như vậy được kia chứ?
Làm sao mà một người đã chết trên tàu điện ngầm, mà nhiều giờ sau thẻ tín dụng của người đó lại có thể được sử dụng để trả cho hợp đồng thuê xe tới quầy bán đồ ăn Fairfield cơ chứ? Lại ở ngay đúng địa điểm xảy ra vụ án mạng.
Có ai đó đã gọi cho Raymond ngay trước khi cậu đi qua bên kia đường. Hình như ai đó tên là Marty...
Là Mardy.
Tại sao Charles và AJ Raymond lại có liên hệ với nhau. Liên hệ như thế nào?
Anh đang thiếu một đầu mối nào đó.
Anh mặc áo rét và chiếc quần jeans, xỏ đôi giày đinh cũ kỹ. Bên ngoài, không khí lạnh sắc. Hauck chui vào chiếc Bronco của mình. Cả khu nhà tối đen.
Hauck nhấn ga.
Hôm nay là ngày thứ tư Hauck cho người đảm bảo an ninh cho Karen. Anh đã cho một chiếc xe gác trước cửa nhà và một chiếc khác đi theo lũ trẻ tới trường, vẫn chẳng có gì xảy ra cả. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Có lẽ kẻ gây rối cho Karen đã tạm nghỉ chăng? Sức nóng đã được tăng lên tương đối cao.
Hauck rời đường cao tốc tại đường nhánh số 5. Anh biết rõ Old Greenwich như thể anh có một bộ định vị toàn cầu sinh học vậy. Hauck chạy thẳng về hướng Sound Beach để đi vào phố. Khu phố chính vắng tanh và tối đen. Anh rẽ phải về phía Shore hướng biển, rồi rẽ phải thêm một lần nữa về phía Sea Wall.
Hauck dừng lại cách nhà Karen chừng hai mươi yard. Hôm nay là phiên trực của viên sỹ quan mới ra trường, Stasio. Hauck nhìn thấy chiếc xe tuần tra tắt đèn đỗ đối điện ngôi nhà. Anh đi tới gõ vào cửa xe. Viên sỹ quan trẻ quay cửa kính xuống, ngạc nhiên. - “Trung úy?”
"Trông cậu hơi mệt mỏi. Cậu lập gia đình rồi đúng không?”
"Vâng thưa sếp.” - Stasio đáp. - “Cách đây hai năm.”
“Cậu về đi. Ngủ một chút đi. Tôi sẽ ở lại gác.” - Hauck nói.
“Sếp. Tôi ổn mà.” - Viên sỹ quan trẻ phản đối.
“Không sao. Cứ về đi.” - Hauck nháy mắt. - “Tôi đánh giá cao cậu đã làm nhiệm vụ ở đây.”
Viên sỹ quan trẻ phản đối lần cuối, nhưng rồi cuối cùng cũng phải đồng ý.
Còn lại một mình, Hauck nhét chặt hai nắm tay trong chiếc áo rét vì lạnh. Bên kia đường, căn nhà tối đen, không hề có ánh điện mờ tối từ tầng trên chiếu qua rèm cửa. Hauck nhìn đồng hồ. Anh có cuộc gặp với chỉ huy trưởng Fitzpatrick vào chín giờ sáng. Ca trực sẽ tới sáu giờ sáng. Anh hít sâu một hơi khí lạnh và ẩm ướt từ eo biển.
Thật điên rồ, Ty à.
Anh quay lại chiếc Bronco của mình, mở cửa. Ngay khi anh định bước vào trong xe thì nhận thấy tấm rèm tầng trên mở toang. Bóng người nhìn ra. Trong thoáng chốc, và trong bóng tối, ánh mắt họ gặp nhau.
Hauck thấy mình làm một cử chỉ gì đó như nở nhẹ một nụ cười.
Ty đây mà. Anh ngẩng lên nói to. Anh đã muốn nói to lên như vậy mỗi khi cô gọi anh: “Trung úy à.”
Ty đây mà.
Và về người chồng đã quá cố của em thì điều em đang phải trải qua, đang phải cảm nhận... cũng chính là những gì anh hiểu.
Anh hiểu rất rõ.
Hauck vẫy tay, nháy mắt ra dấu mà anh cũng chẳng dám chắc cô có nhận ra không. Sau đó, Hauck chui vào chiếc Bronco, đóng cửa. Khi anh ngẩng đầu nhìn lên, tấm rèm đã khép lại.
Nhưng có sao đâu.
Anh hiểu rằng cô cảm thấy an toàn vì biết rằng anh đang ở đó. Có lẽ anh cũng cảm thấy như vậy.
Hauck ngả người lên ghế lái, bật đài.
Là Ty đây. Hauck tặc lưỡi. Đó là tất cả những gì mình muốn nói.
Chương 24
Tháng tư.
Đã một năm trôi qua.
Một năm vắng bóng Charlie. Một năm tự mình nuôi dạy lũ trẻ. Một năm chăn đơn gối chiếc. Đó là ngày kỷ niệm tròn một năm mà cô sợ hãi nhất.
Thời gian là liều thuốc tiên, phải vậy không nhỉ? Đó là điều mọi người vẫn thường nói. Nhưng ban đầu, Karen còn không cho phép mình tin vào điều đó. Mọi thứ đều nhắc cô nhớ đến Charlie; tất cả những gì cô đụng tới quanh nhà; hay mỗi khi cô đi chơi với bạn bè; mỗi lúc xem ti-vi; những bài hát; nỗi đau vẫn còn nhói buốt.
Nhưng dần dần, ngày qua ngày, từng tháng trôi qua, nỗi đau dường như cứ giảm dần đi mỗi ban mai. Ai cũng sẽ phải quen với nó, gần như là trái ngược với lý trí.
Cuộc sống vẫn cứ trôi qua.
Sam đã đi Acapulco với bạn học khóa trên để đổi gió và đang rất vui vẻ ở đó. Alex đã ghi điểm đạt mục tiêu thắng giải trong môn bóng vợt, thằng bé hiện đang rất nổi. Thật tuyệt khi lại được thấy sức sống trở lại trên khuôn mặt lũ trẻ. Karen phải làm một điều gì đó. Cô quyết định đăng ký bất động sản. Cô cũng đã hẹn hò một vài lần gì đó, với một vài người đã ly dị vợ, những nhà tài phiệt giàu có ở Greenwich. Họ không phải là tuýp người cô thích. Một trong số đó đã muốn đưa cô bay đến Paris vào một kỳ cuối tuần, bay bằng máy bay riêng của ông ta. Sau khi lũ trẻ gặp mặt- cả hai đều lắc đầu chê “già quá” và ra dấu không ổn.
Vả lại lúc đó vẫn còn quá sớm, -vẫn khiến người ta cảm thấy rùng mình- và hình như không được đúng cho lắm.
Điều tốt nhất là toàn bộ sự việc liên quan tới công ty Ma Archer đã dần không còn được nhắc tới nữa. Có lẽ thời điểm đó là quá nóng vội, và kẻ nào đó tìm cách tống tiền đã không còn đủ can đảm và cuối cùng là từ bỏ ý định. Dần dà mọi việc cũng trở nên ổn thỏa, trạm gác đảm bảo an ninh cho gia đình Karen đã được xóa bỏ, nỗi sợ hãi cũng tan dần, như thể là tất thảy màn kịch kinh hoàng đó đã không còn nữa.
Hay ít nhất đó cũng là điều mà Karen luôn cầu nguyện vào mỗi đêm trước khi tắt dèn đi ngủ.
Ngày mùng tám tháng tư, một đêm trước ngày tròn một năm của vụ đánh bom, ti-vi có đưa một đoạn phim tài liệu. Đoạn phim được ghi lại bởi nhóm quay phim đi cùng đội cứu hỏa và những đoạn phim ghi lại từ ca-mê-ra cầm tay của những người qua đường ngẫu nhiên ở nhà ga Trung tâm hoặc trên đường phố vào thời điểm xảy ra vụ đánh bom.
Ngay cả đến bây giờ, Karen vẫn chưa hề xem bất cứ tư liệu nào liên quan tới ngày hôm đó.
Cô không thể. Đó không phải một sự kiện nào khác đối với cô -mà đó chính là cái ngày chồng cô không bao giờ trở về nữa.- Nhưng nó được xen kẽ không ngừng trên các chương trình Thời sự, chương trình về Luật và các Quy định, và thậm chí là cả ở các chương trình bóng đá, bóng rổ...
Vì thế, tất cả gia đình lại ngồi nhớ lại câu chuyện. Lập kế hoạch chỉ riêng gia đình sẽ cùng nhau tổ chức tưởng niệm một năm ngày Charlie ra đi vào tối ngày hôm sau. Tối ngày hôm trước chỉ khiến mọi người rối trí mà thôi. Sam và Alex không muốn xem tin tức liên quan tới sự kiện, vì vậy cả hai đứa đã đi chơi với lũ bạn. Paula và Rick cũng mời Karen đi chơi, nhưng cô từ chối.
Cô không biết và cũng không chắc lý do tại sao từ chối.
Có lẽ bởi cô muốn chứng tỏ mình mạnh mẽ. Không phải là trốn tránh. Charlie đã phải trải qua điều đáng sợ đó, thực sự đã trải qua.
Vì thế cô cũng có thể làm được như vậỵ.
Nhưng có lẽ cũng chỉ một phần của điều này là sự thúc giục rất nhỏ nhoi thôi. Cô đôi lúc sẽ phải đối mặt với nó, và có thể là ngay lúc này.
Dẫu lý do có là gì thì Karen cũng tự làm món sa-lát vào buổi tối, đọc qua một vài cuốn tạp chí đã chất đống cả lên, sắp xếp lại một chút những danh mục bất động sản có sức cạnh tranh trên máy tính, uống một ly rượu vang. Tất cả khoảng thời gian Karen làm những công việc đó luôn như có một con mắt nội tâm đang khắc khoải gắn chặt vào chiếc đồng hồ.
Được mà Karen. Đừng có tìm cách trốn chạy.
Chín giờ tối, Karen tắt máy tính, chuyển ti-vi sang kênh NBC.
Khi chương trình bắt đầu, Karen cảm thấy hơi bất an. Cô tự trấn an bản thân: Charlie đã phải trải qua nỗi kinh hoàng này, cô tự nhủ. Vì vậy mình cũng có thể chịu đựng được.
Phát thanh viên tuyên bố chương trình về sự kiện đánh bom bắt đầu bằng việc quay trở lại với chuyến tầu lúc 7 giờ 51 phút tới nhà ga trung tâm Grand Central. Đó là một bộ phim dựng lại dựa trên những sự kiện có thật từ chuyến tàu khởi hành từ nhà ga Stamford.
Hành khách đang đọc báo, giải ô chữ và bàn chuyện với nhau về trận đấu của đội Knicks tối hôm trước.
Tim Karen bắt đầu đập mạnh. Cô gần như còn hình dung thấy Charlie ngồi trên toa đầu, vùi đầu vào tờ tạp chí. Sau đó, ca-mê-ra chuyển qua cảnh hai vị khách Trung đông với ba lô đeo sau lưng, một trong số hai kẻ đó kéo xe đẩy chở một chiếc va-li hành lý. Karen kéo Tobey vào lòng và ôm chặt lấy con vật. Cô cảm giác như cơ thể mình bỗng trở nên trống rỗng, có lẽ đây không phải là ý tưởng hay ho gì.
Tiếp sau đó, màn hình bỗng hiện lên dòng chữ 8:41. Đó là thời điểm xảy ra vụ nổ. Karen quay mặt đi. Ôi, Chúa ơi...
Đó là lúc camêra giám sát an ninh tại nhà ga trung tâm Grand Central ghi lại được tình huống. Cả nhà ga rung chuyển, một tia sáng lóe lên, sáng lòa. Đèn điện trên tàu tắt ngấm. Lúc này những hình ảnh ghi lại được là từ những chiếc điện thoại có gắn camêra. Nhà ga lại rung lên. Bóng tối bao trùm. Tiếng người la hét vang lên.
Các lớp bêtông sụp xuống dưới chấn động của hàng trăm pao thuốc nổ và chất xúc tác gia tăng lượng nổ - ngọn lửa bùng lên, tới gần hai nghìn độ, khói cuộn từ phòng chờ chính của nhà ga lên đường phố, tiếp đó là những cảnh được ghi lại từ trên không. Đó cũng chính là những cảnh Karen chứng kiến vào buổi sáng đáng sợ cách đây một năm ấy. Tất cả đổ sập xuống. Dòng người hoảng loạn túa ra từ nhà ga, ho sặc sụa. Từng chùm khói đen độc hại cuộn lên cao.
Không, đây là một sai lầm. Karen siết chặt hai nắm tay, lắc đầu. Cô ôm chặt lấy Tobey, nước mắt giàn giụa. Thật sai lầm. Cô không thể xem những thước phim này được. Tâm trí cô chợt hướng tới Charlie đang mắc kẹt dưới đó. Tới những gì anh phải trải qua. Karen ngồi lặng yên như hóa đá, dội ngược lại phía sau bởi chính nỗi hoảng loạn của ngày hôm đó. Với cô, điều đó gần như không thể chịu đựng được. Nhiều người đang chết dần dưới nhà ga, và chồng cô cũng ở dưới đó...
Không. Em xin lỗi, anh yêu, em không thể xem được nữa.
Cô với chiếc điều khiển, chuẩn bị nhấn nút tắt ti-vi.
Cũng ngay lúc đó, trên ti-vi chuyển qua hình ảnh trên hè phố. Đó là cảnh ghi lại được ở một trong những cổng ra vào xa nhất ở đường Bốn mươi tám và Madison. Hình ảnh cũng được ghi lại bởi camêra cầm tay của người qua đường. Những hình ảnh lướt qua: hành khách lảo đảo buớc lên đường phố, bàng hoàng và choáng váng, nôn ọe, mặt mũi đen sạm vì khói bụi, nhiều người ngã vật ra trên hè phố. Có người bật khóc, có người mắt rơm rớm, hạnh phúc vì mình còn đuợc sống.
Thật kinh khủng. Cô không thể tiếp tục xem thêm được nữa.
Ngay khi cô chuẩn bị tắt ti-vi thì một cảnh tượng đập vào mắt cô. Và Karen chớp mắt, không tin vào mắt mình.
Cảnh tượng đó chỉ diễn ra trong giây lát - một thoáng rất nhanh. Karen có cảm giác như đôi mắt cô đang chơi một trò chơi tàn độc. Không thể như vậy được...
Cô nhấn nút tua lại trên điều khiển, đợi vài giây trước khi cho chiếu lại, chầm chậm, chầm chậm tiến lại gần hơn với màn hình ti-vi. Dòng người đang chen lấn nhau đổ ra khỏi nhà ga...
Mỗi tế bào trong cô như đông cứng lại. Quá hoảng loạn, Karen tua lại một lần nữa, tim cô như muốn đứng lại. Khi quay lại đúng cảnh tượng đó lần thứ ba, Karen hít một hơi thật sâu, và ngừng lại.
Ôi, Chúa ơi...
Hai mắt Karen căng ra muốn rách. Ngực cô se thắt lại. Karen đứng bật dậy, miệng đắng ngắt, chầm chậm đi lại phía màn hình ti-vi. Không thể thế được...
Đó là một khuôn mặt.
Khuôn mặt mà tâm trí cô muốn gào lên với chính bản thân rằng đó không phải là sự thật.
Bên ngoài nhà ga; giữa tất cả những hỗn loạn; sau vụ đánh bom; không quay về hướng camêra.
Đó là khuôn mặt của Charlie.
Bụng dạ cô như đảo lộn hết cả.
Không ai để ý đến cảnh tượng đó. Không ai ngoại trừ cô. Và nếu như cô chỉ cần chớp mắt một cái thôi, hay chỉ quay khỏi màn hình một chút thôi là toàn bộ cảnh tượng đó sẽ tan biến. Nhưng cảnh tượng đó là sự thật, được ghi lại ngay tại nhà ga, dẫu Karen có muốn phủ nhận điều đó đến đâu đi chăng nữa!
Đó chính là khuôn mặt của Charlie.
Karen nhìn chăm chăm vào gương mặt chồng mình.
Chương 25
Buổi sáng hôm đó thật trong lành, đường phố ngoại ô New Jersey hoàn toàn vắng bóng xe cộ, ngoại trừ khoảng ba muơi cuarơ đường phố đang cùng nhau đạp xe trong bộ đồng phục áo len bó.
Thả cho xe lao dốc ngay ở đội hình đầu nhóm, Jonathan đưa mắt lướt nhìn về phía sau tìm bóng dáng chiếc áo len bó màu xanh nhạt của bạn mình là Gary Eddings, một người chuyên kinh doanh trái phiếu tại Merrill. Jonathan thoáng nhận ra bóng người bạn bị vây quanh bởi đám cua-rơ. Cơ hội hoàn hảo! Luồn qua một khe nhỏ. Jonathan bắt đầu guồng mạnh và len lỏi qua đám cua-rơ dẫn đầu trong nhóm. Khi một khoảng trống mở ra trước mắt, Jonathan vượt thoát lên trên.
Lauer, một giọng nói của người giới thiệu chương trình tưởng tượng vang lên trong đầu, một hành động táo bạo và đầy tự tin!
Trong khi hầu hết phần còn lại chỉ là một nhúm khoảng hơn ba mươi người đang vã mồ hôi đốt cháy chút ít năng lượng trong một buổi sáng chủ nhật như thế này thì cá nhân Gary và Jonathan lại đang thưởng thức trò chơi này. Mà còn hơn cả một trò chơi, đúng ra là một thử thách, cả hai đều ganh đua để mỗi người phải cố gắng hết sức mình. Họ luôn đua nhau ở những chặng đường cuối, luôn chờ đợi động thái đầu tiên từ một trong hai người. Người thắng cuộc được phép khoác lác và mặc áo len bó màu vàng trong vòng một tuần. Ai thua sẽ phải bỏ tiền đãi bia người còn lại.
Các bắp chân guồng mạnh, đổ cả người về phía trước trên chiếc ghi-đông sợi các-bon mới tinh mang hiệu LeMond của mình, Jonathan lượn bên mép đường khoảng hai mươi yard, rồi đổ dốc không hãm phanh vào góc cua. Đích đến, khúc cua sau đoạn cắt với đường 287, chỉ còn cách nửa dậm nữa.
Quay lại phía sau, Jonathan bắt gặp hình ảnh Gary đang cố gắng thoát khỏi đám đông cua-rơ. Máu trong người Jonathan bắt đầu chạy rần rật, biến con đường miền quê thành con đường thẳng băng đến hoàn hảo trong nửa dặm còn lại. Jonathan đã hành động đúng lúc!
Guồng liên lục, hai bắp đùi Jonathan như tan chảy ra, nóng bỏng. Anh không còn nghĩ đến công việc anh mới bắt đầu làm cách đây vài tuần là phụ trách bộ phận năng lượng của công ty Chứng khoán Man, một trong những công ty thực sự nổi tiếng - một cơ hội kiếm được rất nhiều tiền sau tình trạng hỗn loạn ở công ty Harbor.
Jonathan cũng chẳng nghĩ đến việc vừa mới tuần trước đã phải cung cấp bằng chứng với một nhân viên kiểm toán của Ngân hàng Scotland và một luật sư của Parker & Kegg đã buộc anh phải làm chứng chống lại công ty cũ của mình sau khi nhận hợp đồng chi trả hấp dẫn dành cho anh khi công ty đóng cửa.
Không, tất cả những gì Jonathan đang nghĩ đến vào buổi sáng hôm đó chỉ là chạy đua về tới cái đích tưởng tượng trước người bạn của mình. Gary đã thoát khỏi đám đông và chạy được một quãng đường. Đoạn giao cắt chỉ còn cách Jonathan khoảng một trăm yard (1). Jonathan nhắm thẳng phía trước guồng mạnh, bó cơ hai đùi đau rần, hai lá phổi như bị nung trong lò lửa. Jonathan lén nhìn về phía sau một lần cuối. Gary đang vượt lên trước. Hạ màn, hầu như không còn nhìn thấy ai trong đoàn cua-rơ nữa, giờ thì chẳng còn cách nào để Gary có thể bắt kịp anh được nữa. Jonathan đổ dốc dưới cầu vượt 287, lượn quanh đường cua, giơ hai tay kêu lên trong niềm vui chiến thắng.
Anh đã cho Gary hít khói!
Một lúc sau, Jonathan đã chầm chậm đạp về nhà qua khu dân cư Upper Montclair. Giao thông vẫn còn thưa thớt. Tâm trí Jonathan thả theo hoạt động của chỉ số chứng khoán năng lượng rắc rối. Anh tận hưởng chiến thắng và niềm vui khi sẽ nói với đứa con trai tám tuổi của mình, Stevie, rằng bố nó đã cho mọi người hôm nay hít khói ra sao.
Khi tới gần khu nhà ở, đường đi trở nên lượn khúc và dốc hơn. Anh đổ dốc xuống con đường chạy thẳng Westerly, lên dốc Mountain View, quả đồi cuối cùng. Jonathan thở hổn hển, nghĩ đến việc anh đã hứa đưa Stevie đi mua giày đá bóng ra sao. Chi còn một phần tư dặm là sẽ đến nhà.
Đó cũng chính là lúc anh phát hiện ra chiếc xe. Chiếc xe hình như có mặt ngoài màu đen, một chiếc Navigator hay Escalade gì đó với lớp vỏ bên ngoài mạ vàng lấp lóa. Chiếc xe chạy thẳng về phía con đường anh đang đi.
Trong một giây, Jonathan Lauer cảm thấy bực bội. Nhấn phanh giảm tốc độ đi chứ. Đây là khu dân cư mà. Khoảng cách giữa anh và chiếc xe vẫn còn rất xa. Không có ai giữa họ. Jonathan chợt nghĩ rằng có lẽ anh đã vào cua hơi rộng. Nhưng Jonathan không nghe tiếng phanh nào cả.
Thay vào đó là một âm thanh khác. Một âm thanh điên rồ, nỗi bực dọc trong anh nhanh chóng biến thành một cái gì đó khác hẳn. Một cái gì đó đáng sợ khi chiếc xe thể thao lao tới ngày càng gần hơn.
Tiếng xe tăng tốc.
Chú Thích:
1 Yard: đơn vị đo lường của Anh, 1 yard tương đương 0,9144m
Chương 26
Trong những ngày sau đó, Karen đã xem đi xem lại đoạn phim ngắn ngủi chỉ có hai giây ấy hàng trăm lần. Những gì cô cảm nhận chỉ là sự hoảng sợ. Rối trí. Và không hiểu nổi những gì mình đang xem.
Đó là khuôn mặt người đàn ông cô đã chung sống suốt mười tám năm. Đó là người đàn ông cô đã thương khóc, đã nhớ thương. Người mà chiếc gối của anh hằng đêm cô vẫn ôm trong giấc ngủ. Đó là người mà cô vẫn thì thầm nhắc tên. Đó là Charlie, chồng cô, bị ghi lại khi ca-mê-ra ngẫu nhiên lướt qua trong một cảnh tượng không hề mong đợi.
Cảnh tượng đó diễn ra ngay bên ngoài nhà ga trung tâm Grand Central. Ngay sau vụ đánh bom.
Làm sao đó lại có thể là anh được chứ, Charlie... ?
Karen không còn biết phải làm gì. Cô có thể nói chuyện này cho ai được chứ? Cô ra ngoài chạy thể thao với Paula tới Tod’s Point, và nghe cô bạn không ngừng kể về một buổi dạ tiệc nào đó Paula và Rick đã được dự, tại một ngôi nhà khiến mọi người phải sửng sốt ở Stanwich. Đó cũng chính là lúc cô muốn lập tức ngắt lời Paula, nhìn thẳng vào cô bạn mà nói: Tớ đã nhìn thấy Charlie, Paula à.
Còn lũ trẻ nữa chứ, chúng suy sụp mất nếu nhìn thấy Charlie ở đó. Lũ trẻ sẽ chết mất. Còn những người bạn của cô thì sao? Làm sao cô có thể giải thích được với họ đây? Làm sao có thể nói được trước khi cô biết rõ đuợc mọi chuyện?
Nói với Saul? Với người mà Charlie mắc nợ quá nhiều điều ư? Không.
Vì vậy, Karen giữ điều bí mật đó cho riêng mình. Cô xem lại hình ảnh ghi lại ấy, xem đi xem lại, cho tới khi nó khiến cô phát điên lên. Sự rối trí quá độ đã biến thành cơn thịnh nộ. Cơn thịnh nộ gặm nhấm sâu vào nỗi đau.
Tại sao? Tại sao hả Charlie? Làm sao đó lại có thể là anh chứ? Sao anh có thể làm điều đó với ba mẹ con em, Charlie?
Karen lần lượt điểm lại những gì cô được biết. Đầu tiên là tên Charlie tìm thấy trên tờ chuyển tiền của doanh nghiệp kinh doanh ô tô Mercedes. Rồi người ta tìm thấy phần còn lại của chiếc cặp da đã bị vỡ tung, mẩu giấy cháy xém trong sổ ghi chép của Charlie. Charlie cũng đã gọi cho cô! Vào lúc 8 giờ 43. Tất cả chẳng có ý nghĩa gì với Karen.
Anh đã ở đó, trên chuyến tàu đó!
Ban đầu, cô cố gắng tìm cách thuyết phục bản thân rằng đó không thể là Charlie. Anh sẽ không bao giờ làm như vậy với cô, với lũ trẻ. Không thể là Charlie... mà vì sao chứ? Tại sao? Cô nhìn chăm chăm vào khuôn mặt trong đoạn phim. Có nhiều người giống nhau lắm, đôi mắt, và cả niềm hy vọng nữa - có thể đánh lừa được mọi người. Hình ảnh cũng hơi mờ. Nhưng mỗi khi cô xem lại hình ảnh đó, cô đã tua đi tua lại đến cả nghìn lần rồi - thì đúng là như vậy. Không thể sai được. Mồ hôi túa ra khắp người. Lời buộc tội như cứa vào gan ruột. Hai chân cô rã rời, mềm ra như bún.
Tại sao?
Nhiều ngày đã trôi qua. Cô cố gắng để tỏ ra mình vẫn bình thường, nhưng sự việc đó đã khiến cô thật mệt mỏi và rối trí. Tất cả những gì Karen có thể làm là thu mình lại trên giường ngủ, Cô nói với lũ trẻ rằng cô bị bệnh. Vì buổi tưởng niệm một năm ngày mất của Charlie. Tất cả những cảm giác đó như sầm sập đổ ụp xuống Karen. Thậm chí một buổi tối, lũ trẻ còn phải mang bữa ăn tối lên cho cô. Súp gà lũ trẻ mua ở nhà hàng cùng một ly trà xanh. Karen nói cảm ơn và nhìn vào những đôi mắt đầy quan tâm của chúng. - “Mẹ cố lên. Sẽ ổn thôi mà.” - Ngay sau khi lũ trẻ ra khỏi phòng, cô đã bật khóc.
Rồi sau đó, khi lũ trẻ đã ngủ hay đến trường, Karen thường đi quanh nhà, nhìn ngắm kỹ lại khuôn mặt chồng trong các tấm ảnh được đặt khắp mọi nơi trong nhà. Những tấm hình đó là tất cả đối với Karen. Là tất cả những gì cô có. Đó là những tấm hình chụp Charlie trong chiếc áo sơ mi bãi biển, đeo kính mát Ray-Bans mà hai vợ chồng đã phóng to để làm kỷ niệm. Là tấm hình Charlie và cô trong trang phục trang trọng tại đám cưới em họ cô. Là những vật dụng cô chưa bao giờ dọn đi khỏi bàn trang điểm trong phòng anh: tất cả những danh thiếp, hóa đơn, và cả những chiếc đồng hồ đeo tay của anh nữa.
Anh không thể làm thế với em được, Charlie. Không thể làm thế với mẹ con em được... Đó không thể là anh...
Chắc phải là một sự trùng hợp nào đó. Một sự trùng hợp quái đản. Em tin anh, Charlie... Em đã tin anh bằng cả cuộc sống của mình, và bây giờ sẽ vẫn tin. Thật khó có thể nghĩ rằng anh lại khiến cô đau đớn bằng cách này.
Karen tiếp tục lục lại những thông tin cô có được về Charlie. Mảnh giấy cháy xém được xé ra từ sổ ghi chép ai đó đã tìm thấy ở nhà ga trung tâm Grand Central với dòng chữ Tìm được từ bàn làm việc của Charlie Friedman.
Cô cảm nhận được rằng anh đã ở đó. Sự tin tưởng phải chiến thắng. Niềm tin của mười tám năm chung sống. Dầu cô có nhìn thấy gì trên màn hình, thì từ sâu thẳm trong tim, cô hiểu chồng mình là người thế nào.
Lần đầu tiên, Karen xem lại mẩu giấy. Xem lại theo đúng nghĩa của nó. Không phải để lưu giữ làm kỷ vật. Megan Walsh. Cái tên ngẫu nhiên ngoằn ngoèo trên tờ giấy rất khó đọc. Những con số điện thoại nguệch ngoạc có thể đọc được là: 964-1650. Và còn một số nữa, được viết đậm và gạch chân: B1254. Karen nhắm mắt.
Đừng bao giờ nghĩ vậy, Karen tự rũ bỏ khi ý nghĩ nghi ngờ luồn vào trong cô. Đó không phải là Charlie. Không thể là Charlie.
Nhưng bỗng đột nhiên mắt Karen như căng ra khi bắt gặp những con số nhằng nhịt. Nỗi nghi ngờ lại giằng xé trong cô. Khuôn mặt Charlie trên màn hình như một phần quá khứ của anh, là cầu nối với Charlie - và chỉ có một cầu nối đó.
Dầu có điên rồ thì cũng phải gọi số điện thoại này, Karen à.
Nếu không muốn mình phải hóa điên.
Chương 27
Sẽ rất khó khăn để Karen làm được điều đó. Làm theo cách mà cô cảm thấy mình đang lừa dối Charlie, đang lừa dối chính những ký ức về anh. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu người xuất hiện trên màn hình không phải là Charlie? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô chỉ làm cho mọi việc rối tung lên về một người chỉ đơn giản là trông giống Charlie?
Chồng cô đã mất cách đây hơn một năm rồi kia mà!
Nhưng cô vẫn quay số, thầm cầu mong đó không phải là số điện thoại ở một khách sạn nào đó mà B1254 là số phòng, và đó không phải là cách mà cô sẽ phải nghĩ về anh. Nỗi ngờ vực khó hiểu chợt lóe lên trong đầu Karen.
“JP Morgan Chase. Chi nhánh bốn mươi và đại lộ số ba xin nghe.” - Một giọng nói phụ nữ vang lên đầu dây đằng kia.
Karen hít một hơi dài, trấn tĩnh bản thân hòa với một chút ngượng ngùng. Nhưng nếu cô đã hành động được tới đây thì cô hoàn toàn có thể đi hết cả chặng đường. - “Làm ơn cho tôi nói chuyện với bà Megan Walsh.”
“Xin bà chờ một lát.”
Hóa ra Megan Walsh là giám đốc phụ trách Phòng Kinh doanh ngân hàng tư nhân tại đó. Và sau khi cô giải thích rằng chồng mình đã chết và rằng Karen là người duy nhất thừa hưởng bất động sản của Charlie, thì hóa ra B1254 lại là một két sắt an toàn được mở tại chi nhánh này một năm trước đây.
Két sắt này mang tên Charlie.
Sáng hôm sau, Karen lái xe vào phố. Đây là một ngân hàng lớn, nhà có trần cao, chỉ cách văn phòng của Charlie vài khu nhà. Megan Walsh là một phụ nữ hấp dẫn tuổi độ ba mươi, với mái tóc đen dài, trong trang phục rất có thẩm mỹ. Cô ta đưa Karen vào văn phòng chia khoang cùng với các nhân viên quản lý khác.
"Tôi vẫn nhớ ông Friedman.” - Megan nói với Karen, đôi môi mím lại cảm thông. - "Chính tôi đã mở tài khoản cho ông ấy. Tôi rất lấy làm tiếc về những mất mát của bà.”
"Tôi cũng chỉ mới đang bắt đầu xem qua những thứ của Charlie." - Karen nói. - “Cái này thậm chí còn không được liệt kê vào một phần danh sách bất động sản của anh ấy. Tôi còn chưa hề biết rằng tài khoản này tồn tại.”
Megan xem kỹ bản sao chứng tử của Charlie cũng như thư yêu cầu thi hành từ bất động sản. Cô ta hỏi Karen một vài câu hỏi: trước tiên là tên chú chó, Karen mỉm cười (hóa ra là anh đã cho Sasha vào danh mục), tiếp theo là tên thời con gái của mẹ Charlie. Sau đó cô ta đưa Karen trở lại phòng riêng gần mái vòm của khu nhà.
“Tài khoản này được mở cách đây khoảng mười tám tháng, vào tháng chín năm ngoái.” Megan đưa Karen xem giấy tờ liên quan. Chữ ký trên két rõ ràng là của Charlie. Karen cho rằng có lẽ trong đó chỉ chứa những giấy tờ liên quan công việc kinh doanh. Cô sẽ xem xem trong đó có những gì và dẫu nó có là gì thì cô cũng sẽ gửi tất cả cho Saul.
Megan Walsh xin phép ra ngoài và lát sau quay lại với một chiếc két sắt lớn.
“Bà cứ tự nhiên, xem bao lâu cũng được.” - Megan giải thích. Cô ta đặt chiếc hộp trên bàn, mở khóa cài với sự có mặt của Karen bằng một chiếc chìa sơ-cua. - “Nếu bà cần điều gì hoặc muốn chuyển bất cứ thứ gì vào tài khoàn két sắt này, tôi sẽ rất vui được phục vụ khi bà xem xong.”
“Cảm ơn cô.” - Karen gật đầu.
Cô lưỡng lự mất một lúc, sau khi cánh cửa phòng đóng lại. Chỉ còn mình cô với cái mà Charlie chưa bao giờ cho cô biết. Thật sự sốc khi nhìn thấy khuôn mặt anh trên màn hình trong bộ phim tài liệu ngày hôm ấy, và giờ thì đến lượt chiếc két sắt chưa bao giờ được nhắc tới với tư cách là một phần tài sản hay được nhắc tới trong bất kỳ hợp đồng kinh doanh nào của Charlie. Karen lướt bàn tay dọc theo những tấm thép, hành động hơi có chút cẩn trọng. Trong này liệu có thể là cái gì được nhi? Là cái gì mà anh phải giấu cô?
Karen mở nắp phía trên chiếc hộp và nhìn vào bên trong. Hai mắt cô muốn bật khỏi tròng vì kinh ngạc.
Chiếc hộp xếp đầy từng chồng ngay ngắn những tờ một trăm đô. Những tờ trái phiếu được buộc gọn lại bằng những sợi dây chun với những hàng chữ viết tay của Charlie chạy ngoằn ngoèo trên đó với những mệnh giá: 76.000 đô la, 210.000 đô la. Karen nhấc một vài tập lên xem, nín thở.
Ít nhất ở đây cũng phải có đến hàng triệu đô la.
Cô hiểu ngay rằng có điều gì đó không ổn. Charlie có thể kiếm đâu ra được khoản tiền này chứ? Hai người đã chia sẻ với nhau tất cả mọi thứ. Lặng người đi, Karen thả rơi tập tiền vào lại trong két sắt. Tại sao anh lại giấu cô tất cả những thứ này?
Lòng dạ cô rối bời. Karen đột nhiên nhớ lại hai người đàn ông tới từ công ty Archer hai tháng trước. Một khoản tiền lớn đã biến mất. Và cả sự việc xảy ra với Samanthan ở bãi đậu xe. Haitrăm năm mươi triệu đô la. Đây chỉ là một phần nhỏ của khoản tiền đó.
Karen vẫn còn kinh ngạc với những gì nhìn thấy trong chiếc két sắt - cô bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế này, Charlie? Phía dưới chiếc hộp còn nhiều thứ hơn nữa. Karen thọc tay xuống dưới và rút ra một chiếc phong bì khổ to. Cô mở nắp gài, dốc toàn bộ nội dung bên trong ra ngoài. Và cô không còn tin vào mắt mình được nữa.
Một cuốn hộ chiếu. Nó hoàn toàn mới, chưa một lần sử dụng. Karen lật qua vài trang. Trong cuốn hộ chiếu là ảnh của Charlie. Là khuôn mặt của Charlie - nhưng lại mang cái tên hoàn toàn khác. Một cái tên giả. Đó là Weitzman. Alan Weitzman. Thêm vào đó là một số thẻ tín dụng, tất cả đều mang cái tên giả kia. Quai hàm Karen như cứng lại. Đầu đau như búa bổ. Charlie, anh còn che dấu em điều gì nữa?
Hoang mang và bối rối, Karen ngồi sụp xuống ghế. Chẳng có lý do gì để cho cô có thể hiểu được tất cả những điều đang diễn ra ở đây. Có thể khuôn mặt cô nhìn thấy trên màn hình không thực sự là Charlie.
Nhưng ở đây thì không thể sai được... Đột nhiên ngụy biện bằng bất cứ điều gì đã trở thành không thể. Cô đưa mắt nhìn xuống biên bản hoạt động của két sắt một lần nữa. Tài khoản két sắt được mở cách đây hai năm. Ngày 24 tháng mười. Sáu tháng trước cái chết của Charlie. Chữ ký của Charlie còn đó, rõ như ban ngày. Chữ ký đó xuất hiện ở tất cả các khoản mục, một vài chữ ký nữa xuất hiện một thời gian không lâu sau khi tài khoản đuợc mở. Và sau đó thì cứ khoảng một hay hai lần một tháng, đều đặn như vòng chạy kim đồng hồ, như thể anh đang chuẩn bị cho điều gì đó. Karen đọc lướt cho đến dòng cuối, và cô không thể rời mắt khỏi khoản mục cuối cùng.
Ở đó là chữ ký của Charlie. Dòng chữ nguệch ngoạc nghiêng về phía trước. Nhưng ngày ký lại là... ngày mùng chín tháng tư. Ngày nhà ga trung tâm Grand Central bị đánh bom. Karen dán mắt vào mục thời gian ký - là mười ba giờ ba mươi nhăm phút. Mồ hôi túa ra toàn thân Karen.
Khi đó là bốn giờ sau thời điểm được cho là Charlie đã chết.
Chương 28
Karen cố gắng để khỏi nôn thốc tháo tất cả những gì trong bụng ra ngoài. Cô cảm thấy choáng váng. Đầu óc bỗng trở nên trống rỗng, nắm chặt lấy mép bàn để khỏi ngã, không sao rời mắt khỏi những gì nhìn thấy trên tờ giấy.
Mười ba giờ ba mươi nhăm phút.
Điều đó bỗng trở nên chẳng có ý nghĩa gì đối với Karen, ngay lúc này. Nhưng có một điều đáng để ý khi cô chợt nhớ lại hình ảnh mờ mờ của Charlie xuất hiện trong đoạn phim quay bằng ca-mê-ra cầm tay trên ti-vi.
Chắc chắn chồng cô vẫn còn sống.
Karen hối hả, quay cuồng xem lại một lượt những thứ trong chiếc két sắt, chấp nhận rằng mọi thứ cô đã từng cảm nhận, đã từng tin tưởng trong một năm vừa qua, nỗi sợ hãi về sự mất mát, về những khoảnh khắc cô đã phải băn khoăn một cách rất cảm thông rằng Charlie đã phải trải qua, mỗi khi lần bước tới bên giường ngủ và ôm chặt lấy chiếc gối của anh mà tự hỏi Tại sao... tại sao chứ? - chấp nhận rằng tất cả những điều đó chỉ là một sự dối trá.
Charlie đã giấu cô tất cả những điều đó. Anh đã lập kế hoạch cho tất cả từ trước. Charlie đã không chết ở nhà ga trung tâm vào ngày đó, trong vụ đánh bom, hay trong những ngọn lửa tới từ địa ngục đó.
Anh vẫn còn sống.
Karen chợt nhớ lại buổi sáng hôm ấy... Charlie gọi cô trong tiếng máy sấy tóc, về việc đi lấy xe. Trong lúc vội vã, đó là những từ mà cô không kịp nghe thấy.
Charlie vẫn còn sống.
Tiếp đó là nỗi kinh hoàng bám chặt lấy cô ở phòng tập. Khi dán mắt vào chiếc ti-vi, nỗi sợ hãi xâm lấn tâm can cô, cô đã dần chấp nhận một sự thật rằng anh đã ở trên chuyến tàu đó. Cú điện thoại của anh nữa - là những lời nói cuối cùng - rằng anh sẽ mang bữa tối về cho cô đêm ấy. Lúc đó là 8 giờ 34 phút. Rồi tới mảnh da cháy xém từ chiếc cặp có chữ viết tắt tên anh, mẩu giấy cũng cháy xém ai đó đã gửi cho cô.
Tất cả mọi thứ ào ạt đổ về, chìm đắm trong sức mạnh của cơn bão đang gào rú trong tâm trí Karen. Tất cả những nỗi đau đớn, thống khổ và cả những giọt nước mắt cô đã phải trải qua...
Charlie đã ở đó. Trên chuyến tàu đó. Chỉ có điều anh không chết.
Ban đầu, ý nghĩ đó như những cơn đau dạ dày đảo tung tất cả những gì trong lòng Karen. Cô gắng gượng để không nôn thốc ra. Cô phải vui sướng chứ. Charlie vẫn còn sống kia mà! Nhưng rồi cô thần người nhìn đống tiền với cuốn hộ chiếu giả. Anh đã không cho cô biết điều gì cả. Anh đã để cô phải chịu đựng tất cả ý nghĩ rằng anh đã chết trong suốt một năm qua. Sự bối rối khó hiểu trong cô đã biến thành nỗi giận dữ. Cô ngồi đó, chăm chú nhìn tấm hình trong cuốn hộ chiếu. Weitzman. Tại sao, Charlỉe, tại sao chứ? Anh đang bày ra trò gì thế? Làm sao anh có thể làm điều đó với em được chứ? Làm sao anh có thể làm điều đó với mẹ con em, Charlie?
Ta đã từng yêu nhau. Đã từng chung sống. Đã có một mái ấm gia đình. Đã đi nghỉ cùng nhau. Hai người đã nói về những điều sẽ làm khi lũ trẻ trưởng thành. Vẫn làm tình với nhau. Vậy mà tại sao anh lại có thể giả dối thế chứ? Làm sao anh có thể làm như vậy với một người anh yêu?
Bỗng nhiên hai chân Karen như mềm nhũn. Tất cả số tiền này, cả cuốn hộ chiếu kia nữa, nghĩa là sao? Phải chăng Charlie đã phạm tội nào đó? Căn phòng như thu hẹp lại, thu hẹp lại mãi quanh cô. Karen muốn ra khỏi căn phòng này, ngay lập tức. Karen đóng nắp hộp và gọi người. Megan Walsh xuất hiện tức khẳc.
“Tôi muốn về ngay lập tức, nếu có thể.” - Karen nói, tay lau mồ hôi đang lăn trên má.
"Tất nhiên thưa bà.” - Megan đáp lời. - “Tôi sẽ gửi danh thiếp tho bà.”
Karen hỏi. - “Đã có ai mở được chiếc hộp này ra chưa?”
"Không. Chỉ có ông nhà thôi.” - Megan nhìn Karen ngạc nhiên. - "Có chuyện gì không ạ?”
"Không." - Karen đáp. Cô với tay lấy ví xách nhưng trước khi đi, cô đề nghị xin một bản danh mục hoạt động của tài khoản két sắt. - “Vài ngày nữa tôi sẽ quay lại và quyết định sẽ làm gì.”
“Được thưa bà Friedman. Chỉ cần báo trước cho tôi.”
Khi đã ra đến đường, Karen hít một hơi thật sâu luồng không khí mát lạnh và tựa vào cột chỉ đường, dần tĩnh tâm lại. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra vậy, Charlie? Karen không dám nhìn người qua đường, sợ mọi người nghĩ mình là một kẻ điên quay cuồng với những hành động kỳ quặc trên đường phố.
Có phải em đã không quan tâm đúng mức tới anh? Phải chăng em không đủ tốt với anh? Em đã yêu anh. Đã đặt cả niềm tin vào anh. Đã khóc thương cho anh, Charlie. Em đã đau khổ đến chừng nào khi nghĩ rằng anh đã chết.
Vậy mà sao anh có thể vẫn còn sống được kia chứ?
Chương 29
Văn phòng của Saul Lennick cũng gần đó, nằm trên tầng bốn mươi hai của một trong những cao ốc văn phòng toàn làm bằng kính tại nơi giao cắt đường Bốn mươi bảy và đường Park. Karen chạy vội tới chỗ Saul, thậm chí còn quên cả gọi điện thoại, trong lòng thầm cầu sao Saul có mặt ở đó. Maureen, thư ký của Saul vừa bước ra và ngay lập tức nhìn thấy sự lo lắng và nỗi buồn trên gương mặt Karen.
“Tôi lấy cho bà thứ gì nhé, bà Friedman.” - Maureen hỏi một cách lo lắng. - “Một ly nước được không ạ?”
Karen lắc đầu.
"Mời bà vào trong. Ông Lennick đang rảnh, ông ấy có thể gặp bà ngay bây giờ.”
"Cảm ơn cô.” - Karen thở phào một hơi, nhẹ nhõm. Cảm ơn Chúa!
Saul Lennick sở hữu một phòng làm việc rộng, bề thế, treo một bộ sưu tập mặt nạ châu Phi và những đồ làm để tạo tuỳ táng của người Bali, cửa sổ căn phòng nhìn ra bầu trời Manhattan và về phía bắc là khu Công viên Trung tâm Central Park. Lennick vừa mới kết thúc một cuộc điện thoại, ông lo lắng đứng đợi khi Maureen báo rằng Karen đến.
“Karen?”
“Có một chuyện đang xảy ra, ông Saul à. Tôi không hiểu đó là điều gì nữa. Nhưng Charlie đã làm chuyện gì đó... trong công việc kinh doanh của anh ấy.”
“Cái gì cơ?” - Lennick hỏi lại. Ông quay lại kéo một chiếc ghế cho Karen ngồi xuống trước bàn làm việc của mình và ông cũng ngồi xuống.
Karen đang định tuôn ra tất cả những điều cô biết và vừa mới phát hiện ra - bắt đầu bằng việc nhìn thấy Charlie xuất hiện trên bộ phim tài liệu, và rằng Charlie vẫn còn sống. Nhưng cô đã cố gắng bình tĩnh lại ngay vào giây phút cuối cùng, sợ rằng có thể Saul sẽ cho rằng ông đang nói chuyện với một người mất trí, và quyết định chỉ kể lại cho ông những gì cô thấy ngày hôm nay.
"Tôi bất ngờ phát hiện ra một điều, Saul à. Charlie đã viết ra trước khi anh ấy mất. Tôi thậm chí còn không biết phải giải thích từ đâu, nhưng tôi biết nó hoàn toàn khớp với tất cả nhũng điều quái gở đang diễn ra. Việc những kẻ đến từ công ty Archer. Vụ của Samantha. Tôi không biết phải làm gì Saul à.”
"Về điều gì kia chứ?"
Trong trạng thái bị kích động mạnh, Karen kể lại cho Lennick nghe về việc mình phát hiện ra tài khoản két sắt. Về số tiền và trái phiếu, về cuốn hộ chiếu giả. Và cả về hình Charlie được đặt cạnh một cái tên giả.
“Ban đầu tôi tưởng đó chỉ là chuyện Charlie với một người đàn bà khác, nhưng không phải, Saul à. Chuyện này còn tồi tệ hơn thế. Nhìn tôi mà xem, Saul, tôi hoàn toàn suy sụp.” - Karen ngừng lại thở một hơi. - “Charlie đã làm chuyện gì đó mà tôi không hề được biết. Anh ấy là chồng tôi. Và tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi có cảm giác những kẻ đó sẽ quay trở lại. Những kẻ đó đang theo sát chúng tôi, bây giờ tôi lại phát hiện ra một chiếc hộp đựng đầy tiền cùng một cái tên giả mạo. Tôi sẽ không để cho lũ trẻ phải gặp nguy hiểm, Saul à. Tại sao Charlie lại có thể dấu tôi tất cả những thứ đó chứ? Tôi biết là ông biết điều gì đó. Có chuyện gì đang xảy ra vậy, Saul? Ông còn nợ tôi điều đó mà, Saul, - đó là chuyện gì vậy?
Lennick dựa hẳn lưng vào chiếc ghế bọc da. Phía sau ông là khoảng trời New York rộng lớn trải dài như một cái phông hình toàn cảnh khổng lồ. Saul thở hắt ra.
“Thôi được, Karen à. Tôi đã hy vọng sẽ không bao giờ phải nói ra điều này. Rằng vì lý do nào đó nó đã không còn nữa.”
“Cái gì, Saul? Cái gì không còn nữa?”
Saul ngả người về phía trước. - “Charlie có bao giờ nhắc đến cái tên Coombs không? Ian Coombs ấy?
“Coombs?” - Karen lắc đầu. - “Tôi không nghĩ là vậy. Tôi không nhớ.”
“Vậy còn về hãng đầu tư có tên Công ty chứng khoán Baltic thì sao? Charlie có nói đến bao giờ không?”
“Tại sao ông lại hỏi tôi về tất cả những điều đó, Saul? Thực sự tôi không có liên quan tới công việc kinh doanh của Charlie. Ông và tất cả mọi người đều biết điều đó.”
“Tôi rất biết điều đó, Karen à. Chỉ là vì..."
“Vì điều gì, Saul? Charlie không còn ở đây nữa. Và đột nhiên tất cả mọi người đều nói những lời bóng gió về anh ấy. Cuối cùng thì Charlie đã làm cái quái quỷ gì vậy?"
Lennick đứng dậy. Ông đang bận một bộ véc sọc nhỏ màu xanh hải quân viền vàng quanh hai ống tay áo. Ông đi quanh chiếc bàn trước mặt Karen và ngồi xuống cạnh bàn. - “Karen này, có khi nào Charlie nói đến những tài khoản khác mà anh ấy quản lý không?”
“Tài khoản khác?”
Lennik gật đầu. - “Những tài khoản hoàn toàn không liên quan tới công ty Harbor. Có thể là tài khoản ở ngân hàng nước ngoài - ở Bahamas hay đảo Cayman chẳng hạn? Những thứ không bị quản lý bởi ủy ban chứng khoán hay luật tài chính của nước Mỹ." - Ánh mắt Lennick thăm dò, rất thận trọng.
"Ông đang làm tôi hoảng sợ, Saul à. Charlie là người đứng đắn. Anh ấy sẽ không che dấu những thứ đó với ai. Ít nhất là với ông và những người khác ở công ty."
“Tôi hiểu, Karen, và tôi đã không đưa ra ý kiến này, ngoại trừ..."
Karen nhìn Saul chăm chú: - “Ngoại trừ sao?”
“Ngoại trừ cô phát hiện ra những gì cô đã phát hiện. Karen à. Khoản tiền đó, cuốn hộ chiếu đó. Cả hai thứ với tôi đều không có vẻ gì là đứng đắn.”
Karen sững lại. Trong đầu cô lại lóe lên hình ảnh trên màn hình ti-vi. Cả cuộc sống mà hai người đã từng chung sống. Họ đã có thật nhiều điều tươi đẹp. Những điều liên quan tới lũ trẻ, tới tài chính của họ. Cả những khi họ bực tức với nhau, thậm chí cả những việc xảy ra với mấy chú chó trong nhà nữa. Đó là cái cách họ sống với nhau, là sự tin tưởng lẫn nhau. Giờ thì trong lòng, Karen cảm thấy ngờ vực điều đó. Nó khiến cô ớn lạnh, ngờ vực Charlie. Đó là cảm giác cô chưa từng bao giờ trải qua, chưa từng bao giờ có.
“Chúng ta đang nói đến khoản tiền của ai vậy, Saul?”
Saul không trả lời. Ông chỉ mím chặt môi và đưa tay vuốt ngược mái tóc mỏng, xám màu ra sau.
"Đó là tiền của ai? ” - Karen nhìn thẳng vào mắt Lennick.
Người ủy nhiệm cho chồng cô thở dài. Những ngón tay của ông gõ gõ, như bài hát buồn trong đám tang, trên chiếc bàn làm bàng gỗ óc chó.
Ông nhún vai. - "Đó mới là vấn đề, Karen à. Không ai biết chắc chắn điều đó.”
Chương 30
Karen như phát điên. Những ngày sau đó, cô gần như không thể ra khỏi giường, không biết sẽ phải làm gì. Samantha bắt đầu lo lắng. Đã gần một tuần kể từ khi Karen xử sự không còn giống chính cô nữa, từ lúc cô nhìn thấy Charlie trên màn hình ngày hôm đó. Ánh mắt Samantha như muốn nói rằng có điều gì đó không ổn. - “Có chuyện gì vậy, mẹ?”
Dầu cô rất muốn nói ra sự thật, nhưng cô có thể nói cho Samantha thế nào đây? Nói rằng người Samantha khâm phục nhất trên thế gian này, người luôn lo liệu mọi việc cho con bé và khiến nó trở nên mạnh mẽ đã lừa dối nó như vậy sao? Mà Saul đã nói điều gì nhỉ? Về việc lập nhiều tài khoản, chuyển tiền cho những người cô không hề biết. Người nước ngoài chăng?
Nhưng người đó là ai?
Tất cả khoản tiền đó khiến Karen sợ hãi. Để làm gì chứ? Karen bắt đầu nghĩ rằng có thể Charlie đã phạm một tội nào đó. Đã bao giờ Charlie nhắc đến tài khoản nào khác mà anh quản lý không?
Không, cô đã trả lời Saul như vậy. Ông biết Charlie rồi đấy. Anh ấy là người thẳng thắn. Anh ấy lo đến từng xu nhỏ cho khách hàng.
Nhưng liệu có phải cô đã tự lừa dối mình từng ấy năm hay không?
Lại vài ngày nữa trôi qua. Karen đang lái xe, gần như mất trí trong khi nghĩ rằng Charlie đang ở một nơi nào đó, và điều đó có nghĩa gì. Đó là một buổi tối muộn. Đèn điện trong phòng lũ trẻ đã tắt từ lâu. Tobey cũng đã đi ngủ. Karen xuống bếp pha một tách trà.
Khung hình của Charlie nằm trên quầy bar trong bếp. Đó là tấm hình kỷ niệm, anh mặc áo thun cổ tròn màu trắng với chiếc quần soóc ka-ki, mang giầy đi thuyền của hãng Topsiders và kính phi công của hãng Ray-Bans. Họ vẫn luôn coi đó là hình ảnh trung thực nhất của Charlie, quay lưng lại con thuyền trên vùng biển Caribê - điện thoại áp bên tai.
Tôi hiểu anh ấy mà, Saul...
Karen cầm khung hình lên, và lần đầu tiên cô phải kìm nén lắm mới không ném vào tường cho vỡ tan ra trong cơn giận dữ. Nhưng ngay sau đó, một kỷ niệm kỳ lạ nhất bỗng trở lại trong Karen. Kỷ niệm trỗi dậy từ nơi sâu kín nhất của cuộc sống mà họ đã cùng chia sẻ.
Charlie đang vẫy tay với cô.
Đó là khoảng thời gian cuối cùng của một tuần tuyệt vời đi du thuyền trên biển Caribê. Bắt đầu từ St. Bart, tới Virgin Gorda, và cuối cùng là Tortola. Lũ trẻ phải trở lại trường học ngay ngày hôm sau. Bỗng dưng sau đó Charlie đưa ra một quyết định kỳ lạ là ở lại thêm một thời gian. Chương trình đã thay đổi vì Charlie phải gặp một người tại đó.
Thế có đáng ngạc nhiên không?
Vì vậy, anh đã đưa ba mẹ con tới sân bay địa phương. Một chiếc máy bay nhỏ, loại mười hai chỗ ngồi, đưa ba mẹ con trở về San Juan. Karen luôn cảm thấy bất an khi bay trên những loại máy bay nhỏ như vậy. Mỗi khi cất cánh và hạ cánh, bao giờ cô cũng nắm chặt lấy tay Charlie. Mọi người vẫn thường trêu cô về điều ấy...
Mà tại sao tất cả những chuyện này lại rủ nhau quay về kia chứ?
Charlie chào tạm biệt ba mẹ con ở cửa tạm của phi trường, trông giống một chiếc cửa kính dẫn ra đường băng. “Em sẽ ổn thôi mà.” - Charlie bảo khi ôm lấy cô. - “Anh sẽ trở về miền Bắc sau hai ngày nữa.” Thế nhưng khi thắt dây an toàn trên chiếc máy bay hai động cơ, Karen có một cảm giác choáng sợ không lý giải nổi chạy dọc thân mình. Như thể cô sẽ không bao giờ còn được gặp lại Charlie nữa. Cô đã nghĩ Tại sao anh không đi cùng em, Charlie? và một cảm giác cô đơn thoáng lướt qua khiến cô phải nắm lấy tay Alex.
Khi động cơ máy bắt đầu quay, Karen hướng nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy Charlie đứng trên ban-công của nhà ga hàng không nhỏ xíu, trong chiếc áo phông tắm biển và cặp kính Ray-Bans, mắt kính ánh lên dưới mặt trời.
Anh đang vẫy tay.
Vẫy tay nhưng tay kia đang áp điện thoại di động lên tai, mắt dõi theo chiếc phi cơ nhỏ bé đang bắt đầu chuyển bánh. Ngoài khơi, Saul đã nói với cô như vậy. Tới đảo Tortola hoặc đảo Cayman.
Giờ nỗi sợ hãi đó lại gợn lên trong Karen khi cô nhìn tấm hình của Charlie. Giờ thì vì một lý do nào đó cô chưa thực sự hiểu anh. Không phải theo cách đó. Đôi mắt Charlie trong tấm hình giờ đây tối lại, không phản xạ ánh sáng mặt trời nữa mà sâu thẳm, xa lạ - như một hang đá dẫn đến bao vực thẳm. Những vực thẳm cô chưa từng biết đến trước đây.
Điều đó khiến cô hoảng sợ. Karen đặt tấm hình xuống. Cô nghĩ Charlie vẫn ở đó. Có thể giờ này anh cũng đang nghĩ đến cô. Có thể anh cũng đang băn khoăn: liệu cô có phát hiện ra, nghi ngờ, hay cảm giác anh vẫn còn sống hay không. Nghĩ tới đó, cô cảm thấy ớn lạnh. Anh đã làm cái quái quỷ gì thế, Charlie?
Cô biết mình không thể kìm nén mãi được. Cô sẽ phát điên lên mất. Cô cần phải biết: Tại sao anh lại làm như vậy, và anh đã ở đâu. Karen ngồi sụp xuống chiếc ghế cạnh quầy bar, gục đầu lên hai tay. Chưa bao giờ cô cảm thấy bối rối và đơn độc như lúc này.
Cô chỉ có thể nghĩ được đến một nơi duy nhất.
Chương 31
Từ mấy gian tạm giam dưới hầm, Hauck quay trở lại văn phòng của mình ở tầng trên. Anh cùng Freddy Munoz vừa mới lấy được lời khai từ một thiếu niên gốc la-tinh đang hoảng loạn. Đây là thành viên của một nhóm tới từ Norwalk chuyên trộm cắp các loại xe đẹp tại các vùng quê thưa người ở Greenwich. Lời khai anh vừa lấy được có thể giúp phá án. Joe Horner, một thanh tra thuộc sở cảnh sát Norwalk, đang chờ anh ở phía đầu dây điện thoại bên kia.
Khi Hauck bước vào từ hành lang, Debbie, trợ lý của đội, vẫy tay ra hiệu cho anh: “Ty, có người cần gặp anh.”
Karen đang ngồi đợi anh trên băng ghế phía bên ngoài văn phòng. Cô mặc một chiếc len cổ lọ và áo khoác nhẹ màu be. Chiếc túi xách phụ nữ đặt trên băng ghế bên cạnh. Hauck không hề dấu diếm nỗi vui mừng được gặp cô.
“Deb1, nói với Horner tôi sẽ gọi lại cho anh ấy sau.”
Karen đứng dậy, mỉm cười, vẻ bồn chồn. Hauck đã không gặp cô vài tháng nay từ sau vụ những người quấy rối cô không còn đến nữa và đội của Hauck cũng đã rút trạm gác an ninh trước nhà cô. Anh cũng đã gọi cho cô một vài lần để đảm bảo rằng mọi việc vẫn ổn. Hauck mỉm cười đi về phía Karen. Trông cô giờ xanh xao, ủ rũ.
“Anh đã nói tôi có thể gọi cho anh.” - Karen nhún vai. - "Nếu xảy ra chuyện.”
"Tất nhiên rồi.”
Karen ngẩng lên nhìn Hauck. - “Xảy ra chuyện rồi.”
“Vào phòng tôi rồi ta nói nào.” - Hauck nắm lấy khuỷu tay Karen. Ty bảo Debbie rằng anh sẽ gọi lại cho viên thanh tra Norwalk sau, rồi đưa Karen đi ngang qua dãy ghế dành cho các thanh tra phía bên kia tấm kính ngăn, đi vào văn phòng của mình. Ty kéo chiếc ghế kim loại bình dân từ phía chiếc bàn trong đối diện bàn làm việc của mình ra bảo: “Mời cô ngồi.”
Karen lộ rõ vẻ không vui. - “Cô uống thứ gì không? Nước lọc hay cà phê?” - Karen lắc đầu từ chối. Hauck kéo một chiếc ghế nữa lại và ngồi xuống, đối diện Karen, hai tay chắp lại sau lưng. - “Vậy hãy cho tôi biết có chuyện gì đã xảy ra.”
Karen hít sâu, mím chặt môi, rồi với đưa tay vào trong túi xách, gương mặt đã có chút biểu hiện của sự dễ chịu và nhẹ nhõm. Cô hỏi: “Anh có máy tính ở đây không, trung úy?”
“Có.” - Hauck gật đầu, ra dấu về phía kệ tủ bên cạnh bàn làm việc của mình.
Karen đưa anh chiếc đĩa. - “Anh bật cái này lên đi.”
Hauck cúi xuống, đưa chiếc đĩa vào máy tính. Chiếc dĩa quay tít và bắt đầu bật lên, một chương trình ti vi hay chương trình thời sự nào đó hiện lên màn hình. Một đám đông chạy trên đường phố New York. Một quang cảnh hỗn loạn. Đoạn phim được quay do một người không chuyên nghiệp, từ máy quay cầm tay trong đám đông. Và ngay lập tức Ty nhận ra mình đang xem lại quang cảnh hậu quả của vụ đánh bom nhà ga Trung tâm.
Karen hỏi, - “Anh đã xem đoạn băng này chưa, trung úy? Nó được phát sóng vào tối thứ tư vừa rồi.”
Hauck lắc đầu. - “Chưa. Lúc đó tôi còn đang làm việc.”
“Nhưng tôi đã xem.” - Karen kéo Ty trở lại với chiếc đĩa: từ nhà ga, người ta chạy túa ra đường. - “Khó có thể chịu đựng được khi xem lại đoạn băng này. Là một sai lầm lớn, như thể một lần nữa phải sống lại những khoảnh khắc đó.”
“Tôi có thể hiểu cảm giác của cô.”
Karen nhấn mạnh. - “Đến quãng này thì tôi không thể xem tiếp được nữa. Tôi bước tới định tắt ti vi.” - Karen bước tới phía sau lưng Hauck, cúi người qua vai anh về phía màn hình. - “Như thể tôi đã hóa điên trong lòng vậy. Phải xem lại cái chết của Charlie khi tất cả đã qua.”
Hauck không hiểu tất cả chuyện này rồi sẽ dẫn đến đâu. Karen với lấy chuột máy tính. Cô chờ đợi, cho tới khi hình ảnh trên màn hình mở ra, mọi người loạng choạng lao ra từ một lối ra ở phía xa của nhà ga, ho sặc sụa, nôn thốc tháo, mặt mũi xạm đen vì khói. Máy quay giật nhẹ lên.
"Khi tôi nhìn thấy cảnh tượng này.” - Karen chỉ. Cô đặt trỏ chuột lên thanh công cụ, nhấn chuột. Khung hình trên màn hình dừng lại. Lúc đó là 9 giờ 16 phút buổi sáng.
Trong khung hình là một người phụ nữ đang đưa tay an ủi ai đó đã gục xuống trên đường phố. Phía trước người phụ nữ là một người khác, một người đàn ông, khuôn mặt hơi quay đi khỏi máy quay. Người đàn ông đang chạy qua máy quay. Hai mắt Karen như dán chặt vào màn hình máy tính, có điều gì đó gần như đông cứng lại trong cô, đông cứng lại nhưng cùng lúc Hauck cũng nhận thấy ở đó còn có cả nỗi buồn.
“Đó là chồng tôi.” - Karen nói, cố kiềm chế để giọng nói của mình không lạc đi. Cô nhìn thẳng vào mặt Ty. - "Đó là Charlie, trung úy à."
Tim Hauck như ngừng đập. Phải mất một vài giây anh mới hiểu ý nghĩa những gì Karen vừa nói. Chồng Karen đã chết ở nhà ga này. Cách đây đã một năm rồi. Anh cũng đã tới nhà cô, tới dự lễ tưởng niệm Charlie. Điều đó là quá rõ ràng. Anh quay lại nhìn màn hình máy tính. Những đường nét trên khuôn mặt trong đó hơi giống so với những tấm hình anh đã nhìn thấy ở nhà Karen. Hauck chớp mắt quay ra nhìn Karen.
“Ý cô là sao?”
“Tôi không biết ý tôi là gì nữa.” - Karen nói. - “Charlie đã đi chuyến tàu đó, - đó là điều tôi biết rõ nhất. Charlie đã gọi điện cho tôi khi đang ngồi trên tàu, ngay trước khi vụ nổ xảy ra. Người ta cũng đã tìm thấy nhiều mẩu da từ chiếc cặp của anh ấy trong đống đổ nát...” - Karen lắc đầu. - “Nhưng bằng cách nào đó, Charlie đã không chết.”
Hauck đẩy xa người khỏi bàn, đôi mắt lại dán chặt vào màn hình. — "Có đến hàng trăm người trông giống vậy. Anh ấy chìm trong đám khói bụi. Chưa chắc đã phải là Charlie.”
"Đó cũng là điều tôi đã tự nhủ,” - Karen nói — “Đó là lúc ban đầu. Ít nhất thì đó cũng là những gì tôi hy vọng.” - Karen quay trở lại bên chiếc bàn họp. - “Tuần vừa rồi, tôi đã xem đi xem lại cảnh này tới cả nghìn lần." Cô với tay lấy một mảnh giấy trong túi xách. - “Sau đó, tôi phát hiện ra điều này. Dẫu đó có là chuyện gì thì cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng là nó đã đưa tôi tìm ra một chiếc két sắt ký gửi tại một ngân hàng ở Manhattan mà tôi chưa từng biết chồng tôi có nó.”
Cô đẩy mảnh giấy qua bàn về phía Hauck.
Đó là bản phô-tô mẫu kích hoạt tài khoản từ ngân hàng Chase dành cho một chiếc két sắt và kèm theo đó có vẻ là một danh mục ghi lại nhật ký của tài khoản. Đã có nhiều hoạt động được ghi lại trong nhật ký trong một vài năm trở lại đây. Tất cả những mục này đều có chữ ký xác nhận của cùng một người. Đó là Charlie Friedman.
Hauck đọc lướt nhanh xuống dưới.
“Anh hãy kiểm tra ngày cuối cùng,” - Karen nói. - “Và thời gian của ngày đó nữa.”
Hauck nhìn theo, rồi cảm thấy như ngực mình bị nỗi đau bén ngọt xé toang ra. Đôi mắt đen của anh nhìn cô, không hiểu nổi. Không thể...
“Charlie vẫn còn sống.” - Karen Friedman nhìn vào mẳt Hauck. Hai con ngươi long lên. - “Charlie đã tới đó, tới ngân hàng đó, bốn tiếng rưỡi sau khi vụ đánh bom xảy ra. Bốn tiếng rưỡi sau khi tôi cho rằng anh ấy đã chết.”
"Đó chính là Charlie.” - Karen gật đầu, đưa mắt nhìn sang màn hình. - "Chồng tôi, trung úy ạ. ”
Chú Thích:
(1) Deb: Tên thân mật của Debbie
Chương 32
“Cô đã nói chuyện này với ai chưa?”
“Chưa.” - Karen nhìn Ty chăm chăm. - “Làm sao tôi có thể nói được chứ? Lũ trẻ... sau tất cả những gì chúng phải trải qua, chuyện này sẽ khiến chúng chết mất, trung úy à. Thậm chí làm sao chúng có thể bắt đầu hiểu nổi cơ chứ? Cả bạn bè tôi nữa?"- Karen lắc đầu, mắt ầng ậc nước. - “Tôi phải nói gì với họ đây, Trung úy? Rằng đây chỉ là một sai lầm điên rồ hay sao? Hay “Xin lỗi, Charlie chưa chết thực sự. Anh ấy chỉ lừa dối tôi trong một năm vừa qua thôi. Lừa dối tất cả chúng ta!” ư? Lúc đầu, tôi nghĩ có thể do mình đã từng nghe đến những trường hợp thoát khỏi những tình huống có thể thay đổi cuộc đời mình, anh biết đấy, tôi bị ảnh hưởng bởi điều đó....” - Karen đặt một ngón tay lên những mẫu khai của ngân hàng. - “Nhưng rồi tôi phát hiện ra những thứ này. Tôi đã nghĩ đến việc mang tất cả những thứ này đến cho Saul Lennick. Ông ta coi Charlie như con. Nhưng tôi sợ. Tôi nghĩ, chuyện gì sẽ xảy ra nếu Charlie đã làm một điều gì đó? Trung úy à, một điều gì đó tồi tệ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi có buớc đi sai lầm...? Chuyện đó sẽ ảnh hưởng tới mọi người ra sao. Tôi sợ tất cả những chuyện đó. Anh hiểu tôi muốn nói gì không? "
Hauck gật đầu, áp lực đè nặng rõ ràng trong giọng nói của Karen.
“Vì vậy, tôi đã đến đây.”
Hauck cầm số giấy tờ ngân hàng lên. Vì anh là cảnh sát nên đã nhiều năm qua anh học được cách không bộc lộ phản ứng của mình. Thu thập chứng cứ, một chút thận trọng, cho tới khi bức tranh toàn bộ sự thật trở nên rõ ràng. Anh nhìn số giấy tờ. Charlie Friedman đã tới đó.
“Cô muốn tôi phải làm gì bây giờ?”
“Tôi không biết nữa.” - Karen lắc đầu lo sợ. - “Tôi thậm chí còn không biết chồng mình đã làm gì. Nhưng đó phải là một điều gì đó... tôi biết, Charlie không làm việc này với chúng tôi. Anh ấy không phải là loại người như vậy.” - Cô hất lọn tóc che trước mặt, đưa gan bàn tay lau mắt, nước mắt nhòe nhoẹt. - “Sự thật là tôi không biết tôi muốn anh phải làm gì, trung úy à.”
‘‘Không sao.” - Hauck nắm tay Karen, quay lại nhìn lên màn hình máy tính. Anh nghĩ tới những phản ứng thường thấy ở một người bình thường. Có thể Charlie trải qua phản ứng do sốc mạnh - người ta gọi là chứng quên lãng - do vụ đánh bom gây ra. Nhưng những tờ mẫu ngân hàng kia đã nhanh chóng xóa ngay phản ứng đó. Hay nguyên nhân là Charlie có người phụ nữ khác? Biển thủ công quỹ? Hauck nhớ lại chuyện đã xảy ra với con gái Karen trong bãi đậu xe. Hai trăm năm mươi triệu đô la. Thế nhưng, Saul Lennick đã đảm bảo với anh rằng quỹ đầu tư của Charlie không hề bị ảnh hưởng.
“Nếu không phiền thì cô có thể cho tôi biết cô đã tìm thấy gì ở ngân hàng đó không?” - Hauck hỏi, tay chỉ vào bản ghi chép liên quan đến chiếc két sắt ký gửi.
“Tiền. ” - Karen thở hắt ra, - “Rất nhiều tiền. Và một quyển hộ chiếu. Trong đó có ảnh của Charlie với một cái tên hoàn toàn giả mạo. Một vài thẻ tín dụng...”
“Anh ấy đã để lại tất cả những thứ này sao?” - Cách đây một năm. - “Có thể đây là một dạng dự phòng.” - Hauck nhún vai. - “Tôi cho rằng cô hiểu điều đó, chuyện này hoàn toàn không phải là không có dự tính. Charlie đã lên kế hoạch trước đó.”
Karen cắn môi, gật đầu. - “Tôi hiểu.”
Nhưng Hauck hiểu rằng điều Charlie chưa bao giờ lên kế hoạch là làm thế nào để thực hiện được kế hoạch của mình. Chờ cho tới thời điểm thích hợp. Và ý nghĩ của anh dừng lại ở một cái tên khác. Thomas Mardy.
“Nghe này.” - Hauck quay ghế lại phía Karen. - “Tôi phải hỏi cô điều này, Charlie có bao giờ có những hành động như... cô biết đấy...”
“Làm sao cơ?” - Karen nhìn Hauck chăm chú. - “Anh ấy có chơi bời không ư? Tôi không biết. Cách đây một tuần tôi có thể nói điều đó là không thể. Nhưng giờ thì tôi sẽ vui mừng biết bao nếu điều không thể đó là thật. Anh ấy đã làm quyển hộ chiếu đó, cả những chiếc thẻ tín dụng đó nữa... Charlie đã lên kế hoạch cho mọi thứ. Trong khi chúng tôi đã ngủ chung giường. Trong khi Charlie vẫn tích cực động viên cổ vũ cho lũ trẻ ở trường học. Rồi anh ấy bằng cách nào đó thoát khỏi chiếc tàu bị đánh bom đó, thoát khỏi đám đông hỗn loạn mà nói: "Giờ thì kế hoạch sẽ diễn ra. Đến lúc rồi. Đã đến lúc phải bước ra khỏi cuộc đời mình."
Im lặng kéo dài tới mấy giây.
Cuối cùng, Hauck mím môi và lại hỏi: “Giờ cô muốn tôi phải làm gì?”
"Tôi không biết. Một phần tôi muốn ôm Charlie vào lòng mà nói rằng tôi rất hạnh phúc khi biết anh vẫn còn sống. Phần còn lại thì... khi tôi mở chiếc két đó ra và nhận ra rằng anh ấy đã dấu kín cả một phần đời của mình mà không hề cho tôi biết. Dấu kín cả với người gọi là người anh ấy yêu. Tôi không biết phải làm gì nữa trung úy à! Tát thẳng vào mặt Charlie chăng. Hay tống Charlie vào ngục. Tôi thậm chí còn không biết liệu anh ấy có phạm tội gì hay không. Ngoại trừ một điều là anh ấy đã khiến tôi phải đau khổ. Nhưng điều đó không quan trọng. Đó không phải là lý do tại sao tôi có mặt ở đây.”
Hauck kéo ghế gần lại với Karen hơn. - “Vậy thì tại sao?”
"Tại sao tôi lại ở đây ư? ” - Nước mắt lại chảy dài, vòng quanh đôi mẳt Karen. Cô nắm chặt hai bàn tay, gõ lên bàn một cách vô vọng, và Karen ngẩng lên nhìn Hauck: - “Quá rõ ràng, phải không? Tôi tới đây vì tôi chẳng còn biết đi tới đâu nữa!"
Hauck đi tới bên Karen ngay kịp lúc cô đổ gập xuống, nhẹ bẫng trong tay anh. Cô vùi mặt vào vai anh, hai nắm tay đấm mạnh vào người anh. Hauck giữ chặt lấy thân hình Karen, cảm nhận rõ từng luồng run rẩy của cô. Karen không hề rụt lại.
“Charlie đã chết! Tôi đã than khóc cho anh ấy, đã nhớ thương anh ấy. Tôi đã đau đớn khi nghĩ liệu rằng ý nghĩ cuối cùng của anh ấy có dành cho chúng tôi không. Chưa có một ngày nào mà tôi không ngừng ao ước được nói với Charlie một lần cuối. Để nói rằng tôi đã hy vọng rằng anh ấy bình an. Và giờ thì Charlie chưa chết...”
Karen hít sâu một hơi, lau nước mắt trên hai má ướt đẫm. - "Tôi không muốn dồn anh ấy vào đường cùng. Charlie đã làm những gì anh ấy làm, và chắc hẳn anh ấy phải có một lý do nào dó. Charlie không phải là một gã khốn, trung úy à, dẫu anh có nghĩ thế nào chăng nữa. Tôi thậm chí còn không muốn Charlie quay lại. Quá muộn mất rồi. Tôi thậm chí còn không biết mình cảm thấy thế nào nữa...
Tôi cho rằng mình chỉ muốn biết... Tôi chỉ muốn biết tại sao Charlie lại làm như vậy với tôi, trung úy à. Tôi muốn biết anh ấy đã làm gì. Tôi muốn nhìn thấy anh ấy và muốn được nghe anh ấy kể lại câu chuyện. Sự thật. Thế thôi.”
Hauck gật đầu. Anh siết chặt hai tay cô rồi thả ra. Gần bàn làm việc của anh là một hộp khăn giấy. Anh với tay lấy mấy chiếc đưa cho cô. Karen sụt sịt cười đáp lại. - “Cảm ơn anh.”
"Cũng là một phần công việc của tôi thôi mà. Mọi người dường như lúc nào cũng khóc khi đến đây.”
Karen bật cười, chấm nhẹ lên hai mắt và lên mũi. - “Trông bộ dạng tôi chẳc tơi tả lắm. Bất cứ lúc nào anh gặp tôi.."
“Không.” — Hauck nháy mắt. - “Ngoại trừ điều đó. Tuy vậy, cô luôn tạo ra những tình huống hấp dẫn.”
Karen lại gắng mỉm cười. - “Tôi còn không biết sẽ nhờ anh làm hộ điều gì.”
“Tôi biết điều cô nhờ tôi.” - Hauck đáp lại.
“Tôi không biết phải cầu cứu đến ai, trung úy à.”
“Cứ gọi tôi là Ty.”
Điều anh nói có vẻ như khiến cô ngạc nhiên. Cả hai cứ thế đứng yên mất vài giây, nhìn nhau. Karen hất mái tóc nâu vàng che đôi mắt còn đẫm nước.
“Thôi được.” - Cô hít sâu một hơi và gật đầu. - “Ty... "
“Và câu trả lời là ‘Được’ ” - Hauck ngả người ra phía sau chiếc ghế và gật đầu. - “Tôi sẽ giúp.”
Chương 33
Hauck đã gật đầu với Karen. Giờ anh xem lại đoạn phim.
Đúng vậy, anh sẽ giúp cô. Đúng, anh biết cô đang cần anh làm gì. Ngay cả khi anh biết rằng trong tình huống này anh có thể không bao giờ hoàn thành được nhiệm vụ.
Tối đó, Hauck lái chiếc Merrily ra ngoài vịnh. Ngồi trong bóng đêm, Hauck tắt máy, mặt nước tĩnh lặng, ánh đèn từ Stamford lung linh trên bờ vịnh.
Tại sao nhỉ? - Hauck tự hỏi.
Bởi anh không thể gạt bỏ được hình ảnh cô ra khỏi tâm trí? Hay bởi cảm giác mềm mại khi cô ngả vào người anh? Mùi hương ngọt ngào trên cơ thể Karen vẫn phảng phất đâu đây, khiến mỗi sợi lông tơ trên cánh tay Hauck dựng lên, mỗi tế bào thần kinh như bừng tỉnh sau giấc ngủ dài.
Liệu đó có phải là lý do không, Ty? Chỉ vậy thôi? Hay có thể đó là do khuôn mặt đã hằn sâu trong tâm trí anh từ lúc ngồi trên mạn thuyền với lon đồ uống Harpoon Ale trong tay. Khuôn mặt, Hauck mang theo bên mình đã nhiều tháng nay nhưng giờ nó bỗng quay lại, sống động đến đáng sợ.
Đó là Abel Raymond.
Những giọt máu đang rỉ ra từ mái tóc đỏ dài của cậu thanh niên. Hauck quỳ xuống bên cái xác mà hứa rằng anh sẽ tìm ra thủ phạm.
Charlie Friedman chưa chết.
Thomas Mardy. Là thanh tra doanh nghiệp kiểm tra tín dụng. Ông ta đã có mặt ở Cos Cob vào lúc 7 giờ 57 phút ngày hôm đó và chết trên chuyến tàu tới nhà ga Trung tâm trong một vụ đánh bom. Thế nhưng không biết bằng cách nào mà thẻ tín dụng của ông vẫn được sử dụng để trả tiền cho chuyến xe chạy tới Greenwich ba giờ đồng hồ sau đó.
Giờ thì Hauck đã hiểu lý do tại sao.
Anh băn khoăn không hiểu chiếc Mustang có phải là một phần của sự trùng lặp ngẫu nhiên hay không? Người tình của Charlie... Nó đã cho Charlie ngã ngựa. Vậy thì nó có thể làm vậy với bất cứ ai.
Nhưng giờ đây, nhìn thấy khuôn mặt Charlie trên màn hình, anh biết - và hiểu rõ hơn Karen có thể hiểu - chồng Karen đã làm gì giữa khoảng thời gian bị máy ghi hình chụp lại khi chạy ra khỏi nhà ga và kết thúc nhiều giờ sau ở nơi ký gửi tại ngân hàng.
Kẻ khốn kiếp vẫn chưa chết.
Chiều hôm đó, Hauck đã kiểm tra tên Charlie trên Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia. Kiểm tra tài sản thông thường - thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng, thậm chí cả số liệu về nhập cư. Khi đem những thông tin đó tới cho Hauck, Freddy Munoz gõ của phòng với thái độ dò hỏi. - “Gã này đã chết rồi mà trung úy. Chết vào ngày mùng chín tháng tư.”
Không có thông tin gì cả, nhưng Hauck không ngạc nhiên. Charlie Friedman và AJ Raymond có liên hệ với nhau. Và liên hệ đó không phải vì chiếc Mustang màu đồng. Đó là tất cả những gì giờ đây anh biết. Họ có hai cuộc sống khác nhau, rất khác nhau. Nhưng cả hai đã có liên hệ với nhau.
Vậy thì đó là vì cái quái quỷ gì kia chứ?
Hauck kiểm tra lần cuối trong phần thông tin cảnh sát quốc tế. Câu trả lời không nằm ở đó. Cậu thanh niên có gia đình ở Pensacola. Anh trai cậu ta đã tới để nhận lại đồ đạc. Bố cậu là đội trưởng cầu cảng. Hauck vẫn nhớ tấm hình của ông trong số những vật dụng của AJ.
Đúng, anh sẽ giúp Karen, anh đã nói vậy. Hauck rời ghế đứng dậy, khởi động máy. Chiếc Merrily khùng khục cất tiếng nổ.
Anh sẽ giúp Karen. Anh chỉ hy vọng cô sẽ không phải hối hận với bất cứ điều gì anh phát hiện ra.
oOo
"CARL, TÔI CẦN NGHỈ một thời gian.” - Hauck gõ cửa phòng làm việc của sếp. - “Tôi phải giải quyết một số vấn đề tồn đọng."
Carl Fitzpatrick, cảnh sát trưởng Greenwich, đang ngồi phía sau bàn làm việc, chuẩn bị cho cuộc họp sắp tới. - “Được mà, Ty. Vào đi, ngồi xuống xem nào.” - Carl xoay chiếc ghế quanh bàn làm việc và quay lại với tập tài liệu ghi lịch làm việc. - “Chúng ta đang nói tới khoảng thời gian bao lâu nhỉ, vài ngày được không?”
"Tôi cần nghỉ một vài tuần.” - Hauck đáp lại không ngần ngừ. - “Có thể lâu hơn nữa.”
"Vài tuần?” - Fitzpatrick ngước mắt nhìn Hauck chăm chăm qua cặp kính. - “Tôi không thể cho phép cậu nghỉ với khoảng thời gian như vậy được.”
Hauck nhún vai. - “Có thể lâu hơn.”
"Chúa ơi, Ty...” - Carl vứt cặp kính xuống mặt bàn, nhìn thẳng vào mắt Hauck. - “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
"Tôi không thể nói được. Hiện tại mọi việc đều tương đối ổn. Nếu có vấn đề gì xảy ra thì Freddy và Zaro có thể giải quyết tốt. Tôi chưa bao giờ nghỉ quá một tuần trong năm năm vừa qua.”
“Mọi việc vẫn ổn chứ, Ty? Chuyện này liên quan đến Jess phải không?”
“Không, Carl à, mọi việc đều rất ổn.” - Fitzpatrick và Hauck là bạn, còn anh lại ghét những gì mập mờ. — “Đây là một việc mới xảy ra mà tôi phải kiểm tra.”
“Mất vài tuần...” - Carl đưa tay gãi gáy, sắp xếp lại tập hồ sơ. - “Cho tôi vài ngày. Tôi sẽ sắp xếp lại mọi việc ở đây. Khi nào cậu nghỉ?”
“Ngay ngày mai.”
“Ngày mai. ” - Fitzpatrick trợn mắt. - “Ngày mai không thể được, Ty à. Điều này hoàn toàn bất ngờ với tôi.”
“Với anh có lẽ là vậy.” - Hauck chậm rãi đứng dậy. - “Nhưng với tôi thì lại quá chậm chạp.”
Chương 34
Chuông cửa vang lên. Tobey vừa sủa vừa lao vụt ra phía cửa. Alex đang học ở nhà bạn chuẩn bị cho một môn thi. Samantha đang nói chuyện điện thoại trong phòng khách, hai chân đu đưa phía sau băng ghế trường kỷ. Trên ti vi đang chiếu bộ phim Người hùng.
“Mẹ mở cửa hộ con được không?"
Karen vừa lau xong nhà bếp. Cô vứt tấm giẻ lau xuống và đi ra mở cửa. Mắt cô sáng lên ngạc nhiên khi nhìn thấy người khách đang đợi.
“Có một vài việc cần đến sự giúp đỡ của cô,” - viên trung úy nói, co người trong tấm áo mưa màu be, ngoài trời mưa nhẹ.
“Con gái tôi đang ở nhà,” - Karen nói, đưa mắt nhìn về phía phòng khách, không muốn làm ảnh huởng tới cô con gái. Cô vơ lấy một chiếc áo mưa trên băng ghế dài, khoác lên vai và bước ra ngoài. - “Có chuyện gì vậy?”
“Hãy xem lại tất cả những vật dụng của Charlie. Cả những mẩu giấy ghi chép dán trên bàn làm việc, séc đã hủy, hóa đơn tín dụng. Bất cứ thứ gì quanh mình. Cô có truy nhập được vào máy tính của Charlie không?”
Karen gật đầu. Chưa bao giờ Karen đủ can đảm để dọn tất cả những thứ đó ra khỏi phòng làm việc của Charlie. Vẫn chưa phải lúc để làm việc đó. - “Tôi nghĩ là được.”
“Tốt. Hãy kiểm tra tất cả thư điện tử lưu, bất cứ trang web lữ hành nào Charlie có thể đã truy cập trước khi ra đi, cả nhật ký cuộc gọi nữa. Còn việc này nữa, những thứ liên quan đến công việc của Charlie. Chúng còn ở đó hay không?”
“Tôi vẫn giữ một số thứ người ta gửi lại cho tôi, để cả trong một chiếc hộp tầng dưới nhà. Tôi không chắc là máy tính cơ quan của Charlie ở đâu. Tôi cần phải tìm những gì?”
“Bất cứ thứ gì có thể giúp xác định nơi Charlie có thể đến. Thậm chí là nếu không giúp xác định được nơi Charlie đến thì ít nhất những thứ đó cũng xác định được điểm xuất phát của Charlie. Những thông tin để chúng ta có thể tiếp tục điều tra được...”
Karen đưa tay lên đầu che mưa.- “Đã hơn một năm rồi,”
"Tôi biết, đã hơn một năm rồi. Nhưng vẫn còn những bản ghi chép. Cô hãy liên lạc với thư ký trước đây của anh ấy hoặc hãng lữ hành anh ấy thường đi. Có thể họ đã gửi cho Charlie những bản thông tin đi lại hoặc đặt chỗ trước mà không ai nghĩ là quan trọng ở thời điểm đó. Cô cố thử nghĩ xem Charlie có thể đi đâu. Hai người đã chung sống mười tám năm rồi kia mà.”
“Anh không cho là tôi đã nghĩ nát óc ra rồi sao?” - Mưa bắt đầu nặng hạt dần lên. Karen khoanh tay quanh ngực vì lạnh. - “Tôi sẽ tìm lại xem sao.”
“Tôi sẽ giúp cô sắp xếp một phần việc này nếu cần thiết.”- Hauck nói. - “Tất nhiên là khi nào tôi quay trở về.”
“Khi nào anh về? Anh đi đâu?”
“Pensacola.”
"Pensacola? ” - Karen nheo mắt nhìn Hauck. - "Làm gì kia? Vì việc của tôi ư?”
"Tôi sẽ cho cô biết,” - Hauck đáp lời. - “ngay sau khi việc này được làm sáng tỏ. Trong lúc này tôi muốn cô xem lại toàn bộ những gì cô có. Cố gắng nghĩ lại. Bao giờ cũng có một manh mối nào đó. Một điều gì đó của một người để lại. Tôi sẽ liên lạc với cô khi trở về.”
"Cảm ơn anh” - Karen nói, cô đặt một tay lên chiếc áo mưa của Hauck, mưa đẫm trên khuôn mặt. Mắt cô bỗng nhòe nước. Đã lâu lắm rồi cô mới có được cảm giác có sự hiện diện của một người nào đó trong cuộc đời mình, mà đó lại là một người đàn ông, người mà cô chẳng biết được bao nhiêu về anh, người đã bước vào cuộc đời cô khi cô đang trong tình trạng rối bời sau cái chết của Charlie. Anh đã thấy cô, ngả nghiêng như con tàu giữa những con sóng trong cơn bão tố, và giờ anh là người duy nhất cô có thể níu vào trong thế giới này, như chiếc mỏ neo cho con tàu cuộc đời. Thật lạ.
"Trung úy à, xin lỗi đã lôi anh vào tất cả những chuyện này. Tôi biết công việc của anh cũng đã đủ nặng lắm rồi.”
“Cô không lôi tôi vào chuyện này.” -Hauck lắc đầu.- “Hơn nữa, việc này không nằm trong công việc của tôi ”
“Nghĩa là sao?”
“Cô không muốn công khai việc này phải vậy không? Cô cũng không muốn tôi phải giải quyết bất cứ điều gì xảy đến. Tôi cũng không đủ khả năng để làm điều đó, nếu tôi có mặt ở đó.”
Karen nhìn Hauck bối rối: - “Tôi không hiểu.”
“Phải mất vài tuần." - Hauck bảo, nước mưa chảy xuống cổ áo. Anh nháy mắt. - “Đừng lo về chuyện này. Tôi cũng không biết phải làm gì trong khoảng thời gian ấy. Nhưng chỉ có mình tôi thôi. Không với danh nghĩa cảnh sát. Không có ai đi cùng nữa cả.” - Đôi mắt xanh biếc của Hauck ánh lên khi nụ cười thoảng qua. - "Tôi hy vọng là ổn.”
Liệu có ổn không? Karen không biết cô chờ đợi điều gì khi tới gặp Hauck. Có lẽ chỉ là cần một ai đó có thể lắng nghe. Nhưng giờ thì tim cô đã tan chảy với những gì anh đang sẵn lòng làm vì cô.
“Vì sao...?”
Hauck nhún vai. - “Tất cả mọi người khác - họ hoặc là thực sự bận bịu với công việc hoặc đơn giản chỉ là cần được trả lương.”
Karen mỉm cười, nhìn Hauck. Một cảm giác biết ơn, ấm áp trào lên trong cô. - “Ý tôi là vì sao anh lại làm việc này, trung úy?”
Hauck đổi chân đứng: - “Tôi cũng không thực sự biết tại sao.”
"Anh biết mà. ” — Karen nhìn Hauck. Cô đưa tay hất một lọn tóc ướt đang sà xuống trước mắt. - “Anh sẽ cho tôi biết khi đến thời điểm cần thiết. Nhưng dù sao cũng cảm ơn anh, trung úy. Dẫu điều đó có là gì.”
“Tôi nghĩ chúng ta đã nói về điều này rồi.” - Hauck nói. - “Hãy gọi tôi là Ty.”
“Được rồi. Ty.”
Ánh mắt cô bỗng trở nên ấm áp đầy lòng biết ơn. Karen đưa tay ra. Hauck nắm lấy bàn tay. Họ cứ đứng như vậy, mưa tuôn ào ạt trên đầu.
"Hãy gọi tôi là Karen.” - Karen ngẩng nhìn Hauck. - “Rất vui được gặp anh, Ty"
Chương 35
Gregory Khodoshevsky tăng ga chiếc mô-tô thể thao ba bánh T-Rex trị giá bảy mươi ngàn đô la. Chiếc mô-tô ba trăm mã lực vọt lên trong sân đua dựng tạm trên diện tích hai mươi mẫu Anh trong khu bất động sản Greenwich. Theo sát phía sau là cậu ấm mười bốn tuổi, Pavel, trong chiếc T-Rex màu đỏ, đang liều lĩnh bám đuổi.
"Nào, con trai!” Khodoshevsky cười to qua chiếc mi-crô gắn trong mũ bảo hiểm trong khi vòng qua bục tròn hình nón, vượt qua phía sau lưng cậu con trai ở phía bên kia. - “Con không để lão già khốt ta bít này vượt mặt chứ hả?”
Pavel mở cua đột ngột, khiến chiếc mô-tô gần như tung lên. Sau đó, cậu lấy lại thẳng hướng và tăng tốc lên gần sáu mươi dặm một giờ, bay vọt lên khi chạy qua một mô đất nhỏ.
“Con đang bám ngay sát phía sau đây, ông già khốt ta bít ơi!"
Cả hai tăng tốc quanh chiếc ao nhân tạo, chạy ngang qua sân đỗ trực thăng, vòng lại con đường thẳng tắp trong khu bất động sản của Khodoshevsky. Trên đỉnh đồi là khu nhà kiểu Gru-di-a rộng mười tám nghìn phút vuông xây bằng gạch đỏ đứng như một lâu đài sừng sững với khoảnh sân rộng lớn có đài phun nước và dãy ga-ra tám khoang đang nằm trễ nải. Trong đó, Khodoshevsky để một chiếc Lamborghini Murcielago, một chiếc Hummer màu vàng dành để Ludmila, vợ ông, đi dạo quanh phố; một chiếc Mercedes Maybach hoàn thiện với lớp kính chống đạn và bộ phận bắt tín hiệu vệ tinh Bloomberg. Chỉ riêng số xe này đã ngốn của ông hết nửa triệu đô la.
Mặc dù mới bốn mươi tám tuổi, Khodoshevsky, đôi lúc được người ta gọi với cái tên là “Gấu Đen,” là một trong những người quyền lực nhất trên thế giới, dẫu rằng người ta không thể tìm được tên tuổi ông ta trong bất cứ danh sách nào. Trong một chính quyền tham nhũng tràn lan chuyển đổi sang tư nhân hóa như ở Nga vào những năm 1990, Khodoshevsky đã thuyết phục được một ngân hàng đầu tư của Pháp mua lại một nhà máy sản xuất phụ tùng ô-tô đang làm ăn thua lỗ ở Irkutsk, sau đó nhảy vào ban quản trị của Tazprost, nhà sản xuất ô-tô lớn nhất - và yếu kém nhất - của Nga, rồi sau cái chết đột ngột của hai thành viên trong ban quản trị ngang ngạnh, vị trí đứng đầu đã rơi vào tay Khodoshevsky khi mới ba mươi sáu tuổi. Từ vị trí đó, Khodoshevsky có quyền mở đại lý phân phối cho Mercedes và Nissan ở Estonia và Latvia, cùng với hàng trăm trạm xăng Gaznost trên khắp lãnh thổ Nga.
Dưới thời Yeltsin, nền kinh tế Nga giống như một khuôn mặt với những vết cứa nhằng nhịt dưới bàn tay của những gã tư sản háo hức với thời cuộc. Theo cách gọi của Khodoshevsky thì đó chẳng khác nào một cửa hàng bánh kẹo khốn kiếp. Trong cuộc loạn đả cuối cùng để trở thành khu vực tài chính công đó, Khodoshevsky đã mở nhiều cửa hàng bách hóa lớn theo mô hình của Harrods chuyên bán các mặt hàng đắt tiền của phương Tây. Ông mua được độc quyền phân phối các loại rượu vang và sâm banh đắt tiền của Pháp. Sau đó là đến lượt các nhà băng và cả các đài phát thanh. Thậm chí cả một hãng hàng không giá rẻ nữa. Hiện tại, qua một công ty mẹ, Khodoshevsky trở thành chủ khách sạn tư nhân lớn nhất Champs-Élysées1!
Trong thời gian mở rộng quyền lực của mình, Khodoshevsky đã làm nhiều điều đáng ngờ. Nhiều bộ trưởng phụ trách kinh tế thương mại trong chính phủ của Putin nằm trong danh sách trả lươrng của Khodoshevsky. Rất nhiều đối thủ của ông bị bắt hoặc bị kết án tù. Không ít đối thủ đã bị thủ tiêu bằng nhiều cách, từ việc ngã từ cửa sổ phòng làm việc hay gặp tai nạn ô-tô không ai lý giải được trên đường đi làm về. Hiện giờ, dòng tiền mặt đầu tư của Khodoshevsky còn lớn hơn cả một nền kinh tế cỡ vừa. Ở nước Nga, nếu có thứ gì không mua được bằng tiền thì Khodoshevsky đánh cắp.
May mắn là Khodoshevsky không phải là loại người mà lương tâm khiến ông ta phải thức giấc lúc nửa đêm. Hàng ngày ông gặp gỡ với đại diện của nhiều nhân vật có thế lực - từ châu Âu, Nam Mỹ, và cả thế giới Ả Rập. Đây là những người có tiềm lực tài chính lớn đến độ về cơ bản thì dòng tài chính đó điều khiển cả thế giới. Đó là dòng tiền đã tạo ra một nền siêu kinh tế, khiến giá bất động sản nhảy vọt, các mặt hàng xa xỉ đua nhau ra đời, khiến các nhà sản xuất du thuyền luôn phải bận bịu, chỉ số chứng khoán phố Wall tăng cao. Họ điều hành các nền kinh tế theo cách IMF đã từng điều hành các quốc gia: mua trọn sản lượng than ở Smolensk, toàn bộ các cánh đồng mía ở Costa Rica để điều chế ê- ta-non, và các nhà máy sắt thép ở Việt Nam. Dẫu đồng tiền có mất giá đến đâu thì họ bao giờ cũng là người được lợi trên cùng. Đó chính là nghề buôn bán Khodoshevsky đã tạo ra. Quỹ đầu tư hợp tác của các quỹ đầu tư khác! Không bao giờ có thất bại ở đây.
Ngoại trừ hôm nay khi ông thư giãn một chút với cậu con trai của mình. - “Nào, Pavel, hãy thể hiện cho bố xem con là người thế nào. Tăng tốc lên đi!”
Cả hai cùng cười và tăng tốc tiến vào đoạn đường thẳng cuối cùng, rồi cua quanh đài phun nước khổng lồ trong sân trước ngôi nhà. Hai chiếc T-Rex máy nóng rực bất ngờ tăng tốc như hai chiếc ô-tô loại nhỏ. Cả hai nhảy vọt trên con đường trải sỏi kiểu Bỉ để tiến về đích.
“Bố đuổi kịp con rồi, Pavel!” - Khodoshevsky kêu to khi tiến gần tới cậu con trai.
“Tin con đi, bố già!” - Cậu con trai cả quyết kéo ga và cười lớn.
Ở cung đường cua cuối cùng, cả hai đều tăng hết tốc lực. Xe nọ thúc vào bánh xe kia, rít lên, tóe lửa. Khodoshevsky lảo đảo quệt vào bồn đài phun nước khổng lồ thiết kế kiểu ba-rốc ông mới mua từ Pháp về. Gầm chiếc T-Rex làm bằng sợi thủy tinh bẹp dúm như một tờ giấy. Pavel giơ hai tay lên trời khi chạy ngang qua bố. “Con thắng rồi!"
Khodoshevsky khó nhọc bước ra khỏi chiếc xe sứt sẹo. Đúng là thất bại hoàn toàn, ông rầu rĩ. Vậy là mất toi bảy mươi ngàn đô. Pavel cũng nhảy ra khỏi xe, chạy lại: - “Bố có sao không?"
“Trông bố có ổn không?" - Khodoshevsky nhấc mũ bảo hiểm, đưa tay vỗ vỗ quanh người kiểm tra. Khuỷu tay có một vết xước nhỏ. - “Không gẫy cái gì. Cú vượt tốt lắm, con trai ạ! Rất vui, đúng không nào? Con sẽ trở thành một tay đua đấy. Giờ thì giúp bố quăng cái đống rác này vào trong ga-ra trước khi mẹ mày thấy.” — Khodoshevsky vò tóc cậu con trai. - “Còn ai khác có thể có được những món đồ chơi như thế này chứ hả?”
Cùng lúc đó, chuông điện thoại vang lên. Khodoshevsky rút chiếc BlackBerry ra khỏi túi quần jeans. Ngay lập tức, ông ta nhận ra số điện thoại gọi tới. - “Bố sẽ đến ngay.” - Khodoshevsky vẫy Pavel. - “Công việc làm ăn, con trai ạ.” - ông ngồi trên thành đài phun nước, bật điện thoại, tay đưa lên vuốt mái tóc rối bù.
“Khodo nghe đây. ”
Đầu dây bên kia vang lên giọng nói của người chủ nhà băng tư nhân mà Khodoshevsky quen biết, - “Tôi gọi để báo cho ông biết rằng số tiền chúng ta nói tới trước đây đã được chuyển. Tôi sẽ tự chuyển đến cho anh ta phần hàng cuối cùng.”
“Tốt.” — Khodoshevsky khịt mũi. — “Hắn chắc chắn phải có hình của ông, để lấy được lòng tin của ông sau khi đã gây ra cả một đống bừa bộn vào năm ngoái, ông phải cho hắn thấy cái giá của việc làm ăn với chúng ta là thế nào. Lần này ông sẽ thấy là hắn sẽ hiểu, hiểu rất rõ”.
“Ông cứ tin tưởng vào tôi.” - Gã chủ nhà băng người Đức đáp lời. - “Tôi sẽ gửi tới hắn ta lời hỏi thăm tốt đẹp nhất của ông.”
Khodoshevsky cúp máy. Đây không phải là lần đầu tiên bàn tay ông nhúng máu. Và chắc chắn đây cũng chẳng phải là lần cuối. Người đàn ông đó đã từng là bạn tốt. Khodoshevsky đã đi ăn nhiều lần với anh ta, đã uống rất nhiều rượu, nhưng điều đó không quan trọng. Khodoshevsky nghiến chặt hai hàm. Không ai mất tiền mà không cảm thấy như vậy.
Không ai cả.
“Nào, con trai.” - Khodoshevsky đứng dậy đi tới vỗ vai Pavel: - “Giúp bố dọn cái đống hổ lốn này vào trong ga-ra nào. Bố còn một chiếc mới tinh ở trong ấy nữa. Sao nhỉ, có cho ông già này thêm một cơ hội nữa không?”
Chú Thích:
1 Champs-Élysées: một đại lộ lớn ở Pa-ri dẫn tới điện Concorde.
Chương 36
Xin lỗi bị nhẩy chương
Chương 37
Pappy Raymond đang ngần ngại. Tại sao ông ta lại phản đối Hauck quyết liệt đến vậy? Hauck cũng hiểu rằng ông già này là người không dễ gì có thể thay đổi được. Trên đường quay trở lại khách sạn Habour Inn nhìn ra vịnh Pensacola, nơi anh đang ở, Hauck dừng lại ở một cửa hàng quà tặng để mua một chiếc áo phông cho Jesss, trên áo là hàng chữ ĐỒI PENSACOLA. Cuối cùng, anh quyết định uống một vại bia Seminole dưới quán bar rồi nhảy lên giường, với tay bật kênh CNN: Một vụ nổ ở khu lọc dầu ở Lagos, Nigeria đã xảy ra. Hơn một trăm người thiệt mạng. Kết quả là giá dầu tăng mạnh trong ngày hôm nay.
Anh với tay lấy số điện thoại của Pete, anh trai AJ Raymond. Pete đã tới Greenwich sau khi vụ tai nạn xảy ra, để nhận lại đồ dùng cá nhân của AJ.
Anh bấm số. Pete hẹn gặp anh ở quán bar sau ca trực vào ngày hôm sau.
Bow Line nằm phía dưới cảng, nơi Pete làm công việc hoa tiêu cầu cảng như bố mình, sau khi rời khỏi lực lượng gìn giữ bờ biển hai năm trước đây.
“Cứ như thể có điều gì đó vừa mất đi ở ông.” - Pete nói trong khi ngửa cổ tu một ngụm bia. - “AJ bị sát hại. Dẫu chưa ai nói rằng ông như kẻ mất hồn, nhưng có ngày ông muốn làm tất cả những gì có thể về điều đã xảy ra, nhưng ngay hôm sau, điều đó tưởng chừng như đã là quá khứ. Thậm chí còn cấm không ai được nhắc tới nữa. Ông không bao giờ chia sẻ những gì ông đang phải trải qua.”
“Cậu nghĩ một phần trong đó là cảm giác tội lỗi ư?”
"Tội lỗi?"
Hauck nhấp một ngụm bia. - “Tôi đã điều tra một số người, Pete ạ. Và tôi nghĩ bố cậu đang dấu điều gì đó.”
“Về AJ sao?” - Pete nhún vai, đưa tay vuốt lại mái tóc về phía sau chiếc mũ Jacksonville Jaguars của mình. - “Trước đó đã xảy ra một chuyện gì đó... Những người nói chuyện với bố tôi bảo rằng ông ấy đang che dấu một điều gì đó mà ông lỡ đụng chạm tới. Có vài chuyến tàu mà ông cho rằng đã khai khống lượng hàng hóa trên đó. Giống như một điều gì đó rất quan trọng liên quan tới an ninh quốc gia. Ông ấy đã làm lớn chuyện.”
“Và rồi đã xảy ra vụ việc với AJ, và thế là mọi việc đều kết thúc với ông.” - Pete búng ngón tay. - “Đèn đã tắt. Dẫu đó có là cái gì thì tôi cũng không còn bao giờ được nghe thấy bố tôi nhắc lại nữa. Cứ như thể là ngay ngày hôm sau, mọi việc đã được chôn chặt vậy.”
“Tôi không có ý thúc ép cậu phải nói ra điều đó.” - Hauck nói, tay nghiêng chai bia. - “Tất cả những gì tôi muốn là tìm ra kẻ đã giết em trai cậu. -Tôi tin chắc đây là một vụ án mạng. Cậu còn quen ai có thể cho tôi biết thêm thông tin về vụ này không?”
Pete trầm ngâm: - “Tôi có thể giới thiệu cho anh một vài cái tên. Đó là những người bạn cũ của bố tôi. Mặc dù tôi cũng không chắc về điều khiến anh nghĩ tất cả những chuyện này liên quan đến nhau.”
Hauck đặt tiền lên quầy thanh toán: - “Như vậy là anh cũng giúp đỡ tôi nhiều lắm rồi.”
“Ba mươi năm.. " - Pete đứng dậy, uống cạn chỗ bia. - “Bố tôi coi nơi đó như nhà. Không có gì xảy ra mà ông không biết hay ông không làm. Giờ thì cứ nhìn ông mà xem. Bố tôi luôn là một người cứng rắn, nhưng tôi cũng không gọi đó là đau khổ. Ông đã đối mặt với những gì xảy ra với em trai tôi một cách khó khăn. Khó khăn hơn tôi nghĩ. Nhất là khi hai người chẳng mấy khi có đồng quan điểm khi AJ còn sống.”
NGÀY HÔM SAU Hauck đi vài vòng quanh cảng. Sáng sớm đã có một vài tàu chở hàng loại trọng tải lớn nhập cảng. Những chiếc cần cẩu khổng lồ và máy nâng thủy lực đang rít lên khi tháo dỡ hàng loạt công-ten-nơ.
Hauck gặp Mack Tyler, người lái tàu kéo với nước da xạm nắng và khuôn ngực rộng, tại phòng hoa tiêu, ông vừa mới trở về sau một ca dẫn tàu.
Ban đầu Tyler tỏ ra thận trọng. Ở đây người ta phải tự bảo vệ lấy chính mình, trong khi lại xuất hiện một viên cảnh sát từ tận miền Bắc tới với đủ các loại câu hỏi. Cần phải có một chút tinh tế mới đủ để Hauck khiến Tyler trở nên cởi mở.
“Tôi nhớ có lần tôi đã cùng ông ấy vào ca trực ngoài đó.” - Tyler nói, lưng dựa vào bức tường chắn, châm một điếu thuốc. - “Ông ấy định lên kiểm tra một con tàu nào đó trước đó chúng tôi đã dẫn vào cảng. Trước đó, Pappy luôn nhắc đến một số tàu ông ta đã từng thấy nộp tờ khai sai với thực tế. Những chuyến tàu đó nếu chở đầy hàng như trong chứng từ thì không thể nổi cao trên mặt nước đến vậy được. Tôi nghĩ ông ấy thậm chí đã có lần lẻn xuống khoang chứa hàng của một chiếc như vậy.
Lần này, chúng tôi dừng lại bên mạn tàu,” - Tyler nhả một hơi thuốc. - “khi cầu tàu đang dần hạ xuống và Pappy chuẩn bị lên boong thì điện thoại của ông vang lên. Mới chỉ hơn năm giờ sáng. Pappy mở điện thoại rồi bỗng nhiên hai chân ông ấy như khuỵu xuống, mặt tái nhợt đi - như thể một cơn nhồi máu cơ tim. Chủng tôi gọi một ca mới ra thay. Tôi phải đưa Pappy vào bờ. Ông ấy nhất quyết không chịu gặp bác sỹ. Ông ấy bảo rằng đó chỉ là do quá hoảng sợ mà thôi. Tại sao ông ấy lại không nói cơ chứ? Hoảng sợ cái quái gì chứ?"
"Ông còn nhớ lúc đó là khi nào chứ” - Hauck hỏi.
"Chắc chắn rồi, tôi nhớ chứ.” - Người thủy thủ già nhả thêm một chùm khói. - "Không lâu sau cái chết của AJ.”
Sau khi đã gặp Tyler, tại một quán cà phê gần khu sân của kho hải quân, Hauck gặp Ray Dubose, một trong những hoa tiêu của cảng.
“Mọi việc lúc đó bắt đầu trở nên quái gở,” - người đàn ông to lớn với mái tóc hung hung đưa tay xoa xoa khoảng đầu hói nói. - “Pappy nói với tất cả mọi người về một công ty dầu lửa nào đó đã khai man tàu hàng của mình. Cả việc những con tàu đó đã nổi cao ra sao trên mặt nước. Việc ông ấy đã nhìn thấy những con tàu đó trước đây nữa. Tất đều của cùng một công ty. Cùng một lô-gô - hình cá voi hay cá mập gì đó, có thể vậy. Tôi cũng không nhớ nổi.”
“Sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Quản lý cảng bảo Pappy dừng chuyện đó lại.” - Dubose nhấp một ngụm cà phê. - “Đó là chuyện đã xảy ra. Và đó là việc của hải quan, không phải của chúng tôi. ‘Pappy, chúng ta chỉ có nhiệm vụ kéo những con tàu đó vào.’ Quản lý cảng nói vậy. Nhưng Pappy, Chúa ạ, tiếp tục gây sức ép, làm om sòm sang bên hải quan, như thể vấn đề ông ấy đang lôi ra liên quan tới an ninh quốc gia và Pappy là Bruce Willis (1) hay tương tự vậy."
"Rồi sao nữa?"
Dubose nhún vai. - “Mọi người đều bảo ông ấy ngừng việc kiện tụng đó lại, thế thôi. Nhưng Pappy có bao giờ là người nghe lời đâu. Đúng là một lão già cứng đầu ngu xuẩn. Anh biết những người như thế là thế nào không? Sinh ra đã vậy rồi. Nhưng dẫu sao thì tôi vẫn nhớ lão già Pappy khốn kiếp ấy quá. Ngay sau khi con trai chết, Pappy đóng gói ba mươi năm đã làm việc lại và tuyên bố từ bỏ công việc. Rất cương quyết.
Nhưng điều đáng nực cười ở đây là...” - Dubose bóp nát chiếc cốc cà phê và ném nó vào thùng rác cạnh tường. - "Sau khi sự việc đó xảy ra, tôi không còn thấy ông ấy nói chút gì về những con tàu ngu xuẩn kia nữa.”
Hauck cảm ơn Dubose rồi lái xe trở về khách sạn. Cả buổi chiều còn lại, anh ngồi trên chiếc ban công nhỏ nhìn ra khu vịnh Pensacola xanh biếc và suy nghĩ.
Raymond đang che dấu điều gì đó. Hauck có cảm giác chắc chắn về điều đó. Trước đây anh đã từng gặp những gương mặt như vậy hàng trăm lần rồi. Những khuôn mặt như muốn nói Chẳng có gì anh làm có thể giúp tôi được nữa...
Có thể đó chỉ là cảm giác tội lỗi khi đã đẩy con mình đi xa. Và điều tồi tệ đã xảy ra sau đó. Hoặc cũng có thể là nhiều điều hơn nữa. Rằng vụ tai nạn không đơn giản là ngẫu nhiên. Đó là lý do tại sao người ta không thể tìm được chiếc xe thể thao nào giống với chiếc xe nhân chứng miêu tả. Tại sao lại chẳng có ai khác nhìn thấy chiếc xe đó. Có lẽ kẻ nào đó đã chủ ý tìm cách sát hại AJ Raymond.
Và Hauck chắc chắn rằng vụ này có liên quan tới những con tàu chở dầu ngoài kia.
Hauck nhấp một ngụm bia. Anh nghĩ tới việc gọi về cho Karen xem cô tìm được thông tin gì hay không. Nhưng tâm trí Hauck không thể nào thoát ra khỏi ánh mắt cứng rắn của người thủy thủ già ấy.
Chú thích:
1 Bruce Willis: diễn viên, nhà sản xuất phim người Mỹ sinh năm 1955, nổi tiếng với những vai diễn trong các bộ phim ‘Giác quan thứ sáu,' 'Khủng bố sân bay’...
Chương 38
Karen xem lại một lượt vật dụng của Charlie để lại theo yêu cầu của Hauck. Cô mở mấy chiếc thùng các-tông trước đó đã được xếp vào tầng hầm, cố gắng không gây sự chú ý của lũ trẻ. Đó là những tập hồ sơ chồng đầy lên tận nắp hộp mà Heather, thư ký của Charlie, đã gửi về cho cô với mẩu tin nhắn: Bà chắc chẳng biết trong đó chứa những thứ gì đâu. Nhưng có thể có thứ gì đó bà muốn giữ lại. Trong đó là một số sách hướng dẫn cho những chuyến du lịch trước đây của gia đình cô. Thông tin liên quan ngôi nhà nghỉ trượt tuyết mà gia đình cô đã thuê năm nào đó ở Whistler. Rồi thư từ, cơ man nào là thư. Một loạt những thứ liên quan tới chiếc Mustang mà Charlie đã yêu cầu Karen, viết trong di chúc của anh, không bán.
Cơ bản đó là tất cả những gì liên quan tới cuộc sống họ đã từng chung sống. Những thứ Karen chưa bao giờ có đủ can đảm để xem lại, nhưng không có thứ gì có thể giúp ích được cho điều cô cần. Đôi lúc cô ngồi bần thần thất vọng, lưng dựa vào tường tầng hầm, thầm nguyền rủa. Charlie, tại làm sao anh lại làm thế với em và các con?
Rồi cô lại soát lại một lượt chiếc máy tính vẫn đang nằm trên bàn làm việc của Charlie. Đây là lần đầu tiên cô bật nó lên sau khi vụ nổ bom xảy ra. Nghe có vẻ khó hiểu, tọc mạch - như thể cô đang xoi mói vào những gì của Charlie. Chữ ký của anh ở khắp mọi nơi. Sẽ chẳng bao giờ cô làm vậy khi anh còn sống. Charlie không bao giờ để mật khẩu. Cô hoàn toàn có thể đoán ngay ra được mật khẩu là gì. Có cái gì để mà phải dấu kia chứ?
Karen lần theo thư mục văn bản của Charlie. Phần lớn trong số đó là thư Charlie viết ở nhà - gửi cho những người cùng ngành, những ấn phẩm thương mại. Có cả đoạn viết nháp cho một vài bài phát biểu. Cô tiếp tục xem qua tài khoản trên AOL1. Bất kỳ bức thư điện tử nào Charlie viết trước khi anh biến mất cũng đều có khả năng đã bị xóa đi từ lâu.
Dường như có vẻ vô vọng, và bẩn thỉu nữa khi phải lục qua một lượt tất cả những vật dụng của Charlie. Karen ngồi yên lặng trước bàn làm việc của Charlie, trong căn phòng làm việc bừa bộn, căn phòng hầu như vẫn vậy kể từ khi Charlie rời bỏ nó một năm trước đây. Đây là nơi anh vẫn viết hóa đơn thanh toán, đọc các tạp chí thương mại và kiểm tra lại vị trí đầu tư của mình, chiếc bàn vẫn chất đầy giấy tờ thương mại và quảng cáo rao hàng.
Ngoài ra chẳng còn gì nữa, Charlie không muốn người khác tìm thấy mình. Anh ta có thể ở bất cứ nơi nào trên cái hành tinh khốn kiếp này. Thật sự là Karen thậm chí còn không biết sẽ phải làm gì với Charlie nếu cô tìm thấy anh.
Cô liên lạc với Heather hiện đã đi làm cho một công ty luật. Và cả Linda Edelstein, người Karen vẫn thỉnh thoảng thuê làm đại lý du lịch. Cô yêu cầu cả hai tìm lại xem Charlie có thực hiện bất cứ giao dịch mua bán gì khác lạ hay không (“một căn nhà ở đâu đó chẳng hạn, dẫu điều đó nghe có vẻ điên rồ, hay là một chiếc ô-tô chăng?”) hoặc có đặt truớc kế hoạch đi đâu đó trong khoảng vài tuần trước khi mất tích hay không. Cô phải bịa ra một câu chuyện điên khùng về việc phát hiện ra trong phòng làm việc của Charlie một thông tin có liên quan tới một chuyến đi bất ngờ mà Charlie đang chuẩn bị, kiểu như để kỷ niệm sự kiện gì đó.
Cô làm sao có thể nói thẳng với họ về những gì mình nghĩ được cơ chứ?
Linda, cũng là bạn của Karen, kiểm tra lại thông tin du lịch lưu giữ trong máy tính. - “Không có Karen à. Nếu có thì mình phải nhớ chứ. Mình xin lỗi. Nhưng không có thông tin nào ở đây cả.”
Thật là điên rồ. Karen ngồi lặng giữa đống vật dụng của chồng, bế tắc. Cô bỗng cảm thấy bực tức và ước sao mình đừng xem bộ phim thời sự ấy. Nó đã làm thay đổi tất cả. Tại sao anh lại làm như vậy với em và con chứ, Charlie? Anh đã làm những chuyện gì?
Nói đi, Charlie!
Cô nhấc đống giấy ném thẳng vào tường. Chỉ khi đó cô mới bất chợt thấy mẩu tin nhắn từ công ty Harbor vẫn nằm đó từ năm ngoái. Cô lướt tìm danh mục phân phối của văn phòng. Có lẽ họ biết. Cô nhận ra một cái tên ở đó - cái tên đã không còn xuất hiện trong tâm trí cô nhiều tháng qua. Cùng với cái tên là một giọng nói vang lên. Giọng nói cô chưa bao giờ đáp lại, nhưng giờ bỗng vang lên, vọng lại nhiều lần bên tai cô, cùng một nội dung ấy: Tôi muốn nói chuyện với bà, thưa bà Friedman... Có một số chuyện bà cần phải biết.
Chú Thích:
1 AOL: America Online - Công ty dịch vụ Inte toàn cầu của Mỹ điều hành bởi Time Warner.
Chương 39
Karen tìm thấy địa chỉ của Jonathan Lauer ở một trong những tập tài liệu của Charlie. Địa chỉ ghi: số 3135 Đường Mountain View, một con đường địa hình đồi núi chạy qua khu dân cư ở Bắc Montclair, New Jersey. Cô cũng đã kiểm tra xem địa chỉ đó có còn trên thực tế hay không. Cô không muốn nói chuyện qua điện thoại. Đó là buổi chiều ngày thứ bảy.
Có một số chuyện bà cần phải biết.
Saul bảo rằng đó chỉ là những vấn đề liên quan đến nhân sự, tiền bồi thường. Và sau đó Karen không còn bao giờ nghe nhắc tới anh ta nữa. Cũng chẳng phải cô không tin Saul. Đó chẳng qua là bởi nếu lật từng viên gạch lên, theo cách của Ty, cô nghĩ cô có thể được biết điều gì đó từ Lauer. Từ khi Lauer nói chuyện với cô, cô chưa bao giờ gọi lại cho anh. Cả một khoảng thời gian dài đã trôi qua. Nhưng câu nói khó hiểu của anh ta đột nhiên đưa lại một ý nghĩa quan trọng hơn nhiều.
Karen lái xe lên đường chạy vào nhà. Trong ga-ra hai chỗ đã đậu sẵn một chiếc xe tải nhỏ màu trắng. Cửa ga-ra mở. Căn nhà được làm bằng gỗ tuyết tùng và kính với một cửa sổ lớn hai tầng ở phía trước. Một chiếc xe đạp trẻ con nằm trên thảm cỏ, bên cạnh bộ lưới bóng đá xách tay. Hàng cây xanh chạy dọc hai bên lớp đá ốp tường trên lối đi dẫn đến trước cửa nhà. Karen bỗng cảm thấy một chút hồi hộp và lo lắng, nhất là sau chừng ấy thời gian. Cô nhấn chuông gọi cửa.
“Để con ra mở! ” Một bé gái khoảng chừng năm đến sáu tuổi, tóc tết bím, ra mở cửa.
“Chào cháu.” - Karen mỉm cười. - “Bố hay mẹ cháu có nhà không?”
Giọng một người phụ nữ vọng ra. - “Lucy, ai vậy?”
Kathy Lauer bước ra, tay vẫn cầm chiếc cán gỗ nhào bột. Karen đã gặp Kathy một vài lần trước đây - lần đầu tiên là ở buổi gặp gỡ của văn phòng, và lần sau này là ở đám tang Charlie. Kathy là một người phụ nữ xinh xắn và nhỏ nhắn, tóc ngang vai, mặc một chiếc áo len chui đầu. Người phụ nữ ngạc nhiên khi thấy Karen.
“Tôi không biết chị có nhớ tôi không - ” Karen mở đầu.
“Tôi nhớ chứ, bà Friedman,” Kathy đáp lời, đưa tay kéo con gái vào bên người.
“Cứ gọi tôi là Karen," - Karen nói. - “Rất xin lỗi vì đã làm phiền chị. Tôi biết chị đang không hiểu tại sao tôi lại có mặt ở đây bất ngờ như thế này. Không biết chồng chị có nhà không?”
Kathy nhìn Karen đôi chút lạ lùng: - “Chồng tôi ư?”
Rồi cả hai đều im lặng lúng túng.
Karen gật đầu. - “Jon (1) có gọi cho tôi vài lần, sau khi Charlie....” - Cô ngừng lại trước khi nói ra từ cuối: - “Tôi hơi bối rối. Tôi chưa bao giờ gọi lại cho anh ấy. Lúc đó tôi quá bối rối.Tôi biết là cũng lâu lắm rồi. Nhưng chồng chị đã nhắc tới một vài điều...'’
"Một vài điều?” - Kathy nhìn Karen chăm chú. Karen không hiểu đuợc phản ứng của Kathy, lo lắng hay bực bội. Kathy bảo con gái vào bếp, bảo con gái rằng mình sẽ trở vào ngay để làm nốt món bánh bích quy nhào bột. Con bé chạy đi.
“Một vài thông tin gì đó về công việc kinh doanh của chồng tôi.” - Karen nói thêm. - “Anh ấy có nhà không?- Tôi biết thật là khó hiểu khi tôi tới đây vào thời điểm này..."
"Jon chết rồi,” - Kathy nói. - “Tôi nghĩ là bà biết chứ.”
"Chết rồi sao?” - Karen cảm thấy tim mình như ngừng nhịp, máu dồn lên mặt. Cô lắc đầu vụng về. - “Chúa ơi, tôi xin lỗi... Không...”
“Cách đây khoảng một tháng,” - Kathy nói. - “Anh ấy đang đạp xe lên dốc, về Mountain View. Một chiếc ô-tô đã đâm vào anh ấy. Như vậy đấy. Một vụ gây tai nạn và bỏ chạy. Kẻ gây tai nạn đã không buồn dừng lại.”
Chú Thích:
1. Jon: Cách gọi thân mật của Jonathan
Chương 40
Dock 39 là một quán bar hôi hám kiểu miền biển ở khu cảng, cách không xa sân kho hải quân. Một tấm biển hiệu như bị chập mạch nhấp nháy phía trên cửa sổ, hình mũi tàu được khắc phía trên cửa chính. Từ ngoài đường, Hauck có thể nhìn thấy chiếc ti-vi bên trong quán bar đang phát chương trình một trận bóng chày. Hôm nay là trận đấu loại quyết định, rất đông người đang quây xung quanh quầy bar la hét.
Hauck bước vào quán bar.
Không gian quán bar tối tăm, đầy mùi khói thuốc và chật cứng những người vừa mới từ dưới cảng lên. Cả một đám đông ồn ào hỗn độn chăm chú theo dõi trận bóng. Đội Pistons đang đấu với đội Heat. Tất cả khán giả đều la hét ồn ào, trên người vẫn đang mang những bộ đồ làm việc của mình. Họ là những công nhân cảng và thủy thủ trên tàu. Không có bất cứ một nhân viên văn phòng nào ở đây. Ray Dubose nhắn Hauck rằng anh sẽ gặp được ông ta ở địa điểm này.
Hauck kêu người phục vụ quán bar lấy một ly Bass ale (1). Anh thoáng nhìn thấy Pappy cùng vài người khác đang uống bia phía đầu đằng kia quán bar. Trông ông ta có vẻ không quan tâm tới trận bóng. Ông nhìn thẳng về phía trước, không để ý tới những tiếng gào bất chợt lại vang lên cũng chẳng để ý cú huých khuỷu tay của người bạn đi cùng khi có một pha bóng đẹp. Lúc sau, Pappy quay lại và nhận ra Hauck, hai mắt ông nhíu lại, hàm nghiến chặt, ông cầm ly bia đứng dậy, rời khỏi chỗ người bạn đang ngồi. Pappy gạt đám đông đi thẳng về phía Hauck.
“Tôi được biết cậu đã hỏi một số người về tôi. Tôi nghĩ là tôi đã bảo cậu nên quay trở về kia mà.”
“Tôi đang tìm cách giải quyết một vụ án mạng.” - Hauck đáp lời.
“Tôi không muốn cậu giải quyết bất cứ vụ án mạng nào hết. Tôi muốn cậu để cho tôi yên và biến khỏi chỗ này.”
“Ông đã rơi vào rắc rối gì vậy?” — Hauck - “Đó có phải là lý do ông không muốn nói chuyện với tôi, phải vậy không? Đó là lý do ông bỏ việc - hoặc là bị gây áp lực phải bỏ việc. Có ai đó đã đe dọa ông. Ông không thể vờ như chuyện đó đã qua. Nó sẽ không đi tới đâu cả. Con trai ông đã chết. Và điều đó có liên quan tới vụ ‘tai nạn’ ở Greenwich, phải vậy không? Tại sao AJ bị giết?”
“Cút đi, để cho tôi yên.” - Pappy Raymond đẩy mạnh tay Hauck. Hauck nhận thấy rằng Pappy đã say.
“Tôi đang tìm cách giải quyết vụ án mạng của con trai ông, ông Raymond. Và tôi sẽ làm việc đó dẫu ông có giúp tôi hay không. Tại sao ông không đơn giản chuyện đó đi bằng cách nói cho tôi biết ông đã phát hiện ra những chuyện gì?”
Hauck càng nói, cơn giận dữ càng trở nên dữ dằn hơn trong mắt Raymond. - “Cậu không nghe tôi nói phải không, con trai?” - Pappy dúi ly bia vào ngực Hauck. - “Tôi không muốn sự giúp đỡ của cậu. Tôi không cần. Cút khỏi đây và về nhà đi.”
Hauck nắm lấy tay Pappy: - “Tôi không phải là kẻ thù của ông. Để cho con trai mình phải chết vì mình ở một nơi xa xôi như vậy mà không làm điều gì mới là giúp cho kẻ thù của ông. Những con tàu đó đã làm chuyện man trá. Chúng rỗng không phải vậy không? Có một sự gian dối nào đó đang xảy ra. Đó là lý do tại sao AJ bị giết. Không có ‘tai nạn nào’ cả. Tôi biết điều đó - ông cũng biết điều đó. Và tôi sẽ không từ bỏ. Nếu ông không nói với tôi thì sẽ có người khác cho tôi biết. Tôi sẽ dựng lều ngay trước bãi cỏ nhà ông để đợi cho đến khi nào tôi biết được toàn bộ sự thật.”
Cả quán bar bỗng nhiên ồ lên. - “Pappy!” - Một người bạn của Raymond gọi to. - “Wade vừa mới ghi ba điểm. Chúng ta còn thua sáu điểm.”
“Đây là lần cuối cùng tôi nói với cậu.” - Pappy gườm mắt nhìn Hauck. Ánh mắt như đốt cháy mắt Hauck. - “Đi về đi.”
“Không.” - Hauck lắc đầu. - “Không bao giờ.”
Ngay lúc đó, Pappy giơ tay đấm thẳng về phía Hauck. Đó là một cú đấm mạnh, nắm đấm Pappy trượt qua vai một người đàn ông đứng gần, nhưng cú đấm của người đàn ông thành thạo với nắm đấm của mình đã làm Hauck bất ngờ và giáng vào một bên mặt anh. Cốc bia bắn khỏi tay Hauck, vỡ tan dưới sàn nhà, bia đổ lênh láng.
Tất cả mọi người xúm quanh hai người, kêu lên. Ôi trời...!
“Cậu muốn gì ở tôi, thưa quý cậu?” - Pappy túm cổ áo Hauck, nắm đấm lại đưa lên. - “Cậu hãy biến về cái nơi quái quỷ nào cậu đến và để mọi chuyện ở đây tan vào quên lãng được không? Cậu muốn làm anh hùng ư, muốn giải quyết tội ác của người khác ư? Hãy để cho gia đình tôi được yên.”
“Tại sao ông lại bảo vệ những kẻ đó? Dầu là ai thì họ cũng là những người giết chết con trai ông.”
Mặt Pappy chỉ cách Hauck vài phân, mùi bia và mùi của giận dữ trùm lên người ông. Pappy lại giơ nắm đấm.
“Tại sao? - Hauck nhìn Pappy chằm chằm. - “Tại sao...?”
“Vì tôi còn có những đứa con khác.” - Pappy đáp lại, đau đớn cháy lên trong mắt ông. Nắm tay ông lưỡng lự. - “Cậu không hiểu điều đó sao? Và chúng cũng có những đứa con của chúng.”
Đột nhiên cơn thịnh nộ trong đôi mắt ông không còn nữa. Trong tròng mắt nóng bỏng, run rẩy chỉ còn lại một điều gì đó rất khác, đó là nỗi vô vọng. Đó là nỗi tuyệt vọng của một người bị kẹt trong bẫy không còn biết chạy đi đâu. “Cậu không biết đâu.” - Pappy nhìn Hauck chăm chăm, nắm đấm hạ xuống, tay kia rời khỏi cổ áo Hauck. - “Cậu không biết được đâu...”
“Tôi biết.” - Hauck nhìn thẳng vào mắt người đàn ông đối diện. - “Tôi biết chính xác cảm giác đó như thế nào. Tôi cũng đã mất một đứa con.”
Hauck ấn vào tay Pappy một vật khi vài người bạn của ông cuối cùng cũng tới bên họ, kéo Pappy đi và nói rằng ông đã uống quá nhiều, và hứa sẽ mua đền cho Hauck một cốc bia khác. Họ kéo Pappy trở lại phía quầy bar lúc trước ông ngồi, giữa đám khói thuốc và những tiếng la hét, khuôn mặt ông đỏ bừng vì rượu và vì những suy nghĩ rời rạc.
Chán nản, Pappy thả lỏng nắm tay, mắt trừng trừng nhìn về phía trước. Rồi ông quay lại nhìn về phía Hauck. Lần này với nỗi tuyệt vọng, ánh mắt ông nói với Hauck: Làm ơn hãy về đi.
Chú Thích:
1 Bass ale: một loại bia của Anh
Chương 41
"Mẹ ơi? ” Samantha gõ cửa phòng ngủ.
Karen quay người lại hỏi: “Sao đó con?”
Karen đang nằm trên giường xem ti-vi nhưng cô thậm chí cũng chẳng biết mình đang xem cái gì. Chuyến đi tới Greenwich đã giáng cho cô một đòn chí mạng - Jonathan đã chết. Chết trong một tai nạn do chiếc ô tô chạy từ trên đồi xuống trong khi anh đang đạp xe về nhà. Anh ấy còn có cả một gia đình với hai đứa con. Và giống như cậu thanh niên đã biến mất cùng một ngày với Charlie, trong người có mẩu giấy mang tên Charlie, Jonathan cũng chết trong một tai nạn. Kẻ gây tai nạn cũng bỏ chạy. Nếu không có ý định tìm gặp Jonathan, cô sẽ chẳng bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra.
Samantha ngồi xuống bên giường: “Có chuyện gì đang xảy ra vậy mẹ?”
Karen vặn nhỏ tiếng ti-vi: “Ý con là sao?”
“Mẹ, đừng mà, bọn con không phải trẻ con nữa. Mẹ đã không còn là mẹ trong hơn một tuần trở lại đây. Không cần phải có chứng chỉ y khoa mới nhận ra rằng mẹ không hề bị cảm cúm. Chắc chắn có chuyện gì đó đã xảy ra. Mẹ có sao không?”
"Chắc chắn rồi. Mẹ không sao mà.” — Karen hiểu rằng tuy nói vậy nhưng gương mặt cô lại biểu lộ điều ngược lại. Làm sao cô có thể nói chuyện này cho con gái mình được đây chứ?
Sam nhìn mẹ chăm chú: - “Con không tin. Mẹ nhìn mà xem. Nhiều ngày rồi mẹ không hề ra khỏi nhà. Mẹ cũng không ra ngoài đi làm hay đi tập yoga. Trông mẹ xanh xao như một cái bóng. Mẹ đang giấu chúng con chuyện gì đó. Chuyện đó có quan trọng không. Mẹ không ốm, đúng không ạ?”
"Không, con à." - Karen nắm lấy tay con gái. - “Mẹ không ốm. Mẹ hứa đấy.”
"Vậy thì chuyện đó là gì?”
Cô có thể nói được gì đây? Rằng những tình tiết đang bắt đầu lắp ghép lại và nó thực sự làm cô hoảng sợ sao? Rằng cô đã nhìn thấy chồng mình sau khi người ta cho rằng anh đã chết? rằng cô đã phát hiện ra hộ chiếu giả và cả tiền nữa? Rằng có thể Charlie đã và đang làm chuyện gì đó bất hợp pháp? Rằng hai người có thể đem lại chút ánh sáng cho chuyện này cuối cùng đều đã chết? Làm sao cô có thể lôi lũ trẻ vào câu chuyện thật rằng cha chúng đã lừa dối chúng bằng cách thức hết sức ghê tởm? Karen tự hỏi mình. Làm sao cô có thể để cho nỗi đau này động tới những người mà cô yêu thương kia chứ?
"Mẹ có bầu chăng?" - Sam thúc giục với nụ cười ngượng ngập.
"Không." - Karen mỉm cười lại. - “Mẹ không thể có bầu được." - Và nước mắt dâng lên nhòa đi trong mắt cô.
“Mẹ buồn vì con đi học đại học sao? Nếu thế, con sẽ không đi nữa. Con có thể đi học ở nơi nào đó trong thành phố này. Con sẽ ở lại đây với mẹ và Alex..."
"Ôi, Samantha.” - Karen kéo con lại gần và ôm chặt. - “Mẹ sẽ không bao giờ làm vậy với con. Mẹ tự hào vì con, con à. Con
đã trải qua những khó khăn đó. Mẹ biết là thật sự khó khăn con mới đặt được điều đó. Mẹ tự hào vì hai con. Các con có cuộc sống của riêng mình. Những gì xảy đến với bố các con cũng không thể làm thay đổi được điều đó.”
“Vậy thì chuyện đó là gì hả mẹ?” - Sam co đầu gối: - “Con đã nhìn thấy viên thanh tra ấy đến nhà mình tối hôm đó. Viên thanh tra từ Greenwich ấy. Cả hai đã ra đứng dưới mưa. Mẹ, mẹ có thể nói cho con được mà. Mẹ luôn muốn con phải thành thực, giờ mẹ cũng phải thế chứ.”
“Mẹ biết.” - Karen nói. Cô vuốt lọn tóc đang che mắt Sam. - “Mẹ đã luôn yêu cầu các con phải trung thực, và các con đã làm như mẹ nói, phải vậy không nào?”
“Gần như là như vậy.” - Samantha nhún vai: - “Con cũng có giữ một vài bí mật cho riêng mình."
“Vậy thôi.” Karen mỉm cười, nhìn thẳng vào mắt cô con gái. - "Đó là tất cả những gì mẹ có thể yêu cầu ở các con, phải vậy không?”
Samantha mỉm cười đáp lại.
“Mẹ biết là mẹ cũng phải vậy, Sam à. Nhưng mẹ không thể nói cho con được. Chưa phải lúc này. Mẹ xin lỗi. Có những điều..."
“Chuyện có liên quan đến bố, phải không? Con đã thấy mẹ lục tìm điều gì đó trong đống đồ của bố.”
“Sam, con phải tin mẹ chứ. Mẹ không thể!”
“Con biết bố yêu mẹ.” - Mắt Samantha sáng bừng lên. - “Bố yêu tất cả chúng ta. Con chỉ mong sau này mình may mắn tìm được người nào đó yêu con như vậy.”
“ Ừ, con yêu à.” - Karen ôm chặt con gái. Nước mắt chảy tràn xuống hai bên má. - “Mẹ biết, con à, mẹ biết!” - Rồi Karen bỗng ngừng bặt giữa câu nói. Có điều gì đó không ổn lướt qua tâm trí cô. Vợ Lauer nói rằng Jonathan được chỉ định làm chứng liên quan đến công ty Harbor vào đúng tuần lễ anh bị sát hại. Saul Lennick chắc phải biết chuyện đó. Để tôi lo chuyện này, Karen... Ông ta đã không hề nói gì thêm với Karen nữa.
Và đột nhiên Karen tự hỏi, Ông ta có biết chuyện này không? Lennick có biết rằng Charlie vẫn còn sống hay không?
“ Ừ, con à..- Karen vuốt tóc con gái - “Mẹ cầu mong cho con tìm được người con mong đợi.”
Chương 42
Saul Lennick đứng đợi trên cầu Charles tại Prague nhìn sang sông Vltava. Chiếc cầu tràn ngập du khách cùng khách bộ hành qua lại. Nhiều họa sĩ ngồi trước khung giá vẽ lưu giữ lại khung cảnh. Các nghệ sĩ vi-ô-lông say sưa chơi nhạc của Dvorak và Smetana (1). Mùa xuân đã đến, đem lại một không gian và tâm trạng đầy chất lễ hội cho thành phố. Ông đưa mắt nhìn chóp nhọn thiết kế kiểu Gô-tích của tòa Pháo đài Thánh Vitus và Prague. Chỗ này là một trong những điểm ngắm cảnh mà ông yêu thích.
Ba người trong trang phục công sở bước lên nhịp cầu từ lối Linhart Ulice, họ ngừng lại một chút dưới tòa tháp phía đông. Người đàn ông có mái tóc hung, khoác áo choàng, đội mũ nâu và mang một cặp kính gọng kim loại mỏng, khuôn mặt ánh lên nét hồng hào và vui vẻ bước về phía trước, tay xách một chiếc va-li kim loại. Hai người còn lại đứng lùi về phía sau vài bước chân.
Lennick biết rất rõ người đàn ông này. Johann-Pieter Fichte là người Đức. Fichte làm việc cho một vài phòng kinh doanh ngân hàng của tập đoàn tín dụng Suisse và ngân hàng Bundesbank. Fichte đã tốt nghiệp tiến sỹ kinh tế tại trường đại học Basel. Giờ ông là một ông chủ ngân hàng tư nhân, phục vụ cho giới tài phiệt cao cấp nhất. Fichte cũng được biết đến với vai trò đại diện cho những người làm ăn thiếu đứng đắn nhất trên thế giới.
Công việc của Fichte là “buôn tiền.” Fichte có một kỹ xảo đặc biệt là biến bất động sản lớn ở bất cứ nơi nào trên thế giới thành bất cứ hình thức nào khác như tiền, đá quý, vũ khí - thậm chí đôi khi là ma túy - cho tới khi chúng trở thành một khoản tiền hoàn toàn khác và hoàn toàn sạch sẽ có thể dùng vào việc đầu tư. Fichte thực hiện công việc này thông qua một mạng lưới buôn tiền gồm nhiều đầu mối và các công ty ma khác nhau, một mạng lưới phức tạp trải dài từ những góc tối nhất của thế giới ngầm cho tới các phòng họp của các hội đồng quản trị trên toàn thế giới. Trong số các khách hàng ít khi xuất hiện của Fichte có các giáo sĩ Irắc và các viên chỉ huy quân sự Ápganistan, những kẻ đang đục khoét các khoản đầu tư của Mỹ vào nước này; một bộ trưởng dầu mỏ của Kazắcstan, anh em họ của tổng thống, người đã rút ruột đến một phần mười lượng dầu mỏ dự trữ của nước này; một số ông lớn chính trị Nga với công việc làm ăn chính là ma túy và gái điếm; thậm chí còn có các nhóm các-ten (2) ma túy từ Côlômbia.
Fichte đưa tay vẫy và len qua đám đông đi tới. Hai người cộng sự mà Lennick cho là hai vệ sĩ đi phía sau Fichte vài bước. "Saul!” - Fichte gọi, nhìn Lennick cười tươi, đặt chiếc va-li dưới chân Lennick. - “Gặp ông lúc nào cũng rất vui. Cái này là dành cho ông vì đã vất vả đi cả một quãng đường dài đến đây.”
"Đó chỉ là giá dịch vụ thôi mà.” - Lennick cười, bắt tay người chủ nhà băng.
“Đúng vậy, chúng ta chỉ là những gã chạy việc vặt được trả lương cao và cũng chỉ là những nhân viên kế toán cho những gã nhà giàu mà thôi.” - Fichte nhún vai - “Lúc nào cũng phải sẵn sàng khi những kẻ giàu có đó vẫy tay hoặc gọi tới. Bà vợ đáng yêu của ông dạo này thế nào? Con gái ông cũng khỏe chứ hả? Nó còn ở Boston hay không? Đó đúng là một thành phố tuyệt đẹp.”
“Mọi thứ đều ổn, Johann à. Cảm ơn ông đã hỏi thăm. Chúng ta bàn công việc được chưa?”
“À, công việc.” - Fichte thở dài, quay mặt ra phía sông. - "Đúng là phong cách Mỹ... Thiếu tướng Mubuto gửi lời hỏi thăm ông.”
“Rất hân hạnh.” - Lennick vờ vịt. - “Cũng nhờ ông gửi lời hỏi thăm thiếu tướng hộ tôi được chứ?”
"Tất nhiên rồi.” - Fichte cười hết cỡ. Sau đó, Fichte hạ giọng, mắt vẫn nhìn về phía trước như thể đang nhìn theo dấu của một con chim ở nơi xa xăm nào đó vừa mới đáp xuống Vltana. Fichte dẫn giải: “Số tiền đó sẽ được chuyển tới làm bốn lần khác nhau. Lần chuyển đầu tiên đã ở dạng tài khoản của ngân hàng Zurich, sẵn sàng được chuyển tới bất cứ nơi nào mà ông muốn trên thế giới. Khoản thứ hai hiện đang được giữ ở ngân hàng BalticBank ở Estonia, số tiền này được gửi vào dưới dạng vốn trả chậm làm nhân đạo được dùng để tài trợ cho Liên hiệp quốc chuyên chở lương thực tới những vùng dân cư khó khăn ở Đông Phi."
Lennick mỉm cười. Những câu nói của Fichte luôn có một nét mỉa mai sâu sắc.
“Tôi nghĩ ông sẽ thông cảm với chuyện đó. Lượt chuyển tiền thứ ba hiện đang được tiến hành không phải dưới dạng tiền mặt. Đó là các thiết bị quân sự. Tôi được biết một phần trong số đó là của ông. Nó sẽ rời Mỹ trong tuần này. Thiếu tướng luôn nhắc phải đúng thời gian.”
“Sao phải vội vàng như vậy?”
“Việc chưa ngã ngũ về tình trạng leo thang quân sự ở Êtiôpia gần biên giới Suđăng đủ để hiểu rằng Thiếu tướng và gia đình có thể bị buộc phải rời khỏi nước bất cứ lúc nào.” - Fichte nháy mắt.
“Tôi sẽ chịu trách nhiệm, không để các khoản tiền nhàn rỗi quá lâu.” - Lennick hứa với nụ cười trên môi.
“Rất cảm ơn ông về điều đó.” - Ông chủ ngân hàng người Đức cúi người. Giọng Fichte lại trở về với công việc. - “Như đã thỏa thuận, mỗi phần tiền được chuyển sẽ có giá trị bằng hai trăm năm triệu ơrô.
Tất cả là hơn một tỷ đô la. Ngay cả Lennick cũng phải thấy ngạc nhiên. Ông tự hỏi không biết đã có bao nhiêu cái đầu phải rơi và bao nhiêu cơ đồ phải sụp đổ để có được số tiền đó.
Fichte tiếp tục: “Tôi nghĩ thỏa thuận chung đã được chúng ta bàn xong."
"Tổng hợp các loại sản phẩm là tương đối đa dạng và hoàn toàn minh bạch.” - Lennick đáp lời - “Bao gồm các tài sản cầm cố ở Mỹ và trên toàn thế giới, các tập đoàn liên minh bất động sản, quỹ hợp tác. Hai mươi phần trăm sẽ được giữ lại làm quỹ cầm cố riêng của chúng tôi. Như ông đã biết, trung bình chúng tôi có thể nhận được tới hai mươi hai phẩy năm phần trăm thù lao đầu tư trong vòng bảy năm qua, tất nhiên đó là mức ổn định trong các trường hợp biến động không tính trước được.”
"Biến động... " - Fichte gật đầu, ánh mắt thân thiện của ông ta bỗng tối đi. - “Tôi nghĩ là ông đang nói đến cái công ty năng lượng đã phá sản hồi năm ngoái. Tôi hy vọng là sẽ không phải tiếp tục nhìn thấy nỗi thất vọng của khách hàng của tôi qua vụ đó, đuợc chứ Saul?”
“Như tôi đã nói” - Lennick nuốt nước bọt, cố định huớng lại chủ đề câu chuyện - “đó là một sự biến động không lường trước được mà Johann. Chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra lần thứ hai.”
Thật ra thì với lượng vốn hiện có trên thế giới hiện nay, Lennick đã biết cách kiếm tiền ở tất cả môi trường thị trường nào có thể nghĩ ra được. Ngay cả trong những thời điểm nền kinh tế phát triển mạnh hay khi trì trệ. Dẫu thị trường đang phát triển tốt hay xấu. Thậm chí ngay cả sau các hoạt động khủng bố. Tâm lý sợ hãi sau ngày 11 tháng 9 sẽ không bao giờ còn lặp lại nữa. Nhưng Lennick đã đầu tư hàng tỷ đô la vào tất cả các khoản phân bố dự toán kinh tế, không quan tâm tới thói đỏng đảnh của việc ai được ai mất. Xu hướng và việc thay đổi trong địa vị chính trị ngày nay đơn thuần chỉ là những giai đoạn ngắt quãng của quá trình chuyển giao vốn trên phạm vì toàn cầu. Đúng vậy, trước đây đã luôn tồn tại những hoạt động như kiểu Charlie, đánh cược với giá dầu một cách bướng bỉnh và không có cách nào có thể che dấu được dấu vết khi tụt dốc. Nhưng nằm phía sau cái đó, tất cả những gì phải làm là xem xét những quỹ đầu tư khổng lồ của Ả-rập Xê-Út và Cô- oét, những nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới, đang tự bảo đảm an toàn cho công việc kinh doanh của mình bằng việc mua tất cả các cánh đồng mía trên thế giới từ đó có thể sản xuất được nhiên liệu ê-ta-non.
Đó là bộ máy gia tăng tiền vốn lớn nhất trên thế giới.
“Chuyện đó không làm ông bạn khó chịu chứ?” - Fichte đột ngột hỏi - “Ông là Do Thái đúng không nào, tuy vậy ông cũng biết rằng số tiền ông nhận thường rơi vào tay của một số nhóm lợi ích không hề tỏ ra thân thiện với chủng tộc của ông."
“Đúng vậy, tôi là người Do Thái.” - Lennick nhìn Fichte nhún vai. - “Nhưng đã từ lâu rồi tôi hiểu một điều, đó là tiền không mang tính chủng tộc, nó hoàn toàn trung tính, Johann à.”
“Đúng, tiền đứng giữa tất cả.” - Fichte đồng tình. - “Tuy vậy, sự kiên nhẫn của khách hàng thì không vậy.” - Giọng Fichte trở nên sắc lạnh - “Việc nửa tỷ tiền vốn của họ biến mất không hề khiến họ dễ chịu và ngồi yên được, Saul ạ. Họ bảo tôi nhắc lại cho ông biết điều đó - ông có hai đứa cháu ở Boston, phải vậy không nhỉ?” - Fichte đưa mắt nhìn thẳng Lennick. - “Một đứa lên hai và một đứa lên bốn?”
Máu như dồn lên trên mặt Lennick.
“Tôi được yêu cầu phải hỏi thăm tình hình sức khỏe của chúng, Saul à. Hy vọng là chúng vẫn ổn. Chỉ là một cách quan tâm từ những người tôi làm thuê cho họ thôi mà. Đừng có nghĩ ngợi làm gì nhiều. Tuy nhiên...” - Nụ cười quay trở lại trên khuôn mặt Fichte, ông ta ân cần vỗ vỗ tay Lennick. - “cũng là một sự động viên để ông - nói sao nhỉ? - giữ cho cái biến động của mình ở mức thấp nhất, được chứ?”
Mồ hôi lạnh túa ra sau lưng trong chiếc áo sơ mi sọc nhỏ hiệu Brioni giá sáu trăm đôla của Lennick.
‘'Người của ông đã làm mất một lượng tiền không nhỏ của chúng tôi," - Fichte nói. - “Ông cũng không cần phải lấy làm ngạc nhiên đến vậy. Ông hiểu mình đang chơi với ai. Không ai đuợc phép đứng ngoài vòng trách nhiệm, ông bạn ạ - ngay cả khi đó là ông. ”
Fichte chụp mũ lên đầu.
Lennick thấy ngực mình như bị ai siết chặt. Hai lòng bàn tay bỗng nhiên túa mồ hôi trong khi đang nắm chặt lấy lan can thành cầu. Lennick gật đầu. - “Ông nói khoản tiền được giao làm bốn lần. Mỗi phần là hai trăm năm mươi triệu ơrô. Nhưng ông mới nhắc đến ba phần.”
"À, phần thứ tư... ” - Fichte mỉm cười, vỗ mạnh vào lưng Lennick, đưa mắt nhìn chiếc va-li kim loại đang đặt dưới chân. “Tôi sẽ chuyển cho ông ngay trong hôm nay. Là trái phiếu vô danh. Người của tôi sẽ rất hân hạnh được hộ tống ông đến bất cứ nơi nào ông muốn cất giữ phần tiền này.”
Chú Thích:
1 Dvorak và Smetana: Hai nhà soạn nhạc người Séc
2 Các-ten: (Cartel) thuật ngữ kinh tế chỉ một nhóm các nhà sản xuất hợp tác với nhau để thống nhất giá cả, tiếp thị và sản xuất hàng hóa.
Chương 43
Sáng hôm sau, vết sưng trên mặt Hauck đã giảm đi đôi chút. Anh đóng gói đồ đạc, sẵn sàng để vài phút sau là có thể thanh toán và rời khỏi khách sạn. Không cần thiết phải gây thêm áp lực lên lão Raymond già nua nữa. Anh có nhiều cách khác để tìm ra điều anh thực sự muốn biết. Anh liếc nhìn đồng hồ, chuyến bay cất cánh lúc mười giờ sáng.
Khi Hauck mở cửa để rời khỏi khách sạn thì thấy Pappy Raymond đang đứng dựa vào hàng rào chắn phía ngoài. Mặt mũi ông ta phờ phạc, mắt đỏ vằn và lộ rõ nét u buồn. Trông như thể đêm qua ông đã phải ngủ ngoài đường, hoặc như thể ông đã đánh nhau với lũ chồn đêm và kẻ chiến thắng không phải là ông vậy!
“Mắt thế nào rồi?” - Pappy nhìn Hauck hỏi. Trong giọng nói có thể nhận thấy lời xin lỗi.
“Vẫn hoạt động bình thường mà.” - Hauck nhún vai, đưa tay xoa bên mặt bị sưng - “Tôi vẫn thấy bực mình vì mất cốc bia hơn.”
“ Ừ.” - Pappy mỉm cười ngượng ngập. - “Tôi nợ cậu một cốc bia rồi." - Màu xanh ánh lên trong đôi mắt với hai túi nuớc treo nặng bên dưới. - “Cậu đang chuẩn bị về sao?”
“Không hiểu sao tôi cảm thấy ông thích điều đó.”
“ Ừm.” - Pappy khịt mũi - “Làm sao tôi lại để cậu có ý nghĩ đó được nhỉ?”
Hauck đặt hành lý xuống, chờ đợi.
“Cả cuộc đời mình tôi đã là một thằng ngốc." - Cuối cùng Pappy lên tiếng. Ông nhích người khỏi thành rào. - “Bướng bỉnh tới mức không thể hơn được nữa, vấn đề là phải đến lúc già như thế này rồi tôi mới nhận ra điều đó. Nhưng đã quá muộn.”
Pappy lấy từ trong túi chiếc áo liền quần bảo hộ lao động của mình ra mẩu vé xem đội Orange Bowl thi đấu, mà Hauck đã đặt vào tay Pappy tối hôm trước, rồi bặm môi nói: - “Chúng tôi đã chạy xe cả ngày hôm đó để tới xem trận đấu. Có lẽ đó là trận bóng con trai tôi quan tâm hơn cả. Đối với nó là vậy. Seminoles luôn là đội bóng ưa thích của nó.” - Pappy gãi đầu, đôi mắt bỗng trở nên sáng rực. - “Có lẽ tôi phải cảm ơn cậu. Tôi nhớ là tối hôm qua cậu có nói...”
“Con gái tôi lên bốn tuổi.” - Hauck nhìn thẳng vào mắt Pappy. - “Nó bị chính xe của chúng tôi chèn phải, ở ngay trong đường vào nhà tôi. Cách đây đã năm năm rồi. Tôi là người lái xe. Tôi đã nghĩ rằng mình nên đỗ xe ở bãi đỗ. Sau khi nỗi đau dịu đi, cay đắng là điều tôi luôn cảm nhận. Vợ cũ của tôi cũng chưa thể nhìn thẳng vào mắt tôi mà không nghĩ tới tai nạn đó. Vì vậy tôi hiểu... Đó là tất cả những gì tôi muốn nói.”
“Nỗi đau không bao giờ chịu rời bỏ ta, phải vậy không?” - Ravmond đổi chân.
Hauck lắc đầu: - “Không bao giờ.”
Raymond thở dài: - “Tôi đã gặp mấy con tàu khốn kiếp đó vào cảng ba, bốn lần. Từ Venezuela, từ Philippines, từ Trinidad. Hai lần trong số đó chính tôi là người kéo chúng vào cảng. Ngay cả một kẻ điên cũng có thể nhìn ra rằng mấy con tàu đó nổi quá cao so với mặt nước. Chúng chẳng chở chút dầu nào cả. Tôi thậm chí đã có lần còn lẻn vào trong mấy khoang chở hàng của chúng.” - Pappy lắc đầu. - “Sạch như chùi. Những gì họ đang làm là không hề đúng..."
Hauck hỏi: - “Và ông báo điều đó lại với cấp trên của mình chứ?"
“Cấp trên của tôi, quản lý cảng, cả những người bên hải quan... Không có thuế đánh vào lượng dầu, vậy thì họ quan tâm tới cái quái quỷ gì kia chứ? Người ta cũng không nói ai là người được chi trả trong vụ này. Tôi vẫn tiếp tục ý kiến, người ta bảo: 'Ông cứ việc đưa chúng vào cảng, neo chúng lại. Đừng có làm ầm chuyện này lên,' Nhưng tôi vẫn làm ầm lên. Và rồi tôi nhận được cuộc gọi này."
'‘Cuộc điện thoại yêu cầu ông không khuấy vụ này lên?”
Pappy gật đầu. - " 'Đừng có làm cho biển khơi dậy sóng. Ông không biết những con sóng đó sẽ đổ xuống nơi nào đâu.' Và cuối cùng thì có kẻ đến gặp tôi.”
“Ông còn nhớ người đó chứ?”
“Tôi gặp hắn ở quán bar, cũng như cậu hôm qua. Hàm vuông, tóc đen và để ria. Loại khốn mà khi gặp ai cũng cảm thấy rằng hắn sẽ đem lại rắc rối cho mình. Hắn nhắc đến AJ đang ở miền Bắc. Thậm chí hắn còn cho tôi xem ảnh của AJ chụp với một cô gái và một đứa bé con. Tôi hiểu hắn muốn nói gì. Nhưng tôi vẫn không bỏ cuộc. Tôi đã gọi cho người phóng viên tôi quen và bảo rằng tôi sẽ tìm kiếm bằng chứng cho cậu ta. Đó là khi tôi lên tàu. Và rồi một tuần sau thì chúng gửi cho tôi cái này.”
Pappy đưa tay vào túi chiếc quần bảo hộ màu xanh hải quân ông thường mặc khi đi làm để lấy chiếc điện thoại di động của mình, bật máy tìm cho tới khi thấy cuộc gọi được lưu lại trên máy đó. Ông đưa cho Hauck.
Đó là một bức hình chụp AJ nằm chết trên đường. Hauck thở hắt ra.
Pappy chỉ: “Cậu thấy chúng viết gì cho tôi không?”
XEM ĐÃ CHƯA?
Hiểu ra sự việc và cùng với đó là cơn thịnh nộ khiến ngực Hauck như thắt lại. - “Ai đã gửi cho ông tấm hình này?”
Pappy lắc đầu. - “Tôi không biết.”
“ Ông có gửi tấm hình này cho cảnh sát không?”
Lại một cái lắc đầu: “Bọn chúng đã thắng. Không, tôi không gửi.”
“Tôi có thể gửi bức hình này sang máy tôi được không?”
“Cậu cứ gửi đi. Tôi không còn thờ ơ như trước nữa. Giờ nó là của cậu.”
Hauck bấm gửi bức hình và cảm nhận máy mình rung lên khi nhận được tin nhắn.
"Nó là người tốt, con trai ạ.” - Pappy nhìn Hauck. - “Nó thích lướt sóng và đi câu cá. Thích ô-tô nữa. Nó chẳng bao giờ làm đau cả đến một con ruồi. Nó không đáng phải chết như vậy..."
Hauck đưa trả điện thoại cho Pappy và tiến lại đứng bên Pappy trước thành rào: “Những kẻ đó, chính chúng là kẻ đã gây ra cái chết cho AJ chứ không phải là ông. Ông chỉ tìm cách làm những gì ông cho là đúng mà thôi.”
Pappy nhin Hauck chăm chăm: “Tại sao cậu lại làm tất cả những việc này? Cậu cũng chưa bao giờ cho tôi xem phù hiệu cảnh sát của cậu. Cậu làm chuyện này không thể chỉ vì AJ được.”
“Con gái tôi.” - Hauck nhún vai đáp lời. - “Nó cũng có mái tóc màu đỏ.”
“Vậy chúng ta giống nhau.” - Pappy mỉm cười - “Kiểu như vậy. Tôi đã sai rồi trung úy ạ, sai trong cách đối xử với cậu. Tôi sợ cho Pete và Walker, thằng con nữa của tôi, lo sợ cho gia đình hai đứa nó. Sợ khi phải lôi tất cả chuyện này ra. Nhưng cậu đã tìm được chúng. Cậu đã lần ra được những kẻ khốn nạn đã giết chết con trai tôi. Tôi không biết chúng làm thế vì lý do gì. Tôi không biết chúng đang bảo vệ cho chuyện gì. Nhưng dẫu đó có là gì thì điều đó cũng không xứng. Cậu đã lần ra chúng, cậu nghe không? Dẫu điều này có dẫn đến đâu. Và khi cậu làm chuyện này” - Pappy nháy mắt, một tia sáng mơ hồ, le lói trong mắt ông - “Cậu phải nghĩ đến việc quẳng chúng vào tù đấy, cậu hiểu không?”
Hauck mỉm cười. Anh bóp mạnh cánh tay người đàn ông già nua: “Vậy cái tên đó là gì?”
Pappy nheo mắt: “'Tên nào?”
“Tên của con tàu?” - Hauck hỏi.
“Nó mang một cái tên Hy Lạp.” - Pappy khịt mũi - “Tôi đã tra tìm từ đó. Tên một vị nữ thần của thế giới ngầm. Tên nó là Persephone."
Chương 44
Vito Collucci có thể tìm thấy bất cứ thứ gì miễn là thứ đó có liên quan tới tiền bạc. Anh kiếm sống bằng nghề kế toán pháp lý, phát hiện những tài sản bí mật của những ông chồng đàng điếm theo yêu cầu của các bà vợ, và cả những khoản lợi nhuận bí mật của các công ty lớn đang tìm cách tránh các vụ kiện có nhiều nguyên đơn. Trước khi mở phòng luật, anh đã từng làm thanh tra cho cảnh sát Stamford trong mười lăm năm. Chính ở đó Hauck đã quen với Vito.
Vito Collucci vẫn thích nói rằng anh có thể phát hiện ra được con nào kém chất lượng ở ngân hàng tinh trùng.
“Vito, tớ cần sự giúp đỡ của cậu.” - Hauck gọi điện cho Vito khi đang trên đường ra sân bay ở Pensacola.
Hiện Vito đang điều hành một công ty có quy mô tương đối lớn. Anh là “chuyên gia khách mời” của MSNBC (1), nhưng anh cũng không bao giờ quên được Hauck đã gửi cho anh nhiều vụ khi anh mới bắt đầu mở công ty.
“Khi nào cậu cần?" - Vito hỏi. Khi Hauck gọi, Vito hiểu vấn đề bao giờ cũng có liên quan tới thông tin. Đó là những thông tin bao giờ cũng rất khó tìm.
“Ngay hôm nay,” - Hauck nói. - “Có thể là ngày mai nếu cậu bận.”
“Hôm nay được mà.”
Hauck hạ cánh vào lúc hai giờ, lấy chiếc Bronco anh gửi ở sân bay La Guardia. Khi đi qua Greenwich tới Stamford, cách sở cảnh sát một dặm, anh bỗng nhận ra rằng mình đang dấn sâu vào một việc nằm ngoài phạm vi luật pháp hơn là anh muốn. Anh định gọi cho Karen Friedman, nhưng lại quyết định hoãn lại. Anh đang có một tin nhắn trên điện thoại.
Vẫn ở chỗ cũ. Vito. Ba giờ chiều có thể gặp nhau.
Chỗ cũ là Quán ăn và Nhà hàng pi-za Stamford, một nơi rất bình thường mà cánh cảnh sát thường lui tới, ở đường Main, đi qua trung tâm kinh doanh của thành phố, gần biên giới với Darien.
Vito đã có mặt ở điểm hẹn. Anh đang ngồi bên chiếc bàn dài phủ khăn ca-rô. Vito có dáng người thấp, khuôn ngực vạm vỡ, cánh tay của một đô vật và mái tóc cứng đang chuyển sang màu muối tiêu. Trước mặt Vito đặt một đĩa mì ống, một bát rau diếp quăn và đậu trộn bánh gia vị.
“Tớ đã kiểm tra,” - Vito nói khi Hauck vừa bước tới, “nhưng cậu may mắn đấy, Ellie bắt tớ phải ăn cái món cô-let-xtê-rôn này đây.”
"Hiểu." - Hauck cười và ngồi xuống. Anh cũng gọi cùng một món như Vito. - “Cậu dạo này thế nào?”
“Khỏe.” - Vito đáp, - “Nhưng bận quá.”
“Trên ti-vi trông cậu nhỏ nhắn hơn.”
“Còn cậu thì có vẻ như chẳng già đi tí nào.” - Vito nói - “Ngoại trừ vết bầm kia. Ty, cậu phải hiểu rằng mình không còn có thể ẩu đả với bọn trẻ ranh được nữa chứ.”
“Tớ sẽ nhớ lời cậu.”
Vito đặt chiếc phong bì cỡ lớn trên mặt bàn. Anh đẩy nó về phía Hauck. - "Xem qua đi. Cho cậu xem tớ đã tìm thấy những gì đây."
Hauck chăm chú lật xem bên trong.
"Thông tin về con tàu thì dễ thôi. Tớ tìm thấy nó trên tạp chí Janes's. Persephone, đúng chứ?” - Vito dùng dĩa xiên vài miếng mì ống. - “Loại chở dầu lớp ULCC, được sản xuất ở Đức năm 1978, đã quá cũ. Cậu nghĩ sao, có lẽ quá cũ để có thể chịu được những chuyến vận tải đường biển, nhỉ?”
“Đi trong vịnh thì còn được.” - Hauck gật đầu. - “Nhưng vào cảng thì trông vẫn hơi tệ.” — Hauck đọc lướt qua một trang sao lại từ bộ hướng dẫn đường biển trong đó có hình một con tàu, tải trọng sáu mươi hai ngàn tấn.
“Con tàu này mấy năm gần đây được giao qua bán lại vài lần.” - Vito tiếp tục. - “Lần gần đây nhất nó được bán cho một công ty vận tải đường biển của Hy Lạp - tên là Hàng hải Argos. Cái này có khiến cậu liên hệ được tới điều gì không?”
Hauck lắc đầu.
"Tớ cũng không nghĩ là nó quan trọng, nhưng tớ vẫn tiếp tục. Tớ đã giả làm trợ lý của một luật sư của công ty này để tìm khoản bồi hoàn. Bốn năm vừa qua, công ty chết tiệt này được thuê lại bởi công ty thiết bị thăm dò dầu mỏ nào đó mà tớ không tìm được thông tin nào nữa. Công ty dầu lửa Dolphin.”
Hauck gãi đầu. - "Dolphin là ai?”
“Biết thì còn nói làm chi.” - Vito nhún vai - “Tin tớ đi, tớ đã kiểm tra rồi. Không có bất cứ thông tin nào về nó trên cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp cả. Sau đó tớ tìm trên danh sách kinh doanh của các công ty thăm dò và phát triển dầu khí, nhưng cũng chẳng thấy cái tên nào như vậy. Nếu Dolphin là một công ty kinh doanh dầu lửa và khí đốt thì chắc chắn phải có rất nhiều thông tin trích dẫn.”
"Cậu nghĩ đó là một công ty thật sao?”
“Tớ đã nghĩ đúng như vậy.” - Vito đáp, đưa tay đẩy chiếc đĩa sang bên cạnh. - “Vì vậy, tớ vẫn tiếp tục tìm kiếm. Tớ thử tìm trong danh bạ điện thoại được niêm yết của các công ty ngoài nước. Cũng không có thông tin nào về công ty này ở châu Âu và châu Á. Tớ không hiểu tại sao một công ty không có chút thông tin nào trong ngành dầu khí lại đi thuê một con tàu chở dầu lớn như vậy? Cậu có đoán được không? Lật qua trang bên xem.”
Hauck lật sang trang.
Vito cười lớn. - “ Ở ngoài đảo Tortola ấy - Quần đảo Virgin của Anh... Cậu biết gì về nó nào - Công ty dầu lửa Dolphin khốn ấy!”
"Ở Tortola. ”
Vito gật đầu. - “Hiện có rất nhiều công ty được thành lập ở đó. Nó giống như một phiên bản thu nhỏ của Quần đảo Cá sấu (2). Tránh đuợc thuế, vốn đầu tư cũng không bị chính phủ Mỹ nhòm ngó. Tránh được cả sự kiểm soát của ủy ban Chứng khoán nữa, nếu các công ty này niêm yết công khai. Như những gì tớ được biết vì tớ mới chỉ có vài giờ đồng hồ tìm kiếm, Dolphin cơ bản chỉ là một công ty mẹ. Không có thu nhập hay lợi nhuận dưới bất cứ hình thức nào được chuyển tới công ty này. Không giao dịch, chỉ hoàn toàn là một cái vỏ. Ban quản trị có vẻ như chỉ là một nhóm các luật sư ngông cuồng ở đó. Cậu kiểm tra danh sách ban quản trị mà xem - đằng sau tất cả những cái tên trong đó đều có chữ Công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo tớ biết thì nó cũng thuộc một công ty đầu tư có trụ sở ở đó. Công ty Hợp tác cổ đông Falcon.”
"Falcon... chưa bao giờ nghe nhắc đến cái tên này.” - Hauck lắc đầu.
"Cậu không thể nghe thấy tên nó được, Ty à. Đó là lý do tại sao nó lại nằm ở đó! Đó là một loại cổ đông đầu tư tư nhân. Hoặc ít nhất thì nó đã là như vậy. Quỹ đầu tư này đã bị giải thể và tài sản đã được phân phối lại cho các cổ đông hữu hạn của nó vào đầu năm nay. Mãi tớ mới phát hiện ra lý do tại sao. Tớ đã hy vọng tìm dược danh sách các cổ đông, nhưng thông tin đó là thông tin cá nhân - hoàn toàn không thể có được. Dẫu những người đó có là ai, thì giờ này có lẽ số tiền cũng đã trở về với nơi ban đầu của nó rồi.”
Hauck đọc lướt qua trang tổng hợp thông tin về công ty Falcon. Trong thâm tâm anh biết mình đang tiến gần tới đích. Dẫu người sở hữu công ty Dolphin có là ai thì người đó cũng đang che đậy một âm mưu tội ác nào đó. Họ đã sử dụng những con tàu chở dầu trống không, nhưng lại khai rằng chúng chở đầy dầu. Pappy đã phát hiện ra điều đó. Họ đã cố tìm cách để ông im miệng, nhưng dẫu bọn họ đang che dấu điều gì thì Pappy cũng không phải là người dễ đầu hàng, và kết cục là con trai ông đã phải chết. Với cái tin nhắn Xem đã chưa ấy. Dolphin đã dẫn anh tới Falcon.
Hauck cảm thấy mình đã tiến đến rất gần. Lông tay anh dựng đứng lên hy vọng. - “Chúng ta phải làm gì để tiếp cận được với Falcon đây, Vito?”
Vito nhìn Hauck chăm chú: - “Để làm gì hả Ty?”
“Làm gì à?”
Vito nhún vai. - “Lần đầu tiên kể từ lúc quen nhau cậu không nói thẳng với tớ. Thám tử của tớ cho biết cậu đang nghỉ phép.”
“Có lẽ thám tử của cậu cũng nói cho cậu biết lý do tại sao.”
“Lý do riêng tư, chấm hết. Một vụ nào đó đang ám ảnh cậu."
"Đó là một vụ giết người, Vito à, không quan trọng là tớ đang cần tìm kiếm ai. Và nếu vụ này riêng tư đến vậy thì” - Hauck nhìn Vito, mỉm cười. - “Thì tớ đã gọi cho trang Mat (3) chứ không phải là cậu.”
Vito cười lớn: “Chỉ là nhắc cậu phải giữ mình trong giới hạn thôi. Hết.”
Vito lấy một mẩu giấy gập lại từ trong túi áo khoác đẩy qua bàn: “Falcon có là gì thì họ cũng muốn giữ bí mật. Ban quản trị cũng là những luật sư giống như Dolphin.”
Hauck đọc lướt qua mẩu giấy. Không có gì mới cả. Nhưng đến gần lắm rồi.
“Tuy nhiên còn một điều” - Vito nói thêm - “tớ đã nói là Falcon bao gồm một nhóm cổ đông hữu hạn, những cổ đông này muốn tên tuổi được giữ bí mật, nhưng tên cổ đông chính lại có trong danh mục, có trong thỏa thuận đầu tư, rất rõ ràng. Đó là công ty điều hành quỹ.”
Hauck lật sang trang. Ngay trên đó là một cái tên mà Vito đã đánh dấu bằng bút nhớ dòng màu vàng. Khi nhìn thấy cái tên, tim Hauck như ngừng lại, ngược hẳn với chính cái bước tiến lớn mà anh đã luôn tưởng tượng ra. Anh biết điều này sẽ dẫn mình đến đâu.
Công ty đầu tư Harbor. Cổ đông chính. Và Harbor chính là công ty của chồng Karen.
“Đó là thứ cậu đang kiếm chứ?” - Vito hỏi khi quan sát Hauck đọc ngấu nghiến mẩu giấy.
"Đúng, đấy đúng là thứ tớ cần tìm, Vito à!” - Hauck thở dài.
Chú thích:
1 MSNBC: Kênh truyền hình đặt tại Mỹ nổi tiếng về đưa tin giật gân, tin được nhiều người quan tâm.
2 Quần đảo Cá sấu (Cayman Islands): Quần đảo ở phía Tây Bắc biển Ca-ri-bê. thủ phủ là George Town.
3 Mat: trang web chuyên dành cho hẹn hò.
Chương 45
Người đàn ông lao vào làn nước xanh lam lóng lánh của khu eo biển Caribê vắng vẻ. Không một bóng người. Ngay cả cái tên cho hòn đảo này cũng không, hòn đảo cũng chẳng đủ để làm thành một chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Những âm thanh duy nhất người ta có thể nghe thấy ở đây là tiếng kêu của lũ chim, khi chúng lao lừ trên cao xuống mặt biển kiếm mồi. Người đàn ông quay nhìn bãi biển làm thành một vòng cát trắng hoàn hảo, gió uể oải lay những cây cọ.
Anh có thể tới bất cứ chỗ nào, bất cứ nơi nào trên thế giới này. Nhưng tại sao anh lại chọn nơi này?
Cách đó hai mươi yard, con thuyền của anh bồng bềnh trong làn thủy triều nhẹ lên. Với anh, có vẻ như cả một cuộc đời đã trôi qua. Anh đã nói với vợ mình rằng anh sẽ dành phần cuối đời của mình ở một nơi như thế này. Một nơi không có thị trường, cũng chẳng có các chỉ số. Không điện thoại di động cũng chẳng có ti-vi. Một nơi không ai tìm thấy mình.
Và ở đó cũng chẳng có ai để mà tìm kiếm anh được.
Càng ngày cái phần cuối cuộc đời của anh càng trở nên xa tâm trí anh hơn. Ý nghĩ đó có một sức hấp dẫn lạ lùng với anh.
Phần đời còn lại.
Anh trồi cao đầu hướng về phía ánh nắng mặt trời ấm áp. Mái tóc của anh giờ đã được cắt ngắn, được cạo theo cách có thể khiến lũ trẻ nhà anh phải trợn mắt ngạc nhiên, kiểu cưa sừng làm nghé. Cơ thể anh còn cường tráng và gọn gàng. Anh cũng không đeo kính nữa. Khuôn mặt lởm chởm râu ria. Nước da cũng đã chuyển sang rám nắng.
Và tiền nữa.
Đủ để sống mãi mãi, nếu anh biết cách kiểm soát số tiền đó. Một cái tên mới Hanson, Steve Hanson. Đó là một cái tên anh phải bỏ tiền ra để mua. Một cái tên không ai biết tới.
Không ai, kể cả vợ anh và lũ trẻ.
Kể cả những kẻ muốn kiếm tìm anh.
Trong cái thế giới phức tạp của máy tính và thông tin cá nhân anh đã không còn tồn tại. Đã biến mất. Một cuộc đời đã kết thúc - trong sự thương tiếc, hối hận với nỗi đau mà anh biết mình đã tạo ra, và niềm tin anh đã phá vỡ. Nhưng anh vẫn phải làm việc đó, vì điều đó là cần thiết. Để cứu họ và cứu cả chính anh.
Một cuộc đời đã chấm đứt - và cuộc đời khác đã bắt đầu.
Khi thời cơ đã xuất hiện, anh không thể từ chối.
Thậm chí giờ đây anh còn chẳng mấy khi nghĩ đến nó nữa. Vụ nổ đó. Chỉ một phút khi anh rời khỏi phía đầu toa để gọi điện thoại thì chớp lửa loé lên sáng loà. Khói đen nổ lốp bốp, ở giữa là quầng lửa nóng rực màu cam. Như thể anh đang đứng trước hoả ngục. Quần áo cháy bùng bùng. Người văng mạnh vào tường. Tiếng người kêu la hỗn loạn. Khói đen trùm lên khắp nơi, cơn thuỷ triều đen tràn qua người anh. Anh thấy rất rõ rằng mình đã chết! Anh nhớ mình đã nghĩ, trong màn khói dày đặc, đó là cách tốt nhất. Cách sẽ giải quyết tất cả mọi việc.
Đơn giản chỉ là chết đi.
Khi bừng tỉnh, anh nhìn toa tàu tan hoang. Cái nơi anh vừa mới ngồi cách đó ít phút giờ đã tan biến. Sạch không còn dấu vết. Toa xe anh mới ngồi trước đó, những người ngồi cạnh anh đọc báo, nghe nhạc từ iPod, tất cả đã tan biến. Tan biến trong biển lửa kinh hoàng. Anh ho sặc sụa trong màn khói. Phải ra khỏi chỗ này thôi, anh nghĩ. Đầu óc ù đi. Tê cứng. Anh lảo đảo chạy ra, bước lên sân ga. Một cảnh tượng kinh hoàng - máu văng khắp nơi, mùi co-đít (1) trộn lẫn mùi da thịt cháy thành than khét lẹt. Tiếng người rên la, kêu gọi tìm kiếm sự giúp đỡ. Anh có thể làm gì được đây? Anh phải thoát khỏi đây, phải báo cho Karen biết rằng anh vẫn còn sống.
Và rồi ý nghĩ đó chợt trở nên rõ ràng đến sửng sốt.
Chính là bằng cách này. Cơ hội đã tự tìm đến anh.
Anh có thể chết.
Anh vấp phải một vật gì đó. Một cái xác. Khuôn mặt người chết gần như không còn nhận được ra nữa. Trong đám hỗn loạn, anh hiểu mình cần phải trở thành một người nào đó. Anh lục tìm trong túi quần nạn nhân. Bị bao trùm trong màn khói, cả nhà ga tối đen. Và anh đã tìm thấy nó. Anh thậm chí còn không cần nhìn cái tên. Điều đó có quan trọng gì kia chứ? Rồi anh bắt đầu chạy. Trí não anh bỗng trở nên sáng suốt hơn bất cứ khi nào trước đó. Bằng cách này đây! Lại chạy, lại vấp ngã, anh không chạy ra phía lối ra nhà ga mà là về phía đầu kia của đường rầy. Chạy ra xa khỏi đám cháy. Mọi người ở những toa xe phía sau đang đổ dồn ra phía đó. Có một việc anh cần phải làm, việc đó vẫn vang lên trong đầu anh. Abel Raymond. Anh nhìn lại toa xe đang cháy một lần cuối.
Anh có thể chết.
“Ông Hanson!” - Một giọng nói bất ngờ vang lên đưa anh về với thực tại, xen vào dòng suy tưởng về một ký ức đen tối. Ngửa người ra trong làn nước, Charles nhìn về phía con tàu. Viên thuyền trưởng người Trinidad đang cúi xuống phía mũi tàu. - “Ông Hanson, chúng ta phải khởi hành ngay nếu muốn đến đó vào buổi tối."
Nơi đó. Là bất cứ nơi nào họ đến. Một dấu chấm trên bản đồ. Có ngân hàng. Có người buôn đá quý. Điều đó quan trọng gì?
“Được. Vài phút nữa tôi sẽ lên.” - Anh đáp lại. Đứng trong làn nước, anh đưa mắt nhìn khu eo biển bình dị một lần cuối.
Vì sao anh đến đây? Ký ức chỉ khiến anh đau đớn. Những giọng nói vui vẻ và hồi tưởng chỉ khiến tâm trí anh tràn ngập tiếc nuối và hổ thẹn. Anh cầu mong cô tìm được cho mình cuộc sống mới, tìm được cho cô một người nào đó yêu thương mình. Còn Sam và Alex... Đó là niềm hy vọng cuối cùng còn rộng mở với anh. Đã có lần anh nói với cô: Chúng ta có thể sống suốt đời ở nơi này.
Phần cuối cuộc đời.
Charles Friedman bơi về phía con tàu đang đậu, tên con tàu được sơn màu vàng trên phần đuôi. Đó là sự liên hệ duy nhất mà anh cho phép bản thân mình, điều gợi nhớ duy nhất. Emberglow.
Chú thích:
1 Co-đít: thuốc nổ không khói.
Chương 46
Tuần hai lần, vào thứ ba và thứ năm, Ronald Torbor thường ăn trưa ở nhà. Hiện ông Carty, quản lý cao cấp nhà băng sẽ thế chỗ anh từ lúc một giờ đến ba giờ.
Là trợ lý giám đốc của nhà băng First Caribbean trên đảo Nevis, Ronald sống trong một căn nhà xây bằng đá có ba phòng ngủ ngay gần đường ra sân bay. Căn nhà đủ rộng cho gia đình anh - gồm vợ anh, Edith, Alya, Peter và Ezra và mẹ vợ anh nữa. Ở ngân hàng, mọi người tìm đến anh để mở tài khoản, xin vay tiền - vị trí của anh, dưới con mắt của người dân địa phương, là tương đối quan trọng. Anh cũng hài lòng đảm bảo nhu cầu cho một nhóm khách hàng giàu có trên đảo. Mặc dù lớn lên trên sân bóng đá nhem nhuốc, Ronald giờ lại thích chơi gôn vào cuối tuần ở Saint Kitt. Khi Tổng giám đốc, người sẽ sớm được chuyển đi, đến lúc về nhà thì Ronald thấy chắc chắn mình đang nắm một cơ hội lớn để trở thành giám đốc ngân hàng đầu tiên là người địa phương.
Thứ ba hôm đó, Edith đã chuẩn bị món ăn yêu thích cho anh - gà hầm cà-ri xanh. Lúc này đang là tháng năm. Cũng chẳng có nhiều việc ở văn phòng. Khi mùa du lịch đi qua, Nevis cơ bản trở thành hòn đảo nhỏ say ngủ giữa đại dương- Những ngày này, thay vì việc vẫy tay chào Carty rằng anh đã quay lại văn phòng, anh cảm thấy không cần thiết phải vội vã trở lại với cái bàn làm việc của mình.
Ronald ngồi bên bàn đọc lướt qua tờ báo: kết quả giải vô địch cri-ket vùng Ca-ri-bê đang diễn ra ở Jamaica. Cậu con trai sáu tuổi, Ezra, đã đi học về. Sau bữa trưa, Edith sẽ đưa nó đi khám bác sỹ. Thằng bé bị mắc hội chứng Asperger, một dạng tự kỷ cấp độ thấp. Ở đảo Nevis này, dẫu tiền và các công ty phát triển đang đổ xô vào, nhưng dịch vụ chăm sóc y tế không được tốt lắm.
“Sau giờ làm việc anh có thể đến xem Peter đá bóng.” Edith nói khi đang ngồi trên ghế cạnh Ezra. Thằng bé đang nghịch chiếc xe tải đồ chơi, la hét ầm ĩ.
“Được rồi, Edith.” - Ronald thở dài, tận hưởng sự bình yên của mình. Anh xem tới kết quả môn quyền anh. Matson từ Barbados đã khiến Anguilla không đoán được đòn thế của mình và dẫn trước sáu điểm!
“Rồi anh mua cho em một chút thịt tươi quay ở chỗ bà Williams, nếu không phiền anh.” - Lò quay này đối diện ngân hàng, địa điểm tốt nhất trên đảo. - “Anh biết em thích loại gì rồi đấy, hành và... ”
"Được rồi, mẹ nó.” - Ronald lầm bầm.
“Và Ronald, đừng có lầm bầm gọi em là mẹ trước mặt con như thể em là một bà già khó tính ấy.”
Ronald ngẩng mặt lên nháy mắt với Ezra. Thằng bé lên sáu bắt đầu phá lên cười. Bên ngoài có tiếng sỏi lạo xạo như có xe chạy đến trước cửa nhà.
"Có lẽ là bác Paul," - Edith nói. Paul Willams, anh họ của Edith. “ Em đã nói là bác ấy có thể sẽ đến để hỏi vay ngân hàng.”
"Thôi nào Edith," - Ronald rên rỉ - “Em làm ơn hãy bảo bác ấy đến ngân hàng được không?”
Nhưng đó không phải là Paul. Hai người đàn ông da trắng bước ra khỏi chiếc xe Jeep đi thẳng tới trước cửa nhà. Một người thấp và to bè, đeo kính ốp quanh mắt và có bộ ria rậm. Người còn lại cao hơn, mặc một chiếc áo khoác thể thao, bên trong là áo sơ mi hoa kiểu người ta hay mặc ở bãi biển, đội mũ bóng chày.
Ronald nhún vai: “Ai vậy nhỉ?”
“Em không biết.” - Edith mở cửa.
“Xin chào bà.” - Người đàn ông có ria mép lịch sự bỏ mũ, mắt nhìn qua vai Edith về phía sau. - “Cảm phiền cho tôi nói chuyện với chồng bà được không ạ. Tôi thấy ông ấy đang ở nhà.”
Ronald đứng dậy. Anh chưa từng gặp hai người này. - “Về chuyện gì vậy?”
“Về công việc làm ăn của ngân hàng ấy mà.” - Người đàn ông nói và bước tránh qua bên Edith, đi vào trong nhà.
“Ngân hàng đóng cửa trong giờ ăn trưa.” - Ronald cố tỏ ra không khiếm nhã. - “Tôi sẽ quay lại ngân hàng vào lúc ba giờ.”
“Không.” - Người đàn ông có ria mép nhấc cặp kính, mỉm cười. - “Tôi e là ngân hàng vẫn còn mở cửa, ông Torbor ạ. Ngay tại đây." Hẳn đóng sập cửa. - “Chỉ cần vài tiếng làm thêm này thôi.”
Ronald rùng mình sợ hãi, Edith nhìn chồng như hỏi chuyện gì đang xảy ra, rồi cô lùi lại phía sau bàn, cạnh Ezra. Gã đàn ông có ria mép gật đầu bảo Ronald: “Ngồi xuống đi.”
Ronald ngồi xuống, gã đàn ông kéo một chiếc ghế, mỉm cười xa lạ: “Chúng tôi thành thực xin lỗi vì đã làm gián đoạn bữa trưa của ông. Nhưng ông có thể tiếp tục bữa trưa của mình sau khi nói ra điều chúng tôi cần biết.”
“Các ông cần gì... ?”
“Như thế là đúng, ông Torbor ạ.” - Gã đàn ông rút từ trong túi áo khoác ra một tờ giấy. - “Đây là một tài khoản cá nhân ở ngân hàng của ông. Chắc chắn là rất quen thuộc. Một khoản tiền lớn đã được chuyển từ ngân hàng Barclay, Tortola vào tài khoản này vài tháng trước đây.”
Ronald nhìn số tài khoản, kinh ngạc, số tài khoản đúng là của ngân hàng First Caribbean. Gã cao hơn kéo một chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh Ezra, nháy mắt làm trò với thằng bé, khiến nó phá lên cười. Ronald liếc nhìn Edith sợ hãi. Bọn họ làm cái quái quỷ gì thế không biết?
"Số tài khoản này không còn hoạt động nữa, ông Torbor ạ.’’ - Gã ria mép thừa nhận. - “Khoản tiền đó cũng không còn ở ngân hàng của ông nữa. Nhưng điều chúng tôi muốn biết, và là điều ông sẽ giúp chúng tôi tìm ra, ông Torbor ạ, nếu ông muốn quay lại với bữa trưa và cuộc sống hạnh phúc nhỏ bé của mình, chính xác là số tiền này đã được chuyển tới đâu, và dưới cái tên nào.”
Mồ hôi túa ra ướt đẫm chiếc sơ mi trắng vừa mới được là ủi của Ronald. - “Các ông biết là tôi không thể tiết lộ những thông tin đó được. Đó là thông tin cá nhân, được ngân hàng quy định...”
"Cá nhân." - Gã ria mép gật đầu, đưa mắt cho tên cao gầy. "Quy định.” - Gã đàn ông mặc áo sơ mi hoa thở dài. - “Quy định lúc nào cũng rất khốn kiếp. Chúng tôi hiểu điều đó.” Đột nhiên hắn với tay túm lấy Ezra, nhấc thằng bé ra khỏi ghế. Bị bất ngờ, thằng bé ré lên. Gã cao gầy đặt Ezra lên đùi mình. Edith cố gắng ngăn hắn lại nhưng đã bị hắn thúc cùi chỏ làm ngã văng xuống sàn nhà.
“Ezra!" - Edith kêu lên. Thằng bé bắt đầu khóc toáng lên. Ronald nhảy dựng dậy.
"Ngồi xuống!" - Gã ria mép túm lấy tay Ronald, đồng thời hắn móc ra một vật gì đó từ trong túi áo. Một thứ màu đen và bằng thép lạnh. Ronald thấy tim mình đứng lại khi nhìn thấy nó. - "Ngồi xuống.”
Hoảng sợ, Ronald từ từ ngồi xuống ghế. Anh nhìn Edith bất lực. - ''Dẫu các ông muốn gì thì cũng không được làm hại đến Ezra.”
“Chẳng có lý do gì chúng tôi phải làm vậy, ông Torbor ạ.” - Gã ria mép mỉm cười. - “Nhưng cũng chẳng ích gì cứ quẩn quanh mãi. Việc ông cần làm bây giờ là gọi điện đến văn phòng, và tôi muốn bất cứ người nào ở đầu dây đằng kia tìm kiếm thông tin về số tài khoản đó cho tôi. Dẫu có tìm bất cứ lý do biện minh nào thì chúng tôi cũng biết rằng lượng tiền lớn như vậy không mấy khi được chuyển cho cái ngân hàng nhỏ bé đang ngủ quên của ông. Tôi muốn biết số tiền đó đã đi đâu, đến nước nào, ngân hàng nào, và ai đứng tên. Hiểu không?”
Ronald ngồi lặng yên.
“Bố mày hiểu điều tao muốn nói chứ hả, nhóc?” - Hắn búng tai Ezra. - “Bởi nếu ông ta không hiểu” - hai mắt gã đàn ông tối lại - "đảm bảo cuộc sống của gia đình ông sẽ không được vui vẻ, và ông sẽ nhớ lại thời điểm này trong hối hận và đau khổ cho đến khi nào xuống mồ. Tôi nói vậy có rõ không, ông Torbor?”
"Làm theo họ nói đi, Ronald, làm đi mà. ” - Edith đứng dậy, van vỉ chồng.
“Anh không thể, không thể...” - Ronald run rẩy. - “Những việc như thế này đều có quy tắc cả. Ngay cả khi anh đồng ý làm theo ý họ thì nó cũng được quy định theo quy tắc quốc tế về nghiệp vụ ngân hàng. Luật pháp...”
“Lại những quy tắc đó.” - Gã ria mép lắc đầu thở dài. Gã cao gầy ôm chặt Ezra, móc trong túi áo khoác ra một vật. Mắt Ronald hoa lên. Đó là một hộp đựng xăng dùng cho bật lửa. Ronald lao ra khỏi ghế cản hắn lại, nhưng gã ria mép đã đánh mạnh báng súng vào một bên mặt Ronald khiến anh ngã lăn ra sàn nhà.
“Ôi, không. Chúa ơi!” - Edith la lên, cố kéo gã đàn ông ra khỏi thằng bé. Nhưng hắn đã thúc cùi chỏ khiến Edith văng ra ngoài. Rồi vừa mỉm cười hắn vừa tóm lấy cổ thằng bé đang la khóc vì hoảng sợ và bắt đầu tưới xăng lên người nó. Ronald lại bật dậy nhưng gã ria mép lên đạn, dí thẳng vào trán Ronald nói. — “Tôi nhớ là đã bảo ông ngồi xuống rồi kia mà.”
Ezra bắt đầu la khóc om sòm.
“Điện thoại đây, ông Torbor.” - Hắn đẩy chiếc điện thoại qua bàn. Gọi đi, rồi chúng tôi sẽ đi. Gọi ngay bây giờ.”
“Tôi không thể. ” - Ronald với hai tay run rẩy lên cao. - “Chúa ai, đừng. Con... không thể.”
“Nhưng tôi biết Chúa còn đang bận, ông Torbor à.” - Gã dàn ông lắc đầu. - “Còn đứa trẻ này thì hoàn toàn vô tội. Thật đáng hổ thẹn khi phải làm cho nó đau đớn đến vậy. Chỉ vì một mớ quy tắc ngu xuẩn... Dầu sao thì để vợ ông chứng kiến việc này cũng chẳng hay ho gì, phải vậy không?”
“Ronald! ”
Gã đang giữ Ezra rút bật lửa. Ngọn lửa nhảy múa trên đầu chiếc bật lửa. Hắn đưa gần lại chiếc áo ướt đẫm xăng của thằng bé.
“Không” - Edith hét lên. - “Ronald, đừng để chúng làm vậy! Vì Chúa, hãy làm tất cả những gì chúng bảo. Ronald, làm đi mà...”
Ezra gào thét. Gã đàn ông đưa chiếc bật lửa lại gần hơn nữa. Gã ria mép đẩy chiếc điện thoại ra trước mặt Ronald và nhìn anh chăm chăm.
“Thích thú chứ, ông Torbor. Quên những quy tắc khốn kiếp đó đi. Nhấc điện thoại lên đi.”
Chương 47
Chiều ngày thứ ba, Karen vội vã thả Alex xuống phía trước Cung Thiếu nhi tại đường Arch để gây quỹ thiếu niên cho lũ trẻ ở Crisis trong thành phố. Cô cảm thấy phấn khởi khi nhận được cú điện thoại của Hauck. Cả hai hẹn gặp tại quán bar ở L’Escale, nhìn ra cảng Greenwich, gần như là ở ngay cạnh đó. Cô đang mong được gặp Hauck để kể cho anh nghe mình đã tìm thấy những gì. Hauck ngồi bên chiếc bàn cạnh quầy bar. Anh vẫy tay khi Karen bước vào.
“Chào anh." - Karen vẫy tay, quàng chiếc áo khoác bằng da của mình ra sau ghế.
Cô huyên thuyên một hồi về việc giao thông trong thành phố trở nên tồi tệ vào giờ này. - “Tôi đã cố tìm một chỗ để đậu xe trên đường này.” - Cô liếc mắt vờ thất vọng. - “À, anh là cảnh sát mà!”
"Có vẻ như điều đó đúng với tôi.” - Hauck nhún vai, cố nén cười.
"Tôi quên mất là mình đang nói chuyện với ai!” - Karen cười. - "Chẳng nhẽ anh không làm được gì để cải thiện vấn đề này sao?”
“Tôi đang nghỉ phép mà, cô không nhớ sao? Khi nào quay về với công việc, tôi hứa đó sẽ là việc đầu tiên tôi làm.”
“Tốt!" - Karen gật đầu hào hứng, có vẻ rất hài lòng - "Đừng làm tôi thất vọng. Tôi đặt niềm tin vào anh đấy.”
Người phục vụ bước đến, Karen chỉ mất một giây để gọi một ly rượu vang nho xanh. Hauck đã gọi bia từ trước. Trước khi đi Karen đã trang điểm qua một chút, mặc một chiếc ao len chui đầu màu be và quần bó. Có điều gì đó khiến cô muốn mình trông hấp dẫn. Khi nguời bồi bàn mang rượu tới, Hauck nâng cốc giơ về phía Karen.
“Chúng ta uống vì lý do gì nhỉ?” - Karen nói.
“Uống vì những lúc cuộc sống nhẹ nhàng hơn.” - Hauck gợi ý.
“A-men.” - Karen mỉm cười. Cả hai nhẹ nhàng chạm cốc. Lúc đầu có vẻ như không khí không được thoải mái nên cả hai chỉ nói chuyện tào lao. Cô kể cho anh nghe về việc Alex tham gia ban điều hành thiếu niên ở Crisis, khiến Hauck rất ấn tượng và gọi đó là “một việc rất đáng khâm phục.”
Karen cười: “Yêu cầu phục vụ cộng đồng mà, trung uý. Tất cả lũ trẻ đều phải tham gia. Đó là thủ tục xin nhập học đại học vào mùa xuân tới.”
Karen hỏi thăm con gái Hauck đi học ở trường nào, anh trả lời ngắn gọn là ở trường “Brooklyn,” không nhắc tới Norah và Beth. - “'Con bé lớn nhanh thật.” - Hauck nói. - “Rồi cũng đến lúc tôi sẽ phải làm công việc phục vụ cộng đồng ấy thôi.”
Mắt Karen bừng sáng: “Chỉ cần đợi kỳ thi SAT (năng khiếu học thuật) nữa thôi mà.”
Dần dà, Hauck cảm thấy thoải mái hơn, và đường biên giữa hai người trở nên mờ đi chút ít, bỗng nhiên anh cảm thấy như mình sống lại trong ánh mắt màu hạt dẻ ấm áp, những đốm tàn nhang mờ mờ trên hai má, giọng nói còn nặng, và cặp môi căng mọng, mái tóc màu mật ong của cô. Anh quyết định chưa kể những gì anh biết về công ty Dolphin và mối liên hệ của Charlie với công ty đó, về Thomas Mardy và ông ta đã xuất hiện ở vụ tai nạn của AJ vào ngày hôm đó ra sao. Chưa vội, cho đến khi anh biết chắc chắn. Những chuyện đó chỉ khiến Karen đau lòng thêm mà thôi - sẽ khiến mọi thứ lăn xuống con đường mà một ngày nào đó anh sẽ phải thấy hối tiếc. Nhưng anh vẫn nhìn Karen chăm chú, anh như được trở lại phần đời trước đây khi anh còn chưa bị tổn thương bởi mất mát. Và anh hình dung trong cái thanh thản của nụ cười Karen, ly rượu vang thứ hai, cái cách cô cười với tất cả những điều anh đã muốn cô như vậy và cô cũng cùng chung cảm nhận đó.
Một lúc yên lặng, Karen đặt ly ruợu xuống và hỏi: - “Anh nói công việc đã tiến triển được chút ít khi về miền Nam?”
Hauck gật đầu: “Cô còn nhớ vụ tai nạn xảy ra vào ngày nhà ga bị đánh bom khi tôi tới đó chứ?”
"Nhớ chứ.”
Hauck đặt cốc bia xuống: “Tôi đã phát hiện ra vì sao AJ bị giết.”
Karen kinh ngạc: “Tại sao?'’
Hauck đã suy nghĩ rất kỹ lưỡng cần phải nói những gì trước khi Karen tới, và anh kể một công ty nào đó đã gian lận, một công ty dầu lửa, và việc bố AJ -một hoa tiêu của cảng- đã vướng vào vụ đó ra sao.
“Đó là một lời cảnh báo” - Hauck nhún vai - “nếu có thể tin được. Để bố AJ ngừng việc làm của mình lại.”
"Đó là một vụ giết người?” - Karen nói, một cơn sốc vụt chạy qua cô.
Hauck gât đầu: “Đúng vậy.”
Karen ngả người ra sau, kinh hoàng: “Chuyện này thật kinh khủng. Anh đã không bao giờ nghĩ rằng đó là một vụ tai nạn. Ôi! lạy Chúa...”
"Và đã có tác dụng."
"Ý anh là sao?"
“Bổ AJ đã ngưng việc mình đang làm. Ông đã chôn vùi vụ việc vào dĩ vãng. Sẽ chẳng có ai biết đến vụ này nếu tôi không đi xuống đó."
Karen tái mặt: “Anh nói là đi xuống đó vì tôi. Vậy vụ này có liên quan gì tới Charlie không?”
Nói cho cô ấy thế nào được nhỉ? về Charles, về Dolphin, về những con tàu trống không ư? Hay nói cho cô ấy bằng cách nào Charles đã có mặt ở Greenwich vào ngày hôm đó? Làm sao anh có thể khiến cô đau lòng thêm nữa, đau lòng hơn cả lúc trước cơ chứ? Làm sao anh có thể nói được cho tới khi anh biết rõ về điều đó. Cho tới khi anh chắc chắn.
Và giờ đây khi đang ở bên cô, anh hiểu lý do tại sao.
"Công ty đó.” - Hauck nói - “công ty gian lận ở dưới miền Nam ấy, có liên quan tới công ty Harbor.”
Karen trở nên nhợt nhạt: “Có liên hệ với Charlie?”
Hauck gật đầu: “Công ty dầu lửa Dolphin. Cô có bao giờ nghe nhắc tới cái tên này không?”
Karen lắc đầu.
"Có thể công ty đó là một phần trong nhóm đầu tư mà Charlie làm.”
Karen dè dặt: “Ý anh là sao, các khoản đầu tư nào kia?”
“Đầu tư ra nước ngoài.”
Karen đưa tay lên bịt miệng, nhìn Hauck, lập lại những lời Saul đã nói: “Anh nghĩ Charles có liên quan sao? Trong vụ gây tai nạn này?”
“Tôi không muốn nói trước, Karen à.”
"Làm ơn đừng tìm cách che đỡ cho tôi nữa, Ty. Anh đang nghĩ rằng Charles có liên quan.”
"Tôi không biết.” - Hauck thở hắt ra. Anh không kể lại rằng Charles đã có mặt tại hiện trường ngày hôm đó. - “Còn rất nhiều manh mối tôi phải lần theo.”
“Manh mối?” - Karen ngả người. Trong mắt cô ánh lên cái nhìn lạ lẫm và bối rối. Cô ép mạnh hai lòng bàn tay vào môi mình và gật đầu: “Tôi cũng phát hiện ra một chuyện, Ty à.”
“Chuyện gì?”
“Tôi không biết, nhưng chuyện này khiến tôi hơi sợ - cũng như anh bây giờ.”
Cô kể lại cho Hauck nghe việc mình đã kiểm tra lại toàn bộ những đồ dùng của Charles, như Hauck đã bảo cô, ra sao, tất cả tài liệu cũ, cô đã gọi cho thư ký và đại lý du lịch của của Charles nhưng cũng không phát hiện ra điều gì. Cho tới khi cô bắt gặp một cái tên.
“Anh ta đã gọi điện cho tôi vài lần, ngay sau khi Charles chết. Đó là người đã từng làm việc cho Charles.” - Cô tả lại Jonathan đã tìm cách liên lạc với cô ra sao, cả mẩu tin bí ẩn mà anh ta để lại. Có một số chuyện bà cần phải biết... - “Tôi không thể quan tâm tới chuyện ấy vào lúc đó. Có quá nhiều việc phải làm. Tôi đã nói với Saul. Ông ấy bảo đó chỉ là vấn đề liên quan đến nhân sự và ông ấy sẽ giải quyết vụ đó.”
Hauck gật đầu. - “ Ừ...."
“Nhưng sau rồi tôi nghĩ đến chuyện đó sau tất cả những gì đã xảy ra, và nó bắt đầu ám ảnh tôi. Vì thế tôi đã tới tìm anh ta trong lúc anh đi vắng. Tôi đã tới New Jersey, để tìm anh ta. Tôi không biết anh ta làm việc ở đâu. Tất cả những gì tôi có chỉ là địa chỉ tôi có được từ khi anh ta làm việc cho Charles, với một con số riêng. Tôi liều tới đó. Vợ anh ta ra mở cửa.” - Đôi mắt cô trở nên đờ đẫn. - “Cô ấy đã nói cho tôi điều tồi tệ nhất.”
"Đó là gì?”
"Anh ta đã chết. Anh ta đã bị giết. Trong một vụ tai nạn xe đạp vài tháng trước đó. Điều đáng sợ là anh ta đã có kế hoạch cung cấp lời khai liên quan tới công ty Harbor vào cuối tuần đó.”
“Về vấn đề gì?”
"Tôi không biết. Nhưng không chỉ có vậy. Vấn đề là anh ấy đã bị giết cũng bằng cùng một kiểu như AJ, người có mang tên của Charlie trong túi áo.”
Hauck đặt cốc bia xuống. Cơ quan phân tích những sự kiện như thế này bắt đầu làm việc.
“Một chiếc ô-tô đã đâm anh ta.” - Karen nói. - “Như AJ. Lái xe gây tai nạn và bỏ chạy.”
Đám nhân viên văn phòng ngồi gần Hauck và Karen bỗng nhiên ồn ào hẳn lên. Karen cúi người về phía trước, hai đầu gối ép chặt vào nhau, khuôn mặt cô trở nên trống rỗng.
“Rất tốt.” - Hauck tỏ ra hài lòng. - “Thực sự là rất tốt.”
Hai má Karen hơi hồng hào trở lại.
“Cô đói không?” - Hauck đánh bạo hỏi.
Karen nhún vai, liếc nhanh đồng hồ đeo tay. - “Alex đã về nhà cùng với một người hàng xóm. Tôi nghĩ là mình còn thời gian.”
Chương 48
Trên đường về nhà, Hauck gọi cho Freddy Munoz.
“Trung uý!” - Viên thanh tra kêu lên ngạc nhiên. - “Lâu lắm không nghe tin gì. Kỳ nghỉ thế nào?”
“Tôi đâu có đi nghỉ, Freddy. Nghe này, tôi cần cậu giúp đỡ. Tôi nhờ cậu sao hộ tôi một bộ hồ sơ của một vụ giết người chưa tìm ra manh mối ở New Jersey, mạn Montclair ấy. Họ của nạn nhân là Lauer. L-A-U-E-R, cùng họ với Matt, người dẫn chương trinh ti-vi ấy, tên là Jonathan. Có thể cảnh sát bang Jersey cùng điều tra vụ này."
Munoz viết lại cái tên: “Lauer. Tôi phải nói vì lý do gì để có thể lấy được bộ hồ sơ đó, trung uý?”
“Tương tự như vụ chúng ta đang làm ở đây.”
“Vụ nào vậy, trung uý?”
“Vụ lái xe gây tai nạn rồi bỏ chạy.”
Munoz im lặng. Hauck nghe có tiếng trẻ con đùa nghịch vọng lại qua điện thoại, có thể là trên một bộ phim miền Bắc trên ti-vi. - “Trời ạ, Ty, vụ này đã trở thành mối quan tâm chính với anh rồi sao?”
“Mai nhờ ai đó mang qua nhà tôi nhé. Nếu tôi còn đang thi hành nhiệm vụ thì tự tôi sẽ giải quyết vụ đó. Mà này Freddy...” - Hauck nghe tiếng Will, con trai Freddy, hoan hô. - “Vụ này chỉ hai người chúng ta biết thôi nhé.”
“Được, trung uý.” - Viên thanh tra đáp. - “Chắc chắn.”
ĐÃ CÓ NHỮNG MANH MỐI MỚI, Hauck tự nhủ.
Thứ nhất là kiểm tra qua người uỷ quyền của Charlie Friedman, Lennick. Karen tin tưởng ông ta. Gần như coi ông ta là một thành viên trong gia đình. Ông ta chắc phải biết Lauer. Liệu ông ta có biết gì về Dolphin và Falcon không? Charlie có bao giờ đề cập đến chuyện anh ta quản lý các tài khoản ở nước ngoài không?
Còn lại là kiểm tra vụ New Jersey, vụ lái xe gây tai nạn thứ hai. Hauck chưa bao giờ là người tin vào sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Trong khi lái xe, ý nghĩ của anh cứ lạc về phía Karen. Trong ý nghĩ của mình, anh liệt kê được cả chục lý do vững chắc rằng anh nên dừng lại tại đây, trước khi mọi thứ đi xa hơn.
Bắt đầu bằng việc chồng cô ấy vẫn còn sống, và Hauck đã cam đoan sẽ tìm ra chồng cô ra sao. Rồi anh đã không muốn cô phải đau đớn thêm một cách không cần thiết bằng cách không nói hết mọi điều.
Và cả việc cô là người giàu có; quen với những điều khác biệt; đi lại với những nhóm người khác.
Chúa ơi, Ty, mày không phải là cầu thủ có lợi thế trong trận cầu này.
Nhung anh không thể phủ nhận rằng anh cảm nhận một điều gì đó từ cô. Luồng điện chạy vụt qua anh khi tay hai người vô tình chạm nhau một vài lần trong bữa tối hôm đó. Cảm giác ấy đang rần rật chạy qua huyết quản ngay ở thời điểm hiện tại.
Anh lái chiếc Bronco vào đường nhánh rời khỏi đường 95 quay lại Stamford. Anh chợt nghĩ tại sao mình lại không thể nói với Karen. Vì sao anh không nói toàn bộ sự thật; rằng Charles đã quay lại Greenwich sau khi vụ nổ bom xảy ra; rằng Charles có liên quan đến vụ sát hại AJ; mà có thể còn liên quan đến vụ thứ hai nữa.
Tại sao anh không muốn đưa cảnh sát vào cuộc, không muốn để người khác liên quan đến vụ án.
Bởi Hauck hiểu ra rằng, bốn năm vừa qua anh gần như là vất vưởng và cô đơn, và hiện tại, Karen là nơi duy nhất anh thấy có được sự gắn bó.
Chương 49
Chiều hôm sau có người gõ cửa nhà Hauck.
Là Freddy Munoz.
Anh ta đưa Hauck một chiếc phong bì cỡ lớn có dây buộc quanh thường dùng để gửi tài liệu giữa các phòng. - “Hy vọng là tôi không làm phiền. Tôi đã nghĩ rằng mình nên tự tay mang đến cho trung uý, liệu có được không?”
Hauck vừa mới tập chạy về, người đang còn nhễ nhại mồ hôi. Anh mặc chiếc áo phông của trường Cao đẳng Colby màu xám và quần đùi phòng tập thể dục dụng cụ. Anh đã dành gần hết buổi sáng làm việc trên máy tính.
"Không có gì phiền cả.”
"Chỗ này trông cũng được." - Viên thanh tra gật đầu đồng tình. - “Cũng cần có bàn tay phụ nữ, trung uý không nghĩ vậy sao? Có thể là một chút bếp núc ở chỗ kia chăng?”
Hauck liếc nhìn đống bát đĩa chất đống trong bồn rửa, vài chiếc hộp đựng đồ ăn sẵn mua về vẫn còn trên bàn. - “Có dám xung phong không?”
"Chịu." - Munoz bật ngón tay vờ thất vọng. - “Tối nay tôi phải làm việc, trung uý à. Nhưng tôi nghĩ mình sẽ ở đây ít phút trong khi anh xem qua những thứ đó, nếu được?”
Cảm thấy phấn chấn, Hauck mở nắp phong bì, đổ nội dung bên trong ra mặt bàn, trong khi Munoz thả người ngồi xuống chiếc ghế nghỉ ngơi trong phòng khách.
Đầu tiên là báo cáo vụ tai nạn. Bản báo cáo tai nạn được ghi chép bởi viên sỹ quan chịu trách nhiệm ở hiện trường. Đó là viên sỹ quan của Cảnh sát hạt Essex. Thông tin chi tiết về cái chết của nạn nhân. Tên nạn nhân: Lauer. Địa chỉ: 3135 Mountain View. Ngày sinh. Nhận dạng: giới tính nam, da trắng, thương tích toàn thân, mất máu. Nhân chứng mô tả một chiếc xe thể thao màu đỏ không rõ nhãn hiệu. Thời gian xảy ra tai nạn: 10 giờ 07 phút sáng. Có kèm theo bản khai nhân chứng. Vụ việc dường như đem lại một cảm giác tương tự.
Hauk lướt qua tập ảnh phô-tô lại. Ảnh nạn nhân mặc đồ nịt cua-rơ. Bị đâm trực diện. Thương tích nghiêm trọng phần đầu và thân người. Một tấm chụp hình chiếc xe đạp đã biến thành một đống sắt nham nhở. Một vài góc chụp khác nhau của hiện trường. Chụp từ dưới dốc ngược lên và từ trên chụp xuống. Chiếc xe chắc chắn đang lao xuống dốc, vết phanh chỉ xuất hiện sau khi đã xảy ra va chạm.
Cũng giống vụ AJ.
Tiếp đó, Hauck lật qua báo cáo giám định pháp y. Thương tích nặng, vỡ khung xương chậu, rạn xương sống, tổn thương vùng đầu. Chảy máu trong nghiêm trọng. Khám nghiệm kết luận chết ngay khi va chạm. Hauck lật qua phần báo cáo vụ án của điều tra viên. Không khác so với những gì người ta kết luận về vụ Hauck gặp ở Connecticut, họ cũng điều tra kỹ lưỡng khu vực quanh đó, báo cảnh sát bang, kiểm tra các ga-ra sửa xe, xác định kiểu lốp xe từ mẫu vệt phanh, lấy lời khai nhân chứng, lời khai chủ sử dụng lao động. “Không có động cơ giết người nào được tìm thấy'’ để có thể khẳng định đó không phải là một vụ tai nạn.
Vẫn không tìm ra nghi can.
Munoz đứng dậy đi ra phía chiếc giá vẽ mà Hauck dựng gần cửa sổ. Viên thanh tra nhấc khung tranh: “Cái này trông đẹp đấy chứ trung uý!”
“Cảm ơn cậu, Freddy.”
“Có lẽ sẽ có lúc được gặp anh ở Bảo tàng Bruce ấy chứ. Tôi không phải xếp hàng đâu đấy nhé."
“Lấy bức nào cũng được, nếu cậu thích.” - Hauck lẩm bẩm trong khi lướt qua mấy trang tài liệu. - “Có ngày chúng sẽ trị giá hàng triệu đô đấy."
Vụ này thật đáng nản - cũng giống như vụ của anh. Đồng nghiệp của anh chưa bao giờ tìm ra được manh mối vững chắc nào. Có vẻ như chỉ là một sự trùng hợp, một sự trùng hợp mà Hauck không hề tin tưởng, sự trùng hợp chẳng dẫn đến đâu cả.
“Có vẻ như rất hợp lý, phải không Freddy?” - Hauck hỏi. - “Hai chiếc xe 509S (1) khác nhau? Hai bang khác nhau. Cả hai đều có liên quan tới Charles Friedman.”
“Cứ tiếp tục đi, trung uý.” - Munoz nói, lắc lư chiếc tay cầm của chiếc ghế lớn.
Tất cả chỉ còn lại thông tin cụ thể về lời khai nhân chứng. Lời khai nhân chứng. Một nhân chứng duy nhất.
Khi Hauck mở bản khai, anh gần như chết điếng. Hai mắt như bung ra khi nhìn vào tên người khai làm nhân chứng.
“Thấy không?” - Freddy Munoz ngồi thẳng dậy, vung chân bước ra khỏi chiếc ghế.
“Có.” - Hauck gật đầu, hít sâu một hơi. - “Chắc chắn là có.” Nhân chứng duy nhất trong vụ sát hại Jonathan Lauer là viên cảnh sát New Jersey đã nghỉ hưu.
Tên hắn là Phil Dietz. Cùng một nhân chứng trong vụ AJ.
Chú thích:
1 509S: Một mẫu xe thể thao
Chương 50
Sai lầm. Hauck đọc lại bản khai một lần, hai lần, rồi lần nữa.
Dietz đã mắc một sai lầm nghiêm trọng!
Pappy Raymond đã mô tả người ông gặp bên ngoài quán bar, chính kẻ gây áp lực với ông về vụ mấy con tàu. Hắn có thân hình to đậm và để ria. Ngay lập tức, Hauck hiểu ngay ai là người đã chụp hình AJ nằm chết gửi cho Pappy.
Chính là Dietz.
Tim anh như ngừng nhịp.
Hauck nhớ lại vụ án ở Greenwich. Dietz đã khai hắn đang kinh doanh thiết bị an ninh. Hắn nói hắn đã chạy thẳng tới nơi xảy ra tai nạn. Rằng hắn không kịp nhìn rõ, một chiếc xe thể thao màu trắng mang biển đăng ký của bang khác, bởi chiếc xe lao đi rất nhanh.
Được lắm, đồ khốn.
Hắn là một phần của âm mưu dựng lên vụ án. Đó là lý do tại sao không ai có thể phát hiện ra chiếc xe thể thao màu trắng nào mang biển số Massachusetts hay New Hampshire. Đó cũng là lý do tại sao cảnh sát New Jersey không thể tìm ra được chiếc xe tương tự.
Đơn giản là chúng không hề tồn tại. Tất cả đã được dàn dựng.
Có một ngàn lẻ một lý do để chẳng phải ai cũng có thể liên hệ hai vụ tai nạn với nhau, nếu như Karen không nhìn thấy chồng mình trong đoạn phim tài liệu đó.
Hauck mỉm cười. Dietz đã xuất hiện ở cả hai nơi. Hai nơi khác nhau, cách nhau hơn một năm trời.
Tất nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa là Charles Friedman cũng có liên quan.
Hauck ngẩng lên nhìn Munoz, cảm thấy có gì đó đang chảy rần rật trong huyết quản, phấn chấn: “Còn ai biết về chuyện này nữa không, Freddy?”
“Anh đã bảo chuyện này chỉ hai chúng ta biết mà.” - Viên thanh tra nhún vai - “Vì vậy tôi không nói với ai hết.”
Hauck nhìn Freddy: “Cứ vậy nhé.”
Munoz gật đầu.
“Tôi muốn xem lại hồ sơ vụ Raymond. Cậu có mang bản sao ở đây không?”
“Có, thưa trung uý.”
Hauck nhìn bức hình. Bộ mặt đàn dúm, đầy ria mép của tên cảnh sát nghỉ hưu giờ đã chuyển sang khuôn mặt xảo trá của một kẻ giết người chuyên nghiệp.
Cả hai vụ án không hề nhập vào thành một mà đúng ra là xung đột với nhau. Xung đột trực tiếp. Hơn nữa, bây giờ anh có thêm những nhân chứng mới để tìm gặp. Máu lại đang rần rật chảy trong huyết quản.
Mày đã phá hỏng mọi thứ rồi Dietz. Hauck nói. Hỏng rất nặng rồi, đồ khốn!
VIỆC ĐẦU TIÊN Hauck làm là gửi ảnh của Dietz cho Pappy; một ngày sau, Pappy khẳng định đó chính là kẻ mà ông đã gặp ở Pensacola. Chỉ riêng điều đó thôi có thể cũng đã đủ để bắt giữ Dietz, vì âm mưu sát hại AJ, và có thể là cả Jonathan Lauer nữa.
Nhưng điều đó không hề đem lại chút ánh sáng nào cho vụ Charles Friedman.
Sự trùng hợp không chứng minh được điều gì. Một luật sư giỏi có thể cãi rằng có mặt ở cả hai vụ tai nạn là điều hoàn toàn không có gì đặc biệt. Anh sẽ bảo Karen tìm thêm thông tin về chồng cô. Charles đã có mặt ở Greenwich. Lauer làm việc cho Charles. Cả hai đều dẫn đến một cái tên, Dolphin. Dietz cũng liên quan tới vụ này. Hauck không hề mong đợi điều gì cái kết cục vụ này đem tới. Việc liên hệ Dietz với Charles chỉ là một khởi đầu. Hiện tại, anh e rằng nếu anh hé lộ tất cả mọi mắt xích thì chỉ có Chúa mới biết được chuyện này sẽ dẫn đến đâu.
Phải gặp Fitzpatrick, một giọng nói vang lên trong anh. Xin lệnh bắt. Hãy để các nhân viên FBI làm vụ này. Anh đã tuyên thệ. Cả cuộc đời anh đã luôn hành động theo những lời tuyên thệ ấy, còn Karen thì đã lật ra cả một âm mưu.
Nhưng có điều gì đó giữ Hauck lại.
Nếu Charles vô tội thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh không chứng minh được Charles và Dietz có liên quan? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh làm tổn thương Karen, làm tổn thương cả gia đình cô, khi cố tìm cách biến vụ án này thành vụ của mình, chứ không phải là vụ của cô nữa? Hãy tự mình làm vụ này. Gây áp lực lên Dietz, và hắn sẽ lộ diện.
Nhưng liệu đó có phải là vì Karen? Đó có phải là điều anh thấy mình đang hướng tới, khi tất cả những tình tiết cứ sầm sập đâm sầm vào nhau. Anh chỉ muốn bảo vệ cô thêm một thời gian nữa cho tới khi anh thực sự biết chính xác sự việc. Đó là điều đang khuấy đảo mãnh liệt trong huyết quản anh. Điều đã khiến anh thức trắng cả đêm để nghĩ về nó. Điều khiến anh bị giằng xé. Là một cảnh sát, anh biết cảm xúc đang phản bội mình.
Cuối ngày, Hauck gọi điện cho Karen, mắt vẫn không rời tập hồ sơ của Dietz: “Tôi sẽ đi New Jersey một ngày. Có thể chúng ta đã tìm ra điều gì đó.”
Karen kêu lên phấn khích: “Điều gì vậy?”
“Tôi đã xem qua hồ sơ vụ Jonathan Lauer. Nhân chứng duy nhất có mặt ở đó là một gã có tên là Dietz - hắn là một trong hai nhân chứng trong vụ AJ Raymond.”
Karen thở dốc. Trong im lặng tiếp theo, Hauck biết Karen đang sắp xếp lại xem những thông tin đó có ý nghĩa là gì.
“Cả hai vụ đều được dàn dựng trước, Karen à. Gã Dietz có mặt ở cả hai vụ tai nạn. Ngoại trừ một điều, đó không phải là hai vụ tai nạn, Karen. Đó là hai vụ giết người. Để che dấu một điều gì đó. Việc cô đã làm là rất tốt. Không ai có thể lần ra mối liên hệ giũa hai vụ án được nếu cô không tới gặp Lauer.”
Karen không đáp lại. Đáp lại anh chỉ là sự im lặng, cô đang tìm cách giải mã xem những điều này có nghĩa là gì, liên quan thế nào tới Charles, với lũ trẻ nhà cô, và chính cô.
“Tôi sẽ phải nghĩ thế nào đây, Ty?”
“Nghe này, Karen, trước khi chúng ta...."
“Ty, tôi rất tiếc," - Karen nói. - “Tôi rất tiếc vì hai người đã phải thiệt mạng. Thật kinh khủng. Tôi biết đó là điều anh luôn nghĩ tới. Nhưng tôi không thể không nghĩ rằng có chuyện gì đó đang xảy ra, và nó bắt đầu làm tôi cảm thấy sợ hãi. Ty, tất cả những chuyện này có nghĩa là sao với Charles? ”
“Tôi không biết. Đó là điều tôi sẽ phải tìm ra.”
“Tìm ra bẳng cách nào hả Ty? Anh định sẽ làm gì?”
Có rất nhiều điều Hauck còn giấu cô. Rằng Charles có liên quan tới công ty Falcon. Liên quan tới Pappy Raymond. Rằng anh chắc chắn Charles có dính líu đến cái chết của AJ Raymond - và có thể là cả cái chết của Jonathan Lauer nữa. Nhưng làm sao anh có thể nói với cô về bất cứ điều gì trong số đó được kia chứ?
“Tôi sẽ đi New Jersey.” - Hauck nói. - “Đến nhà Dietz. Ngay ngày mai.”
“Anh định đi xuống đó? Để làm gì chứ?”
“Để xem tôi có thể tìm được gì ở đó. Tìm cách vạch ra bước đi tiếp theo của chúng ta.”
''Bước tiếp theo ư? Anh sẽ bắt hắn mà Ty. Anh biết là hắn đã dựng lên tất cả và đưa những nạn nhân xấu số đó đến cái chết. Hắn phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ.”
“Cô muốn biết chuyện này liên quan thế nào tới Charles kia mà. Karen! Có phải vì điều đó mà cô đến gặp tôi không? Cô muốn biết Charles đã làm gì kia mà.”
"Gã đó là kẻ giết người, Ty. Hai người đã chết.”
“Tôi biết rằng đã có hai người phải chết, Karen! Đó là điều cô không phải nhắc tới.”
"Anh đang nói gì vậy, Ty?"
Im lặng bao trùm hai người trong giây lát. Đột nhiên Hauck cảm thấy chắc chắn rằng, bằng việc thú nhận anh sẽ không đi New Jersey để tìm thông tin từ Dietz thì cũng đồng nghĩa anh đã từ bỏ tất cả mọi thứ còn lại trong trái tim anh: cảm xúc anh dành cho cô, những bím tóc đỏ đã từng thúc giục anh, nỗi đau từ một nơi xa xăm nào đó vọng tới. Cuối cùng, Karen nuốt nước bọt: “Anh chưa nói với tôi tất cả mọi việc, phải không Ty? Charles có liên quan đến vụ này, phải không? Dính líu sâu hơn những gì anh nói?”
“Đúng vậy.”
“Chồng tôi...” - Karen cười chán nản. - “Anh ấy luôn luôn đi ngược đường. Anh ấy luôn tự gọi mình là người lội ngược dòng. Một cái tên rất kêu cho những ai tự cho là mình thông minh hơn bất cứ người nào khác. Ty, dẫu kế hoạch anh vạch ra có thế nào thì xuống đó anh vẫn phải rất cẩn thận.”
“Tôi là cảnh sát mà Karen.” - Hauck nói. - “Đây là việc cảnh sát phải làm.”
“Không, Ty, việc của cảnh sát là bắt người khi người đó có dính líu đến việc phạm tội. Tôi không biết anh sẽ làm gì ở dưới đó, nhưng điều tôi biết rất rõ là một phần trong đó là vì tôi. Và điều đó khiến tôi sợ, Ty. Anh hứa không được làm hỏng việc đâu nhé. Được không?”
Hauck mở tập hồ sơ và nhìn chăm chăm vào bộ mặt Dietz. “Được. ”
; |